Chiến lược mở cửa để đưa dần nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện cách đây hơn 13 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chính sách mở cửa là (chủ trương) những giải pháp thu hút FDI, đặc biệt quan trọng là chính sách, các giải pháp nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thu hút FDI vào lĩnh vực phát triển hàng xuất khẩu không chỉ nhằm tăng thêm vốn đầu tư phát triển sản xuất mà còn tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nước nhà những máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần ổn định nền tài chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy kinh tế phát triển
Chính vì vậy, việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam trước thềm thế kỳ 21. Đồng thời cũng là nhân tố quan trọng để đưa đất nước ta từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp, để đưa chủ trương của Đảng ta xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh sớm trở thành hiện thực
43 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phân tích tổng thể về đặc điểm, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Chiến lược mở cửa để đưa dần nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện cách đây hơn 13 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chính sách mở cửa là (chủ trương) những giải pháp thu hút FDI, đặc biệt quan trọng là chính sách, các giải pháp nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thu hút FDI vào lĩnh vực phát triển hàng xuất khẩu không chỉ nhằm tăng thêm vốn đầu tư phát triển sản xuất mà còn tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nước nhà những máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần ổn định nền tài chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy kinh tế phát triển…
Chính vì vậy, việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam trước thềm thế kỳ 21. Đồng thời cũng là nhân tố quan trọng để đưa đất nước ta từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp, để đưa chủ trương của Đảng ta xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh sớm trở thành hiện thực.
2. Mục đích của đề tài.
Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá khái quát và phân tích tổng thể về đặc điểm, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng, xác định tiềm năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam nói riêng. Từ nội dung nghiên cứu về những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xuất khẩu hàng hoá để rút ra những bài học thực tiễn góp phần nhỏ bé vào công cuộc phát triển hàng xuất khẩu của nước nhà. Qua đây làm sáng tỏ quá trình thu hút có kết quả FDI tại Việt Nam.
Đề án phân tích cụ thể những giải pháp đầy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI. Qua đó nhằm đưa ra những đề xuất phát triển cho các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Kết cấu của đề án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo … đề án gồm 3 phần.
Phần I: Lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
Phần II: Thực trạng thực hiện xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thời gian vừa qua.
Phần III: Một số giải pháp trong việc đầy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong thời gian tới.
Nội dung
Phần I: Lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
I. Vai trò xuất khẩu đối với nền kinh tế.
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ của nước này đối với nước khác và ngoại tệ được lấy làm phương tiện thanh toán. Sự mua bán trao đổi này là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lấn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia là cần thiết vì lý do cơ bản là khai thác được lợi thế so sánh của các nước xuất khẩu và mở ra tiêu dùng trong nước xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế có điều kiện không gian và thời gian . Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà nó có một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Song hoạt động mua bán ở đây có những sự khác biệt phức tạp hơn mua bán trong nước, các chủ thể thực hiện hành vi mua bán có các quốc tịch khác nhau và hàng hoá để mua bán được tới một quốc gia khác.
Một thực tế cho thấy một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng lẻ tự cung tự cấp mà có thể đầy đủ. Nền thương mại quốc tế có tính chất sống còn cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng để có số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn, có thể tiêu thụ cùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước cao hơn khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một nhiều hơn, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đầy nhu cầu mậu dịch và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động trao đổi mua bán với quốc gia khác. chuyên môn hoá là biểu hiện sinh động của quy luật lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Quy luật này cũng khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hơn vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại có lợi cho cả hai bên.
Sự khác biệt nhau về sản xuất cũng giải thích phần nào việc buôn bán giữa các nước, nên sẽ có lợi thế khi mỗi nước chuyên môn hoá để sản xuất các mặt hàng thích hợp cho xuất khẩu và nhập các mặt hàng cần thiết từ các nước khác nhau. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm.
Hoạt động xuất khẩu có thị trường khá rộng, khó kiểm soát, thành phần trung gian trong hoạt động xuất khẩu chiếm tỷ trọng khá lớn, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu. Các quốc gia khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu đều phải tuân theo các tập quán thông lệ quốc tế cũng như các quy định ở địa phương nơi họ đưa hàng hoá đến. Đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh hoặc đổi lại hàng hoá.
Hoạt động xuất khẩu ở nước ta là một trong những vấn đề được coi trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Do vậy Đảng và Nhà nước đã có chủ trương mở rộng, phát triển kinh tế đối ngoại trong đó chú trọng đến lĩnh vực thương mại hàng hoá dịch vụ.
2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu dể tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay Việt Nam đã ký thiết lập quan hệ ngoại giao với 165 quốc gia và có quan hệ buôn bán với trên 100 nước, hợp tác đầu tư với hơn 50 nước. Trong quá trình phát triển kinh tế đối ngoại Việt Nam rất coi trọng quan hệ xuất khẩu, bởi.
Thứ nhất, xuất khẩu tạo Việt Nam chủ yếu khó xuất khẩu va tích luỹ phát triển sản xuất phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn, đói hỏi phải có số vốn rất lớn để xuất khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Việt Nam để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, vay viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động… các nghiệp vụ như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… tuy quan trọng, nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng nhập khẩu nguồn vốn duy nhất để trả nợ – trở thành hiện thực.
Thứ hai, đầy mạnh xuất khẩu được xem như là một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế, việc đầy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề kinh tế khác phát triển theo kết quả tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Chẳng hạn như gia công hàng may mặc xuất khẩu phát triển, kéo theo sự phát triển của ngành dệt, ngành trồng bông, các ngành sản xuất phụ kiện phục vụ cho gia công… hoặc phát triển xuất khẩu gạo, chẳng hạn những ngành trồng lúa thựchiện mở rộng diện tích, tăng vụ để tăng sản lượng gạo xuất khẩu, mà các ngành khác như dệt bao đay để đựng gạo, ngành trồng đay, ngành xay xát, ngành chăn nuôi đều phát triển theo.
Thứ ba, xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiệt bị và công nghệ sản xuất: Bởi vậy để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách chất lượng sản phẩm thì một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nanag cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Thực tiễn ở ngành may mặc hoặc may da xuất khẩu sau những năm mất đi thị trường Đông ÂU và Liên Xô cho thấy, muốn tìm thị trường mới ở các nước tư bản đòi hỏi hàng loạt những xí nghiệp gia công phải thay đổi máy móc xay xát của ta rất thô sơ, gạo không cần đánh bóng, sàng lọc tấm… thì nay chuyển sang xuất khẩu gạo để đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thì hệ thống máy xay xát phải thay đổi.
Thứ tư, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nên chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. Hai là coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuộc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu hhcủa ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đỏi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.
- Xuất khẩu còn đỏi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
Năm là, xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu thúc đẩy qua hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế. Mặt khác nó còn góp phần nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Nhờ khả năng xuất khẩu dầu thô và gạo của chúng ta lớn mà nhiều nước muốn thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư với ta.
Sáu là, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng hoá xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
II. Xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI.
1. Doanh nghiệp FDI.
1.1. Khái niệm:
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích làm tăng giá trị ts của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp sử dụng vốn dưới dạng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức cá nhân nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
1.2.Phân loại
Đầu tư nước ngoài được thông qua nhiều hình thức như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC), cho thuê thiết bị.
Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài còn được đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Dưới hình thức sẽ là 2 loại hình doanh nghiệp FDI phổ biến nhất.
* Liên doanh: Là hình thức đầu tư do hai bên cùng nhau góp vốn theo một tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành riêng và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ăn chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp.
Về thực chất đấy là sự chung vốn giữa nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài với nhà đầu tư nước sở tại để hình thành nên một doanh nghiệp thống nhất về cơ cấu tổ chức, kinh tế kỹ thuật. Nói cụ thể hơn, đó là sự góp riêng thành một vốn chung, tạo nên một cơ sở vật chất chung để thực hiện một nhiệm vụ chung, cùng hưởng lãi và chịu sẻ rủi ro theo phần vốn góp.
Hình thức này thường được tiến hàh khi cả hai bên cùng có lợi. Đó là lúc mà nhà đầu tư nước ngoài cần dựa vào đối tác nước sở tại để có thể tiếp xúc với môi trường đầu tư mới khi mà họ chưa thật sự hiểu biết nhiều về nó, một nơi mà tuy hứa hẹn nhiềm tiềm năng nhưng rất có thể cũng ẩn chưa nhiều rủi ro và nguy cơ.
Hình thức liên doanh cũng giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài có thể nhanh chóng giải quyết các thủ tục cần thiết cho việc đầu tư. Có thể nói bằng hình thức này họ đã tạo ra được một “Tay trong”, người am hiểu về luật pháp, thông lệ và tập quán của nước sở tại, và là một yếu tố quan trọng giúp họ nhanh chóng thực hiện được nguyện vọng đầu tư của mình, điều mà một mình họ khó có thể thực hiện được. Còn nhà đầu tư trong nước cần đủ vốn để họ được phép kinh doanh trong những ngành nghề có mức vốn tối thiểu theo quy định, cần khoa học công nghệ và cả kinh nghiẹm quản lý, thông tin về thị trường, về bạn hàng… do đó hình thức hùn vốn kinh doanh là hình thức được cả hai bên lựa chọn, đặc biệt là khi bắt đầu đầu tư vào thị trường mới. Chính phủ các quốc gia chậm phát triển rất cọi trọng hình thức này vì nó giúp nước sở tại tiến bộ nhanh về nhiều mặt như tạo thêm công ăn việc làm, giúp tiếp thu công nghệ mới, phương pháp quản lý hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong làm việc công nghiệp. Hơn nữa, sự có mặt trực tiếp của thành viên nước sở tại có thể nắm bắt được ý đồ đầu tư của các chủ tư bản nước ngoài và kịp thời điều hành nếu hoạt động của doanh nghiệp này làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến lợi ích của người lao động nước mình…..đồng thời cũng thông qua hoạt động điều hành quản lý doanh nghiệp mà có thể nhanh chóng nắm bắt được thị trường, được bạn hàng quen của các chủ đầu tư nước ngoài để có thể vươn lên làm chủ tương lai.
* Đầu tư độc lập, tạo ra các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là hình thức độc lập đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài, là việc các chủ đầu tư nước ngoài bỏ 100% vốn, xây dựng doanh nghiệp của mình trên lãnh thổ của nước sở tại và chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tự mình gánh chịu mọi rủi ro nếu có. Nước sở tại không góp phần vốn nhưng cung cấp cho bên nước ngoài các dịch vụ cần thiết và cho thuê đất đai, sức lao động… Tuy nhiên doanh nghiệp loại này cũng có nhiều loại có loại hoạt động như một doanh nghiệp nội địa có loại hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu mậu dịch tự do.
Mỗi loại hình đầu tư nói trên có những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định đối với nhà đầu tư cũng như đối với nước chủ nhà. Các nhà đầu tư thường thích hình thức độc lập, tức là bỏ 100% vốn để hình thành doanh nghiệp. Nhưng đôi khi độc lập cũng sẽ gây khó khăn và có hi phải gánh giụ nhiều rủi ro đặc biệt khi đầu tư vào một môi trường mới, mà ở đó mọi luật lệ chưa rõ ràng hoặc hay thay đổi. Trong trường hợp này nhà đầu tư thường chọn biện pháp mềm dẻo hơn đó là liên doanh.
Tuy nhiên khi những tính toán này không được các nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận sẽ dẫn đến tình trạng bên đối tác nước ngoài rút lui, đi tìm thị trường đầu tư khác thông thoáng hơn, có lợi cho họ hơn và như vậy mục tiêu đề ra là thu hút FDI sẽ không thực hiện được. Vì thế phải tính toán sao cho cả hai bên cùng có lợi.
2. Mục đích thu hút FDI.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động xuất khẩu, ngay từ thời gian đầu thực hiện đường lối “đổi mới” nền kinh tế với 3 chủ trương kinh tế lớn trong đó có chủ trương sản xuất hàng xuất khẩu. Tại văn kiện hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành Trung ương khoá VII đã khẳng định “Thực hiện chiến lược về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả …” hay “… xuất khẩu càng phát triển khả năng thu hút đầu tư nước ngoài càng lớn ….” đã cho ta thấy một chủ trương nhất quán, một quyết tâm mạnh mẽ mong muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá để phát triển kinh tế đất nước.
* Thu hút FDI nhằm tăng cường thêm nguồn vốn cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu với bất cứ một chương trình kinh tế nào được đề ra, muốn đạt được hiệu quả thì việc đòi hỏi đầu tiền là một hệ thống chủ trương chính sách và pháp luật được đề ra một cách đồng bộ và hoàn chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế trong nước và xu hướng phát triển của thế giới, mặt khác phải có tài chính để triển khai thực hiện chương trình kinh tế đó. Cũng như các chủ trương kinh tế khác, chính sách sản xuất hàng hoá xuất khẩu cũng cần rất nhiều vốn, vốn cho xúc tiến thương mại.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nhiều khó khăn, nhất là thiếu vốn cho nhiều nhu cầu của nền kinh tế thì việc dành vốn cho chủ trương sản xuất hàng hoá xuất khẩu là một việc không đơn giản. Do đó Nhà nước ta đã có chủ trương kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Chính vì ưu tiên cho chủ trương sản xuất hàng xuất khẩu cho nên trong các điều khoản của đường lối chính sách đã quy định các mức độ khác nhau về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm đối với các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
Các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy ở thị trường Việt Nam có một đội ngũ lao động hùng hậu, có trình độ văn hoá, có tay nghề ở mức chấp nhận được và có mức lượng khá thấp so với các nước trong khu vực. Mặt khác Việt Nam có ưu thế là một nước giầu tài nguyên, thiên nhiên ưu đãi, có vị trí địa lý thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán và có chế độ chính trị ổn định. Đây là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của thị trường tư Việt Nam so với các nước trong khu vự và trên thế giới.
Để đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu, Nhà nước Việt Nam đã giành nhiều ưu tiên cho các nhà đầu tư nước ngoài như ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, ưu đãi về các khoản trích nộp lợi nhuận … Nhà nước đã thành lập ra các khu công nghiệp, các khu chế xuất với một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh như: đường giao thông, hệ thống điện nước, thông tin liên lạc… và các biện pháp quản lý thông thoáng để các nhà đầu