Kim loại đã là xương sống của nền văn minh. Đã có rất nhiều vật liệu được nghiên cứu để thay thế kim loại nhưng nó vẫn đóng vai trò lớn trong việc sản xuất, xây dựng và có khả năng làm như vậy trong nhiều năm nữa. Điều này là do kim loại là sự kết hợp của một số thuộc tính hữu ích như sức mạnh, khả năng hoạt động, chi phí thấp và khả năng được tái chế. Tuy nhiên, kim loại được chiết xuất từ quặng của nó bằng hóa chất hoặc phương tiện sử dụng điện nhưng nó cho thấy một xu hướng mạnh mẽ để trở lại dạng oxit của kim loại tức là có xu hướng ăn mòn và hiện tượng này tạo ra một thiệt hại kinh tế to lớn là một trong những thách thức cũng như yêu cầu đặt ra cho chúng ta.
Các phương pháp phòng chống ăn mòn rất nhiều và đa dạng. Những phương pháp này có thể như:
- Thay đổi về kim loại bằng hợp kim.
- Thay đổi điều kiện của môi trường bằng cách sử dụng chất ức chế.
- Sử dụng các lớp màng phủ để bảo vệ bề mặt kim loại.
- Trong phạm vi nghiên cứu, đồ án tập trung vào việc nghiên cứu phương pháp sử dụng lớp màng phủ- mà ở đây cụ thể là màng phủ phosphat.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phosphat hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
MỞ ĐẦU
Kim loại đã là xương sống của nền văn minh. Đã có rất nhiều vật liệu được nghiên cứu để thay thế kim loại nhưng nó vẫn đóng vai trò lớn trong việc sản xuất, xây dựng và có khả năng làm như vậy trong nhiều năm nữa. Điều này là do kim loại là sự kết hợp của một số thuộc tính hữu ích như sức mạnh, khả năng hoạt động, chi phí thấp và khả năng được tái chế. Tuy nhiên, kim loại được chiết xuất từ quặng của nó bằng hóa chất hoặc phương tiện sử dụng điện nhưng nó cho thấy một xu hướng mạnh mẽ để trở lại dạng oxit của kim loại tức là có xu hướng ăn mòn và hiện tượng này tạo ra một thiệt hại kinh tế to lớn là một trong những thách thức cũng như yêu cầu đặt ra cho chúng ta.
Các phương pháp phòng chống ăn mòn rất nhiều và đa dạng. Những phương pháp này có thể như:
Thay đổi về kim loại bằng hợp kim.
Thay đổi điều kiện của môi trường bằng cách sử dụng chất ức chế.
Sử dụng các lớp màng phủ để bảo vệ bề mặt kim loại.
Trong phạm vi nghiên cứu, đồ án tập trung vào việc nghiên cứu phương pháp sử dụng lớp màng phủ- mà ở đây cụ thể là màng phủ phosphat.
: TỔNG QUAN
Phosphat hóa là một phương pháp gia công bề mặt kim loại được áp dụng rộng rãi trong công nghiệp để xử lý bề mặt kim loại, được coi là một trong những phương pháp chuẩn bị bề mặt kim loại tốt nhất trước khi sơn phủ hoặc nhúng dầu mỡ nhằm bảo vệ các chi tiết kim loại đen.
Màng phosphat hoá chuyển hoá bề mặt kim loại thành một lớp bề mặt mới không còn tính dẫn điện và tính kim loại, có khả năng chống ăn mòn. Nhờ các tính chất đó người ta tạo ra công nghệ phosphat hoá để sử dụng trong các nhà máy xử lý bề mặt kim loại.
Mục đích
Cải thiện bề mặt kim loại trước khi sơn phủ, sơn lót chống ăn mòn.
Tạo sự bám dính cho lớp phủ nhựa, cao su.
Để xử lý bề mặt kim loại trước khi gia công cơ khí như là cán nguội, kéo dây...
Để tăng khả năng chống ăn mòn của các lớp dầu mỡ, sáp....
Tác dụng
Tác dụng phổ biến nhất của nó trong thực tiễn là nhằm kéo dài tuổi thọ màng sơn phủ. Nếu nền kim loại khá trơ với các vật liệu sơn phủ thì lớp phosphat hóa tạo ra lớp màng có nhiều lỗ xốp bám rất chắc với nền kim loại. Lớp này lại “thấm” sơn và như thế tạo thành lớp phủ đặc chắc gắn rất tốt với nền.
Trong trường hợp này chức năng của màng phốtphát hoá là:
Liên kết với nền kim loại.
Lớp nền của màng sơn.
Làm tăng độ bền bám của màng sơn.
Chống ăn mòn dưới lớp sơn.
Khi sử dụng màng phốtphát hóa làm lớp nền cho chất dẻo thì màng phốt phát hóa có tính năng và cơ chế tương tự như trên.
Ứng dụng
Ở các nước công nghiệp phát triển việc xử lý bề mặt trước khi sơn phủ là việc làm theo tiêu chuẩn bắt buộc để tăng cường độ bám của màng sơn cũng như tăng cường khả năng bảo vệ của màng trong điều kiện khí quyển.
Trong công nghiệp được sử dụng phổ biến nhất là màng phốtphát hoá của các kim loại nặng như kẽm, sắt, măng gan. Các chế phẩm để xử lý bề mặt đều ở dạng thương phẩm rất thuận tiện cho người sử dụng.
LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUÁ TRÌNH PHOSPHAT HÓA
STT
Năm
Tiến bộ được thực hiện / quá trình phát triển
1
1906
Phosphat sắt thép sử dụng axit photphoric và mạt sắt
2
1908
Xử lý lớp phủ phosphate với tác nhân oxy hóa để giảm thời gian quy trình
3
1909
Xây dựng bể phủ phosphat chịu được nhiệt độ cao
4
1911
Quá trình mangan phủ phosphat ở nhiệt độ cao
5
1928
Công nhận lớp phủ phosphat như công nghệ sơn
6
1929
Sử dụng các tác nhân xúc tác đồng cho quá trình phủ
7
1933
Sử dụng các tác nhân oxy hóa để tăng tốc cho quá trình phủ
8
1934
Sử dụng lớp phủ phosphat cho việc giảm nhiệt kim loại
9
1940
Phát triển công nghệ phosphat hóa nguội.
10
1941
Phosphat bề mặt nhôm sử dụng kẽm phosphate và florua.
11
1950s
Lớp phủ mangan được sử dụng và ứng dụng rỗng rãi
12
1960s
Sử dụng các phụ gia đặc biệt để kiểm soát trọng lượng lớp phủ.
13
1960s
Quá trình phun phủ ở nhiệt độ 25-30o
14
1970s
Cải thiện chất lượng lớp phủ, sử dụng các chất tẩy rửa phun dựa trên công nghệ bề mặt.
CƠ CHẾ HÌNH THÀNH LỚP PHỦ
Dung dịch phosphat hóa thường được sử dụng trong công nghiệp là cá dung dịch loãng của: kẽm phosphat, mangan phosphat, kẽm- sắt phosphat Kim loại nền thường được sử dụng là sắt, thép hay thép tráng kẽm.
Trong quá trình phosphat hóa bề mặt kim loại được tiếp xúc trực tiếp với dung dịch phosphat hóa. Tại lớp dung dịch ngay sát lớp bề mặt kim loại sẽ xảy ra phản ứng giữa kim loại nền và dung dịch phosphat hóa. Quá trình hình thành và tích chất của lớp phủ phụ thuộc vào phản ứng này cũng như qua trình trao đổi giữa lớp bề mặt kim loại với toàn khối dung dịch phosphat hóa.
Cân bằng trong dung dịch phosphat hóa.
Sự hình thành lớp phủ phụ thuộc vào cân bằng giữa muối dihidro photsphat tan và phosphat không tan trong dung dịch phosphat hóa.
Trong dung dịch phosphat hóa tồn tại các cân bằng sau
3M(H2PO4)2 3MHPO4 + 3H3PO4 (1)
3MHPO4 M3(PO4)2 + H3PO4 (2)
3M(H2PO4)2 M3(PO4)2 + 4H3PO4 (3)
Các cân bằng này bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhiệt độ cũng như PH của dung dịch. Ở nhiệt độ càng cao thì cân bằng (3) càng chuyển dịch mạnh về bên phải.
Khi kim loại tiếp xúc với dung dịch phosphat hóa phản ứng giữ kim loại và dung dịch xảy ra
M + H3PO4 M(PO4)2 + H2(4)
Phản ứng này làm giảm nồng độ axit trong dung dịch từ đó làm cân bằng của (2) và (3) dịch chuyển về phía tạo kết tủa phosphat trên bề mặt kim loại.
Động học của quá trình tạo lớp phủ
Sự hình thành lớp phủ phosphat hóa trên bề mặt kim loại không chỉ phụ thuộc vào yếu tố động lực học mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố động học như tốc độ hòa tan kim loại nền, tốc độ tạo mầm tinh thể, tốc độ phát triển tinh thể, tốc độ khuếch tán các ion trong dung dịch.
Khi phản ứng trung hòa trên bề mặt kim loại xảy ra, nông độ axit tại lớp dung dịch sát bề mặt kim loại giảm tạo nên lớp dung dịch quá bão hòa các phosphat kim loại ít tan. Tuy nhiên quá trình tạo phosphat trên bề mặt kim loại chỉ xảy ra khi có đủ số lượng mầm tinh thể kết tinh ở lớp tiếp xúc giữa kim loại và dung dịch. Trong quá trình kết tủa, lớp tinh thể phosphat phát triển theo trật tự xác định bởi bề mặt kim loại.
Quá trình hình thành lớp phủ chia làm 4 giai đoạn
Giai đoạn ủ mầm.
Giai đoạn phát triển mầm.
Giai đoạn tăng nhanh khối lượng màng.
Giai đoạn kết thúc quá trình tạo màng.
Trong giai đoạn đầu, quá trình hòa tan kim loại diễn ra, pH dung dịch tăng dần đến điểm trung hòa, nồng độ của các phần tử tạo lớp phủ ở lớp dung dịch sát bề mặt bề mặt kim loại dần dần trở nên quá bão hòa. Ngay khi trạng thái quá bão hòa giả bền bị phá vớ, quá trình hình thành mầm tinh thể được phát triển, giai đoạn kết tinh thứ hai xảy ra. Lúc này quá trình hòa tan kim loại và phát triển tinh thể xả ra song song với nhau. Khối lượng lớp phủ được tăng nhanh. Tùy theo từng điều kiện cụ thể quá trình này có thể nhanh chóng dừng lại hay được tiếp tục trong một khoảng thời gian nữa. Sau đó, quá trình tạo lớp phủ sẽ chậm dần và chấm dứt khi bề mặt của kim loại được che phủ bởi lớp tinh thể làm cho phản ứng hòa tan không thể xảy ra.
Thuyết điện hóa về quá trình hình thành lớp phủ:
Quá trình phosphat hóa có thể được coi là một quá trình điện hóa. Khi tiến hành phosphat hóa bề mặt kim loại, giai đoạn đầu là giai đoạn hòa tan anod theo phương trình phản ứng:
M→M2+ + 2e-
Trong khi đó ở cathod xảy ra quá trình nhận electron của H+
2H+ + 2e- →H2
Phần lớn diện tích bề mặt của kim loại đóng vai trò anod trong khi vùng cathod giới hạn trong các vùng biên của các hạt tinh thể, các hạt oxit còn sót trên bề mặt kim loại. Quá trình ăn mòn xảy ra nhanh tạo thành một lượng lớn ion kim lại tại lớp dung dịch sát vùng anod. Cùng lúc, một lượng tương đương ion H+ bị khử thành H2 tại cathod làm giảm nhanh nồng độ H+ tại vùng này. Tốc độ của quá trình khuếch tán H+ từ lớp dung dịch ngoài vào cũng như quá trình khuếch tán của ion kim loại từ lớp dung dịch bên trong ra không theo kịp tốc độ hòa tan kim loại và khử H+ dẫn đến việc kết tủa phosphat kim loại trên bề mặt của các vùng cathod. (Lý thuyết này được kiểm định thông qua quá trình kiểm định hóa bề mặt kim loại trong quá trình phosphat hóa bằng dòng điện bên ngoài: Sự phân cực cathod làm tăng tốc độ hình thành lớp phủ trong khi sự phân cực anod làm tăng lượng kim loại hòa tan nhưng không làm tăng tốc độ hình thành lớp phủ).
Quá trình hình thành lớp phủ phosphat được thể hiện qua sơ đồ sau:
Phản ứng điện cực cần thiết cho sự tạo thành lớp phủ sẽ chậm dần khi lớp phủ phát triển do lớp phủ phosphat có tính chất cách điện làm giảm cản quá trình khử H+ tại cathod và quá trình hòa tan kim loại anod. Nói cách khác, quá trình hình thành lớp phủ phosphat hóa là quá trình hòa tan kim loại tại anod. Nói cách khác, quá trình hình thành lớp phủ phosphat hóa là quá trình tự thụ động hóa bề mặt kim loại . Quá trình này thể hiện qua việc dịch chuyển thể hiện cực dần về phía anod trong quá trình phosphat hóa.Sự thay đổi thế này tuân theo phương trình tự thụ động của Muller và Konopiky.
T= M + NlogEme-EtEt-Es
Trong đó: T là thời gian phosphat hóa, EMe thể ban đầu và E1 thể sau thời gian t, E8 là thể ổn định sau cùng khi hoàn thành quá trình phosphat. M và N là hằng số. Sự khác biệt giữa EMe và thể ES trong thực tế vào khoảng 0.15 đến 0.2 volt cho thấy lớp phủ phosphat khi hoàn chỉnh vẫn có độ xốp lớn hơn nhiều so với các lớp phủ thụ động khác.
Sự biến đổi thế điện cực của thép nền trong quá trình phosphat hóa được Ghali và Potvin mô tả qua sơ đồ:
Theo sơ đồ này thì bề mặt thép sẽ bị thụ động hóa dần dần cùng với sự phát triển của lớp phủ phosphat hóa. Theo Ghali và Potvin thì quá trình phát triển màng phosphat trải qua 4 giai đoạn:
Sự tấn công điện hóa trên bề mặt thép
Tạo kết tủa vô định hình
Kết tinh và phát triển tinh thể
Sắp xếp lại tinh thể
Tính chất lớp phủ phosphat:
Cơ chế bám dính của lớp phủ trên kim loại nền:
Sự bám dính của lớp phủ phosphat trên bề mặt kim loại nền được giải thích là do sự xâm nhập và đan xen của các tinh thể phosphat vào các phần gồ ghề của sự bề mặt kim loại. Hình mô tả sự tiếp xúc của lớp phủ với nền sắt.
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy cấu trúc bề mặt kim loại nền và sự định hướng phát triển tinh thể phosphat theo cấu trúc kim loại nền đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bám dính của lớp phủ phosphat. Sự phát triển của các tinh thể “khách” được định hướng bởi các tinh thể “chủ” sao cho các bề mặt tinh thể của hai mạng chủ và khách song song với nhau tại bề mặt tiếp xúc. Đối với sắt thép, bề mặt định hướng là mặt của α-Fe. Khi thép được xử lý bằng phương pháp cán thì bề mặt này gần như song song với bề mặt kim loại. Đối với kẽm, mặt định hướng là song song với bề mặt kim loại. Độ lệch giữa mạng chủ và mạng khách cho thấy rằng có sự tồn tại một số vị trí khuyết giữa hai bề mặt, tại đó sự gắn kết giữa lớp phủ và kim loại nền giảm.
Tính chất vật lý:
Lớp phủ phosphat gồm các tinh thể ở nhiều dạng khác nhau, có kích thước khác nhau và định hướng khác nhau.Kích thước tinh thể dao động từ 1μm đối với lớp phủ mỏng cho đến 80-100 μm đối với lớp phủ dày.
Đa số lớp phủ phosphat đều xốp, tổng diện tích lỗ xốp chiếm từ 0.1 đến 1% diện tích lớp phủ.
Tùy theo thành phần dung dịch phosphat hóa, và điều kiện phosphat hóa, lớp phủ phosphat có khối lượng từ 0.8 đến 80gam/m2.
Khối lượng riêng của lớp phủ dao động trong khoảng 0.9 đến 2.5 gam/cm3 tùy thuộc vào độ xốp và thành phần lớp phủ.
Lớp phủ phosphat có màu từ xám nhạt đến đen.Lớp phủ kẽm phosphat kẽm có màu nhạt nhất. Khi có mặt các kim loại khác như Fe, Ni, Mn lớp phủ sẽ trở nên đậm hơn.
Sự khác biệt về màu sắc của các đơn tinh thể so với lớp phủ là do sự khác nhau về kích thước tinh thể trong các lớp phủ, các tạp chất (ví dụ như Cacbon) có trong lớp phủ, cũng như do màu sắc và khả năng phản xạ của kim loại nền.
Điện trở của Zn3(PO4)2.4H2O do trên mẫu bột đa tinh thể có giá trị là 8.107 Ω/cm. Lớp phủ phosphat kẽm trên bề mặt thép có điện thế đánh thủng trong khoảng 30 V/μm. Các giá trị này cho thấy lớp phủ phosphat thuộc loại vật liệu cách điện tốt.
Độ bền của lớp phủ:
Do có thành phần chủ yếu là các phosphat kim loại ngậm nước nên lớp phủ phosphate bị phân hủy ở nhiệt độ cao. Độ bền nhiệt của các lớp phủ phosphate tăng dần theo thứ tự sau: lớp phủ giàu Hopeite, lớp phủ giàu phosphophyllite, lớp phủ phosphophyllite có mặt Mn hoặc Ni.
Độ bền của các tinh thể hydrat phosphate ngậm nước phụ thuộc nhiều vào áp suất riêng phần trên bề mặt lớp phủ. Do đó độ bền nhiệt của lớp phủ phosphate sẽ tăng lên khi trên bề mặt lớp phủ có một lớp dầu hoặc sơn bảo vệ.
Lớp phủ phosphate kẽm dễ tan dưới tác dụng của dung dịch kiềm, axit, chất tạo phức.
Lớp phủ giàu phosphophyllite có độ tan trong kiềm nhỏ hơn nhiều so với lớp phủ giàu hopeite. Mangan phosphate và nickel phosphate không bị hòa tan trong dung dịch kiềm.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và tính chất của lớp phủ phosphat hóa:
Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và tính chất của lớp phủ phosphat thành hai nhóm chính:
Nhóm yếu tố nhiệt động học: ảnh hưởng đến quá trình cân bằng trong dung dịch khi quá trình phosphat hóa xảy ra bao gồm: Thành phần dung dịch phosphate hóa, bản chất kim loại nền,
Nhóm yếu tố động học: ảnh hưởng đến tốc độ hình thành lớp phủ bao gồm: sự khuếch tán trong dung dịch, các quá trình xử lý bề mặt kim loại, các chất gia tốc và các chất ức chế.
Bản chất kim loại nền:
Kim loại bền chỉ có thể được phosphate hóa khi thỏa mãn các điều kiện:
Có tốc độ hòa tan đủ lớn trong dung dịch phosphat hóa, đảm bảo cho việc hình thành mầm tinh thể.
Ion kim loại hòa tan vào dung dịch không gây ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành và phát triển của tinh thể phosphate.
Các kim loại như sắt, kẽm, cadimi, nhôm và magiee thỏa mãn các yêu cầu trên. Trong số đó sắt tráng kẽm và các hợp kim của sắt là đối tượng quan trong nhất của công nghiệp phosphat hóa.
Đối với thép, tất cả các loại thép không chứa hợp kim hoặc có thành phần hợp kim (loại trừ C) nhỏ hơn 5% đều có thể được phosphat hóa.
Tất cả các vật liệu chứa kẽm như thép mạ kẽm, hợp kim kẽm với một lượng nhỏ đồng hoặc titan đều có thể được phosphat hóa.
Việc phosphat hóa nhôm gặp nhiều khó khăn do tốc độ hòa tan nhôm vào dung dịch khá chậm. Tốc độ hòa tan chỉ được cải thiện khi trong dung dịch phosphat hóa có thêm ion F- và Al3+ cao trong dung dịch gây ảnh hưởng xấu đến sự hình thành tinh thể phosphat.
Thành phần của dung dịch phosphat hóa:
Độ axit của dung dịch phosphat hóa:
Phản ứng hòa tan kim loại trong quá trình phosphat hóa không chỉ là bước khởi đầu cho sự tạo thành lớp phủ mà còn quyết định đến tính chất của lớp phủ. Quá trình tấn công của axit tạo ra trên bề mặt kim loại sạch khỏi các tạp chất như bụi đất, dầu mỡ và gỉ sét, đồng thời làm nhám bề mặt kim loại giúp cho lớp phủ chắc hơn.
Khả năng và tốc độ hòa tan kim loại của dung dịch phosphat hóa phụ thuộc nhiều vào độ axit tự do của dung dịch phosphat hóa, độ axit tự do càng cao thì kim loại nền càng tan nhiều, thời gian cần thiết để trung hòa lớp dung dịch sát bề mặt kim loại càng dài.
Bên cạnh đó axit tự do, nồng độ axit tổng cộng trong dung dịch có vai trờ quyết định đến khả năng tạo tinh thể phosphate. Nồng độ axit tổng cộng càng cao, trạng thái dung dịch quá bão hòa càng dễ đạt tới, tinh thể phosphat càng dễ tạo thành.
Trong thực tế giá trị độ axit tự do và độ axit tổng cộng biến thiên trong một phạm vi rất rộng tùy theo điều kiện phosphat hóa cụ thể. Axit tự do trong khoảng 1,0 đến 10,0; axit tổng cộng trong khoảng 10,0 đến 40,0.
Chất gia tốc:
Trong thực tế, quá trình tấn công của dung dịch phosphat hóa lên bề mặt kim loại thường bị chậm do quá trình phân cực gây ra bởi sự hình thành các bọt khí hidro tại các vùng catot. Để khắc phục hiện tượng này, ngoài việc sử dụng các biện pháp như tăng khả năng khuếch tán, tiền xử lý kim loại với các dung dịch như muối titan phosphat, dung dịch phosphat hóa thường được thêm vào các thành phần có tác dụng khử phân cực: gọi là các chất gia tốc.
Đa số các chất gia tốc hoạt động theo cơ chế oxy hóa, có nghĩa là chúng đóng vai trò tác nhân tấn công bề mặt kim loại thay cho H+, từ đó loại bỏ được quá trình hình thành H2. Các chất gia tốc thông dụng là các muối nitrat, nitrit, clorat, các hợp chất nitro hữu cơ, hidro peroxit (H2O2), các peroxit hữu cơ.
Trong trường hợp phosphat hóa trên bề mặt thép, các phản ứng ăn mòn bề mặt kim loại dưới tác động của các chất gia tốc có dạng như sau:
4Fe+NO3-+10H+ 4Fe2++NH4++H2O
3Fe+NO2-+8H+ 3Fe2++ NH4++2H2O
3Fe+ ClO3-+6H+ 3Fe2++ Cl- +2H2O
Fe+ H2O2+2H+ Fe2+ + 2H2O
Trong một số trường hợp, phản ứng oxy hóa có thể xảy ra xa hơn, tạo Fe3+
2Fe2++2H++NO2- Fe3++ NO+H2O
6Fe2++6H++ClO3- 6Fe3+ + Cl- + 3H2O
2Fe2+ + 2H+ +H2O2 2Fe3+ +H2O.
Các phản ứng trên cho thấy khi có mặt của chất gia tốc, H+ được sử dụng vào mục đích trung hòa do đó không có sự hình thành H2. Bên cạnh đó khi sử dụng các chất gia tốc là Nitrat ha nitrit thì lượng H+bị trung hòa cho mỗi mol sắt bị hòa tan nhiều hơn trong trường hợp không sử dụng chất gia tốc hay khi sử dụng gia tốc là H2O2 và Clorat, điều này cho thấy sự ưu việt của nitrit và nitrat trong vai trò gia tốc cho quá trình phosphat hóa.
Các ion kim loại năng như Cu2+, Ni2+cũng được sử dụng như những chất gia tốc. Trong quá trình phosphat hóa, các ion kim loại năng bị khử tạo thành các hạt kim loại rất nhỏ trên bề mặt kim loại nền tạo nên các cặp vi pin làm tăng tốc độ quá trình hòa tan kim loại nền qua đó thúc đẩy quá trình phosphat hóa.
Ngoài các chất gia tốc trên cơ sở oxi hóa, một số gia tốc hoạt động theo cơ chế thụ động quá trình anod (quá trình hòa tan kim loại) để tăng tỷ lệ diện tích catot/anot cũng được sử dụng. Trong số này hydroxylamine sulfat được ứng dụng nhiều nhất.Chất gia tốc này cho phép tạo được lớp phủ phosphat ở nhiệt độ thấp hơn bình thường.Các chất gia tốc như dextrose, galactose, urea, poly acrylatecũng được sử dụng hiệu quả.
Quá trình xử lý bề mặt:
Lớp phủ phosphate chỉ có thể bám dính tốt trên bề mựt kim loại sạch không còn dầu mỡ bụi hoặc các vết gỉ. Các tạp chất này có thể ngăn quá trình phản ứng của dung dịch phosphat với kim loại nền hoặc gây cản trở cho qúa trình hình thành mầm tinh thế, chính vì vật quá trình xử lý bề mặt kim loại có ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ phát triển của lớp phủ phosphat, độ dày lớp phủ và kích thước tinh thể. Các ảnh hưởng này có thể có bản chất cơ học hoặc hóa học.Cùng một quá trình xử lý bề mặt có thể gây ra những ảnh hưởng khác nhau đến quá trìnhphosphat hóa khác nhau.
Độ nhám của bề mặt kim loại sau khi xử lý bề mặt có ảnh hưởng khá quan trọng đến sự hình thành lớp phủ. Thông thường bề mặt kim loại quá nhẵn sẽ dẫn đến lớp phủ có cấu trúc thô và không đồng đều, trong khi bề mặt kim loại nhám (sau khi xử lý bằng giấy nhám hay phun cát) sẽ cho lớp phủ đều và mịn hơn. Đó là do bề mặt kim loại nhám sẽ tạo điều kiện cho phản ứng trung hòa trên bề mặt kim loại xảy ra nhanh hơn làm cho trạng thái quá bão hòa của lớp dung dịch sát bề mặt kim loại nhanh đạt tới hơn, bên cạnh đó các mầm tinh thể dễ hình thành hơn trên bề mặt nhám dẫn đến lớp phủ hình thành nhanh và đều hơn những trường hợp mặt nhẵn.
Nghiên cứu của Kuanishu cho thấy sự khác biệt về tính chất lớp phủ trên thép không xử lý bề mặt và thép xử lý bề mặt bằng cách phun cát. Với nhiệt độ phosphat hóa trong khoảng nhiệt độ phòng đến 90oC, thời gian nhúng từ 3 đến 40 phút, dung dịch phosphat hóa có độ axit tự do bằng 2.5 và độ axit tổng cộng là 31.9. Kuanishu nhận thấu mẫu sắt có xử lý bề mặt cho lớp phủ dày hơn và tỷ lệ khối lượng lớp phủ/kim loại tan ra lớn hơn mẫu sắt không xử lý bề mặt.
Bản chất của quá trình làm nhám bề mặt kim loại (dùng cơ học hay hóa học) cũng gây ra những ảnh hưởng khác nhau: xử lý cơ học thường tạo ra lớp phủ chắc, ít lỗ xốp trong khi xử lý hóa học tạo ra lớp phủ nhiều lỗ xốp hơn.
Khi xử lý bề mặt kim loại với dung dịch kiềm đặc (tẩy dầu mỡ) trước khi phosphat hóa, lớp phủ phosphat hóa thu được thường có dạng tinh thể thô và khối lượng màng lớn hơn khi xử lý bằng dung môi hữu cơ thông thường, bên cạnh đó, thời gian hoàn thành lớp phủ cũng dài hơn, hiện tượng nàu xảy ra là do dung dịch kiềm đặc tạo nên một lớp hydroxit hay oxit mỏng trên bề mặt kim lo