Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước vượt qua giai đoạn khó khăn của giai đoạn đầu hội nhập kinh tế thế giới cũng như thoát ra khỏi ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng Tài chính – kinh tế trong thời gian vừa qua, từ đó đặt nền tảng cho sự phát triển, hội nhập sâu rộng và bền vững cho nền kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng găy gắt, việc hoàn thiện và phát triển đồng bộ các nghiệp vụ là hướng đi và phương châm cho các ngân hàng tồn tại và phát triển. Và xét cho cùng đây chính là sự đáp ứng cho yêu cầu hiện đại hoá, đa dạng hoá hoạt động ngân hàng và xu thế hội nhập của nền kinh tế. Khi tham gia các giao dịch kinh tế, nếu các đối tác của doanh nghiệp, đặc biệt là các đối tác nước ngoài, không hoàn toàn tin t-ưởng vào doanh nghiệp, họ thường yêu cầu một bên thứ ba có uy tín đứng ra đảm bảo cho doanh nghiệp về khả năng hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng kí kết. Và các ngân hàng là nơi mà doanh nghiệp tìm đến nhiều nhất. Ngân hàng cam kết với bên đối tác sẽ bồi thường cho họ nếu doanh nghiệp vi phạm các điều khoản trong hợp đồng kinh tế, giúp các doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình tr¬ước bạn hàng.Nghiệp vụ bảo lãnh xuất hiện và ngày càng phát triển từ đòi hỏi đó của thị trường. Nghiệp vụ này tuy không còn quá mới mẻ với các ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn nói riêng nhưng vẫn chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng và vai trò của nó đối với nền kinh tế. Nhận thức được vấn đề trên, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội, tôi quyết định chọn đề tài “Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội” để nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề xung quanh nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội.
Nội dung nghiên cứu
Ch¬ương 1: Các vấn đề lý luận về phát triển bảo lãnh của Ngân hàng.
Ch¬ương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Agribank Nam Hà Nội.
Ch¬ương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh tại Agribank Nam Hà Nội.
96 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước vượt qua giai đoạn khó khăn của giai đoạn đầu hội nhập kinh tế thế giới cũng như thoát ra khỏi ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng Tài chính – kinh tế trong thời gian vừa qua, từ đó đặt nền tảng cho sự phát triển, hội nhập sâu rộng và bền vững cho nền kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng găy gắt, việc hoàn thiện và phát triển đồng bộ các nghiệp vụ là hướng đi và phương châm cho các ngân hàng tồn tại và phát triển. Và xét cho cùng đây chính là sự đáp ứng cho yêu cầu hiện đại hoá, đa dạng hoá hoạt động ngân hàng và xu thế hội nhập của nền kinh tế. Khi tham gia các giao dịch kinh tế, nếu các đối tác của doanh nghiệp, đặc biệt là các đối tác nước ngoài, không hoàn toàn tin tưởng vào doanh nghiệp, họ thường yêu cầu một bên thứ ba có uy tín đứng ra đảm bảo cho doanh nghiệp về khả năng hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng kí kết. Và các ngân hàng là nơi mà doanh nghiệp tìm đến nhiều nhất. Ngân hàng cam kết với bên đối tác sẽ bồi thường cho họ nếu doanh nghiệp vi phạm các điều khoản trong hợp đồng kinh tế, giúp các doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình trước bạn hàng.Nghiệp vụ bảo lãnh xuất hiện và ngày càng phát triển từ đòi hỏi đó của thị trường. Nghiệp vụ này tuy không còn quá mới mẻ với các ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn nói riêng nhưng vẫn chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng và vai trò của nó đối với nền kinh tế. Nhận thức được vấn đề trên, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội, tôi quyết định chọn đề tài “Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội” để nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề xung quanh nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội.
Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Các vấn đề lý luận về phát triển bảo lãnh của Ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Agribank Nam Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh tại Agribank Nam Hà Nội.
CHƯƠNG I : CÁC VẤN ĐỀ VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá: Các ngân hàng thương mại xuất hiện trong nền kinh tế với tư cách là các nhà tổ chức trung gian, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có dư thừa và trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh tế có nhu cầu tức là luân chuyển vốn một cách gián tiếp. Hệ thống ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động rộng rãi vì nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tuỳ theo cách tiếp cận mà có các quan điểm khác nhau về NHTM, điều đó còn phụ thuộc vào tính chất và mục tiêu của nó trên thị trường tài chính của từng nước.
w Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp: Một doanh nghiệp đặc biệt – hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
w Theo quan điểm của các nhà kinh tế Hoa Kỳ.
Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
w Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp.
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
w Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại có thể hiểu tổng quát: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Sự hình thành và phát triển của hoạt động bảo lãnh
Với tư cách là một dạng nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại, bảo lãnh xuất hiện đầu tiên tại Mỹ vào giữa những năm 60 trong các giao dịch nội địa và bắt đầu được sử dụng trong thương mại quốc tế vào đầu năm 70. Vào thời gian gia này các quốc ở Trung Đông liên tục kí kết các hợp đồng kinh tế lớn với các nước phương Tây để thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, quốc phòng, công nông nghiệp. Giá trị của hợp đồng và thế mạnh về tài chính của các nước Trung Đông cho phép họ đòi hỏi một sự đảm bảo chắc chắn về phía bạn hàng khi tham gia các giao dịch kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu này ngân hàng các nước phương Tây đã phát hành các bảo lãnh độc lập. Những bảo lãnh độc lập này thực sự đã đáp ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các quốc gia nhập khẩu. Doanh số của nghiệp vụ bảo lãnh tăng nhanh một cách đáng kể. Từ đó đến nay bảo lãnh ngân hàng ngày càng được sử dụng rộng rãi đặc biệt là những giao dịch có giá trị lớn trong nước cũng như quốc tế.
Tại Việt Nam vào những năm 90 khi bắt đầu hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực thì hoạt động bảo lãnh ngân hàng hình thành là một tất yếu khách quan. Thời kì này do chưa được ứng dụng nhiều nên cũng chưa có một hệ thống văn bản điều chỉnh chặt chẽ, các hoạt động bảo lãnh diễn ra tùy tiện và thiếu hiệu quả. Ngày 17/9/1992, Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết Định số 192/NH-QĐ về bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Tiếp đó là Quyết định số 196/QĐ-NH14 ngày 16/09/1994 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triến thì hoạt động bảo lãnh càng đa dạng, phí dịch vụ từ bảo lãnh đã đem lại cho các ngân hàng khoản thu nhập không nhỏ. Ngày 25/08/2000, quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ra đời thay thế cho qui chế bảo lãnh trước đây. Gần đây nhất là quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN sửa đổi quyết định số 283. Các qui định về bảo lãnh đã được sửa đổi phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển.
1.2.2 Khái niệm về bảo lãnh Ngân hàng
1.2.2.1. Khái niệm bảo lãnh Ngân hàng
Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như một kỹ thuật tài trợ ngoại thương nhằm chống đỡ những rủi ro mà người thụ hưởng bảo lãnh phải gánh chịu do sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh.
Theo từ điển pháp luật của Mỹ thì bảo lãnh là một thỏa thuận mà theo đó người bảo lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ của bên nợ chỉ khi bên nợ không trả nợ, là việc bên bảo lãnh bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện.
Theo bộ luật dân sự Việt Nam điều 336 thì bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ..
Theo luật các TCTD, bảo lãnh ngân hàng được hiểu là một trong các hình thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của TCTD với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy,các loại văn bản được thiết lập có liên quan trong quan hệ bảo lãnh đó là: hợp đồng kinh tế, hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh. Hợp đồng kinh tế là hợp đồng được kí kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng, là cơ sở để thiết lập các hợp đồng tiếp theo. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh. Thư bảo lãnh được thực hiện nhằm ràng buộc giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh độc lập với hợp đồng kinh tế. Mục đích của bảo lãnh là bồi thường cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng việc thanh toán chỉ dựa vào những điều khoản, điều kiện trong hợp đồng bảo lãnh. Cho dù người được bảo lãnh trên thực tế có thực hiện hợp đồng hay không và ngời thụ hưởng có quyền thông báo về những thiệt hại xảy ra hay không, mức thiệt hại thực tế là bao nhiêu, cũng không ảnh hưởng hoặc liên quan đến hợp đồng bảo lãnh giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh. Điều đó có nghĩa là một khi các điều kiện qui định trong hợp đồng bảo lãnh được thỏa mãn về mặt pháp lý thì người thụ hưởng không cần thiết phải chứng minh vi phạm của người được bảo lãnh mà chỉ cần lập các chứng từ theo như yêu cầu của bảo lãnh. Trách nhiệm thanh toán của ngân hàng cũng độc lập với những thỏa thuận giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng. Khi các điều kiện thanh toán được đáp ứng thì ngân hàng không có quyền viện dẫn bất cứ lí do gì để từ chối hoặc có thể hợp đồng kinh tế thay đổi cũng không ảnh hưởng gì đến hợp đồng bảo lãnh.
- Dựa vào biểu hiện bên ngoài thì việc bảo lãnh có ba bên bao gồm bên bảo lãnh, bên thụ hưởng bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong BLNH được thể hiện như sau:
* Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh là mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Trong mối quan hệ này, người được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện đối với bên thụ hưởng bảo lãnh. Nghĩa vụ đó có thể là nghĩa vụ tài chính như nghĩa vụ trả nợ cũng có thể là nghĩa vụ phi tài chính như bảo hành sản phẩm hay cung cấp thiết bị…Tuy nhiên nghĩa vụ này không được thực hiện ngay lập tức có thể do khó khăn tạm thời về tài chính hay không muốn ứ đọng vốn… người được bảo lãnh muốn gia hạn nợ trong một khoảng thời gian nhất định. Trong khi đó người thụ hưởng lại không hoàn toàn tin tưởng vào bạn hàng của mình cho nên họ yêu cầu có một sự đảm bảo chắc chắn cho việc thực hiện hợp đồng, họ yêu cầu bảo lãnh của ngân hàng.
* Quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh là quan hệ dịch vụ bảo lãnh trong đó ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng hưởng tín dụng. Bảo lãnh ngân hàng đưa ra những cam kết bằng chứng thư và hạch toán theo dõi ngoại bảng vì trên thực tế chưa sử dụng vốn ngay để cho vay.Như vậy, bảo lãnh ngân hàng được coi như là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp.
* Quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh : ngân hàng cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ đối với người thụ hưởng bảo lãnh thay cho người được bảo lãnh nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã kí kết. Khi có được cam kết với người được bảo lãnh ngân hàng sẽ phát hành thư bảo lãnh để bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng bảo lãnh.
- Phân biệt bảo lãnh và bảo hiểm :
Bảo lãnh thường do ngân hàng thực hiện còn bảo hiểm do công ty bảo hiểm thực hiện.
Bảo lãnh nhằm chống đỡ rủi ro và đền bù những thiệt hại khi có rủi ro xảy ra còn bảo hiểm chỉ nhằm khắc phục những thiệt hại chứ không có tác dụng phòng ngừa rủi ro.
Bảo lãnh dùng chính tiền của người gây ra vi phạm để bù đắp cho người bị thiệt hại còn bảo hiểm phân chia tổn thất của người nhận tiền bảo hiểm cho những người tham gia bảo hiểm.
Khi thanh toán, bảo lãnh thực hiện thanh toán theo yêu cầu đầu tiên còn bảo hiểm cần có một khoảng thời gian để thu thập đủ bằng chứng và xác minh mức độ thiệt hại thực tế.
- Phân biệt nghiệp vụ bảo lãnh và tín dụng chứng từ :
Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư gọi là L/C, theo đó ngân hàng phát hành cam kết sẽ trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho nhà xuất khẩu khi người này xuất trình cho ngân hàng phát hành bộ chứng từ thanh toán phù hợp với điều khoản và điều kiện của L/C.
Như vậy, L/C là hợp đồng kinh tế độc lập chỉ của hai bên là người thụ hưởng và ngân hàng phát hành, ngân hàng phát hành đại diện cho khách hàng của mình, tiếng nói chính thức của người mở L/C không được thể hiện trong L/C. Còn hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành, giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành chỉ có ràng buộc bởi một thư bảo lãnh do ngân hàng đơn phương phát hành.
Trong L/C, ngân hàng phát hành không chỉ đóng vai trò là người thu hộ , chi hộ mà còn là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, đảm bảo cho nhà xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ đã cung ứng; đồng thời đảm bảo cho nhà nhập khẩu nhận được số lượng và chất lượng hàng do bộ chứng từ đại diện và tương ứng với số tiền mình đã bỏ ra. Còn bảo lãnh ngân hàng chỉ đơn thuần là ngân hàng dùng uy tín của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ hoàn thành hợp đồng của bên được bảo lãnh và bù đắp phần nào rủi ro cho bên thụ hưởng. Có nghĩa là với hình thức tín dụng chứng từ ngân hàng phát hành phải có nghĩa vụ đầu tiên thanh toán cho người thụ hưởng khi ngươì này xuất trình bộ chứng từ phù hợp, còn với bảo lãnh ngân hàng trách nhiệm thanh toán đầu tiên thuộc về khách hàng trong hợp đồng chính, ngân hàng chỉ thực hiện trách nhiệm của mình khi và chỉ khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của họ.
Thư tín dụng có tính độc lập so với hợp đồng cơ sở và hàng hoá. L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và chỉ căn cứ vào chứng từ , không hề căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá. Còn bảo lãnh chỉ đơn thuần là cam kết bảo lãnh theo yêu cầu và chỉ đề cập tới các tài liệu liên quan trong từng trường hợp cụ thể. Như thế, bảo lãnh ngân hàng rủi ro hơn cho các khách hàng và ít rủi ro cho ngân hàng còn tín dụng chứng từ thì rủi ro hơn cho ngân hàng phát hành và ít rủi ro cho khách hàng.
Nhìn chung hai hình thức này đều là các công cụ tài chính được các doanh nghiệp sử dụng nhiều trong các giao dịch quốc tế. Là công cụ giúp cho các doanh nghiệp hoàn thành tốt các hợp đồng của mình và đem lại những thuận lợi đáng kể
1.2.2.2. Đặc điểm bảo lãnh Ngân hàng
Về thực chất, bảo lãnh là lời hứa thanh toán của Ngân hàng với người được yêu cầu bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bảo lãnh là một công cụ bảo đảm, chứ không phải là công cụ thanh toán. Nghiên cứu đặc điểm của bảo lãnh đưa ra cơ sở phân cho việc phân biệt giữa bảo lãnh với công cụ thanh toán và bảo đảm khác như thư tín dụng, bảo hiểm…
Bảo lãnh ngân hàng có những đặc điểm cơ bản sau:
Tính độc lập tương đối đối với hợp đồng chính
Đây là một đặc điểm quan trọng của bảo lãnh ngân hàng. Mặc dù mục đích của bảo lãnh là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng nó vẫn có sự độc lập tương đối với hợp đồng chính. Việc thanh toán của bảo lãnh chủ yếu căn cứ vào các điều khoản, điều kiện đã được thỏa thuận và quy định trong thư bảo lãnh. Ngân hàng bảo lãnh không thể dựa vào những vấn đề phát sinh trong quan hệ hợp đồng để từ chối nghĩa vụ của mình.
Như vậy, liệu rằng trong thực tế người được bảo lãnh có thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với người nhận bảo lãnh hay không và người nhận bảo lãnh có được quyền bồi thường như đã quy định trong hợp đồng cơ sở hay không? Đây không phải là vấn đề đặt ra đối với các ngân hàng trong quan hệ với người nhận bảo lãnh. Theo đó, khi xem xét yêu cầu đòi tiền của người nhận bảo lãnh, nếu các điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh được thỏa mãn, người nhận bảo lãnh về mặt pháp lý được quyền yêu cầu đòi tiền và không cần thiết phải chứng minh các vi phạm của người được bảo lãnh bằng cách nào khác ngoài các quy định trong thư bảo lãnh.
Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng, tính độc lập của bảo lãnh là phụ thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh. Ví dụ như: nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán là theo văn bản yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ hưởng có thể yêu cầu thanh toán mà không cần một điều kiện nào khác ngoài văn bản yêu cầu. Nhưng nếu bảo lãnh yêu cầu một chứng từ cụ thể như: phán quyết của tòa án, hoặc văn bản của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người được bảo lãnh, văn bản của người được bảo lãnh thừa nhận sự vi phạm của mình thì tính độc lập của bảo lãnh sẽ bị giảm sút.
Đối với các ngân hàng, tính độc lập của bảo lãnh mang lại nhiều thuận lợi. Một khi có yêu cầu đòi tiền theo thư bảo lãnh của người nhận bảo lãnh thì ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra các chứng từ được xuất trình có phù hợp với những điều khoản, điều kiện quy định trong thư bảo lãnh hay không.
Bảo lãnh là một cam kết mang tính chất bảo đảm gián tiếp
Đặc điểm này thể hiện rõ vai trò trung gian của ngân hàng. Ở đây, người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chính là khách hàng (người được bảo lãnh). Còn ngân hàng đứng ra đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của khách hàng. Ngân hàng không phải ngay lập tức sử dụng vốn của mình mà chỉ thực hiện thay khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Xuất phát từ đặc trưng này mà trên thế giới hình thành một số quan điểm khác nhau về bảo lãnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng: tất cả các hình thức mang tính chất bảo đảm gián tiếp của ngân hàng như thư tín dụng trả chậm, thư tín dụng trả ngay…đều được coi là hình thức bảo lãnh. Quan điểm thứ hai cho rằng, một số hình thức kể trên không phải là hình thức bảo lãnh đơn thuần mà nó là các phương tiện thanh toán hay là một hình thức tín dụng.
Trong đề tài này, bảo lãnh ngân hàng được quan niệm là những cam kết mang tính chất đảm bảo gián tiếp của ngân hàng. Như vậy, số dư bảo lãnh sẽ bao gồm tổng số dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng chứng từ, ngoại trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng kí quỹ đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán.
Cam kết bảo lãnh ngân hàng phải được lập bằng văn bản
Bảo lãnh ngân hàng không chấp nhận việc bảo lãnh hoặc đảm bảo bằng miệng. Văn bản bảo lãnh có thể là thư, điện, Telex hoặc ký hậu trên các hối phiếu, lệnh phiếu, giấy nhận nợ…
1.2.3 Vai trò của bảo lãnh Ngân hàng
1.2.3.1Đối với hoạt động Ngân hàng
Nền kinh tế ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ càng cao.Việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ giúp các ngân hàng đứng vững trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nghiệp vụ bảo lãnh ra đời đã góp phần thỏa mãn tốt hơn những đòi hỏi đó. Hơn nữa,Ngân hàng có thể củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống và tiếp cận được với các khách hàng tiềm năng.
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các ngân hàng đã không ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Trong đó dịch vụ bảo lãnh đã đem lại cho các ngân hàng một nguồn thu nhập không nhỏ. Bảo lãnh là nghiệp vụ tín dụng bằng chữ kí vì vậy ngân hàng chỉ cần sử dụng uy tín của mình để thực hiện nghiệp vụ này mà không phải sử dụng vốn ngay. Ngân hàng có thêm cơ hội để sử dụng nguồn vốn đó vào các hoạt động đầu tư khác vì việc giải ngân sẽ chỉ diễn ra trong tương lai khi có những vi phạm xảy ra. Khi khách hàng có yêu cầu bảo lãnh họ cần phải kí quỹ một khoản tiền nhất định, được giữ trong tài khoản phong tỏa. Ngân hàng kiếm lời từ việc thu phí và cũng có thể chiếm dụng vốn mà không cần phải trả lãi.
Điều kiện quan trọng để ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này chính là uy tín của ngân hàng. Uy tín của ngân hàng càng cao thì số lượng cũng như chất lượng các hợp đồng bảo lãnh càng lớn. Điều này có nghĩa rằng khi thực hiện bảo lãnh để tăng thu nhập cho mình các ngân hàng cũng đang nâng cao uy tín và hình ảnh đối với khách hàng.
Ngoài ra, nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện còn thúc đẩy việc mở rộng các nghiệp vụ khác như : thanh toán, chuyển tiền, chuyển đổi và mua bán ngoại tệ trong những hợp đồng kinh tế của khách hàng với nước ngoài.
1.2.3.2 Đối với hoạt động của doanh nghiệp
Đối với người được bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng giúp giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp. Trong những hợp đồng cụ thể, do bên được bảo lãnh chưa đủ uy