Đồ án Quỹ đầu tư chứng khoán và thực trạng của các quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay

Trước xu thế phát triển và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì nhu cầu về vốn để đẩy mạnh phát triển kinh tế , tránh tụt hậu là vấn đề cần thiết đối với mỗi nước . Để huy động vốn một cách tối đa , ngoài sự góp mặt của ngân hàng còn có một số tổ chức phi ngân hàng khác điển hình là quỹ đầu tư (QĐT) , một định chế tài chính trung gian tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường đặc biệt là trên thị trường chứng khoán (TTCK) . Tính đến nay thì thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã hoạt động được hơn 3 năm. Qua báo cáo tổng kết về sư hoạt động của TTCK, chúng ta có thể nhận thấy sự không ổn định của TTCK, giá cả chứng khoán và chỉ số chứng khoán luôn biến động. Và một trong những nguyên nhân đó là thiếu vắng các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các QĐT. Mặt khác, các báo cáo, chuyên đề ít đề cập đến QĐT chứng khoán, khái niệm QĐT chứng khoán vẫn còn xa lạ và mới mẻ với công chúng nói chung và các nhà đầu tư nói riêng. Mặc dù, sự hiện diện của QĐT không những chỉ cần thiết cho TTCK mà còn rất cần thiết cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Có thể coi QĐT là cầu nối hữu hiệu giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư, phổ cập đầu tư chứng khoán, phát huy nội lực, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá. Ngoài ra, thông qua QĐT, việc huy động vốn đầu tư nước ngoài và tiếp cận thị trường vốn quốc tế trở nên dễ dàng hơn. QĐT là phương tiện thuận lợi đơn giản và linh hoạt góp phần và tham gia vào sự tăng trưởng trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam . Bởi những lý do đó em đã chọn đề tài này với tên gọi “Quỹ đầu tư chứng khoán và thực trạng của các quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay”. Đề tài này được kết cấu như sau : Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quỹ đầu tư chứng khoán Chương 2: Khái quát về quỹ đầu tư tại một số nước trên thế giới. Thực trạng các quỹ đầu tư tại Việt Nam . Chương 3: Định hướng hình thành và phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam

doc41 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Quỹ đầu tư chứng khoán và thực trạng của các quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trước xu thế phát triển và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì nhu cầu về vốn để đẩy mạnh phát triển kinh tế , tránh tụt hậu là vấn đề cần thiết đối với mỗi nước . Để huy động vốn một cách tối đa , ngoài sự góp mặt của ngân hàng còn có một số tổ chức phi ngân hàng khác điển hình là quỹ đầu tư (QĐT) , một định chế tài chính trung gian tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường đặc biệt là trên thị trường chứng khoán (TTCK) . Tính đến nay thì thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã hoạt động được hơn 3 năm. Qua báo cáo tổng kết về sư hoạt động của TTCK, chúng ta có thể nhận thấy sự không ổn định của TTCK, giá cả chứng khoán và chỉ số chứng khoán luôn biến động. Và một trong những nguyên nhân đó là thiếu vắng các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các QĐT. Mặt khác, các báo cáo, chuyên đề ít đề cập đến QĐT chứng khoán, khái niệm QĐT chứng khoán vẫn còn xa lạ và mới mẻ với công chúng nói chung và các nhà đầu tư nói riêng. Mặc dù, sự hiện diện của QĐT không những chỉ cần thiết cho TTCK mà còn rất cần thiết cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Có thể coi QĐT là cầu nối hữu hiệu giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư, phổ cập đầu tư chứng khoán, phát huy nội lực, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá. Ngoài ra, thông qua QĐT, việc huy động vốn đầu tư nước ngoài và tiếp cận thị trường vốn quốc tế trở nên dễ dàng hơn. QĐT là phương tiện thuận lợi đơn giản và linh hoạt góp phần và tham gia vào sự tăng trưởng trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam . Bởi những lý do đó em đã chọn đề tài này với tên gọi “Quỹ đầu tư chứng khoán và thực trạng của các quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay”. Đề tài này được kết cấu như sau : Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quỹ đầu tư chứng khoán Chương 2: Khái quát về quỹ đầu tư tại một số nước trên thế giới. Thực trạng các quỹ đầu tư tại Việt Nam . Chương 3: Định hướng hình thành và phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam . CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN 1.1.Khái niệm về quỹ đầu tư. 1.1.1.Khái niệm quỹ đầu tư. Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh nhất thiết phải có nhiều vốn đầu tư. Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để các tổ choc và các cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà doanh nghiệp có ý tưởng kinh doanh, có các dự án kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư gặp nhau được, cùng hợp tác với nhau, cùng nhau tìm kiếm các cơ hội kinh doanh có lợi nhất. Để làm “cầu nối” giữa bên cần vốn với bên có vốn nhàn rỗi, nhiều loại định chế tài chính trung gian đã ra đời. Một trong những định chế trung gian có ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, đó là “ quỹ đầu tư”. Quỹ đầu tư hay còn gọi là công ty uỷ thác đầu tư là định chế tài chính thực hiện việc huy động vốn của ngưì tiết kiệm thông qua việc bán các chứng chỉ góp vốn. Quỹ này đặt dưới sự quản trị chuyên nghiệp và được đầu tư vào các chứng khoán vì lợi ích của các nhà đầu tư. Những người đầu tư vào quỹ có thể là các thể nhân hoặc các tổ chức kinh tế, nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ, ít am hiểu về thị trường chứng khoán. Thực chất đây là hình thức chung vốn đầu tư giữa các cá nhân, các tổ chức nhằm tăng tính chuyên nghiệp của việc đầu tư tạo điều kiện giảm thiểu rủi ro và các chi phí liên quan đến quá trình đầu tư. 1.1.2.Các lợi thế của quỹ đầu tư. Bất cứ một nhà đầu tư nào khi quyết định đầu tư đều phải nghiên cứu xem thu nhập sau đầu tư là bao nhiêu, mức độ rủi ro có cao không? Tuy nhiên điều này chỉ có thể thực hiện được đối với những nhà đầu tư. Nhưng phần lớn người đầu tư, với kiến thức và kỹ năng còn hạn chế thì quỹ đầu tư có lae là một sự lựa chọn thích hợp hơn. Bởi lẽ nó có những ưu điểm quan trọng so với sở hữu trực tiếp như sau. Một lợi thế cơ bản của quỹ đầu tư là sự đa dạng hóa các danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Đây chính là ý tưởng bỏ trứng vào nhiều giỏ. Một danh mục đầu tư được phân tán rủi ro hợp lý tường bao gồm một số lượng tối thiểu các laọi chứng khoán khác nhau để tránh rủi ro do đầu tư tập trung vào một loại chứng khoán nào đó. Bởi vì theo thuyết đầu tư hiện đại, rỉu ro của toàn bộ danh mục đầu tư có thể được giảm bằng việc đa dạng hoá danh mục đầu tư vào một số lượng lớn cổ phiếu của các nghành công nghiệp khác nhau với mức sinh lời tương đương với mức rủi ro khác nhau. Quỹ đầu tư có thể tạo ra các sản phẩm khác nhau như chứng chỉ tiền gửi ngân hàng vẫn đẩm bảo tiền gốc bằng việc giao dịch tổng hợp các công cụ trên thị trường tiền tệ như chứng chỉ tiền gửi và thương phiếu. Các quỹ cũng có thể tạo ra danh mục đầu tư chuyên ngành bằng việc đầu tư vốn của quỹ vào các cổ phiếu của nhóm ngành công nghiệp được mọi người ưa chuộng… Tuy nhiên các chứng khoán trong danh mục đầu tư phải thường xuyên đánh giá để có những thay thế, điều chỉnh cần thiết. Một lợi thế khác phải kể đến, đó là dịch vụ đầu tư chuyên nghiệp. Các tổ chức quản lý quỹ có các chuyên gia thực hiện việc phân tích kinh tế vi mô, vĩ mô và phân tích thị trường, xây dựng các danh mục đầu tư phù hợp để đạt được mục đích của quỹ đầu tư. Khả năng của các chuyên gia này được đánh giá định kỳ dựa trên tổng giá trị lợi tức của các quỹ do họ tạo ra. Với xu thế tự do hoá thị trường tài chính, thông qua việc bãi bỏ dần các quy định pháp luật và việc xuất hiện tràn ngập các sản phẩm mới như các công cụ tái sinh tài chính, đòi hỏi các kỹ năng tài chính và phân tích toán học có tính nguỵ biện cao mà những người không có chuyên môn sâu không thể hiểu thấu sự phức tạp của thị trường cung như áp dụng vào thực tế những cách thức này dễ đạt được mục tiêu đầu tư của họ. Sự bãi bỏ quy định mang lại những cơ hội lớn để thực hiện nhiều phương thức đầu tư khác nhau mà chỉ các chuyên gia mới nắm được. Vì vậy các chuyên gia luôn luôn phải trau dồi các kiến thức chuyên môn để có thể đánh giá chính xác xu hướng phát triển và dự đoán hiệu quả đầu tư để mang lại lợi ích tốt nhất cho những nhà đầu tư. Một lợi thế không kém phần quan trọng trong hoạt động đầu tư đó là chi phí giao dịch thấp. Vì những danh mục đầu tư lớn được quản lý chuyên nghiệp quỹ đầu tư chịu chi phí giao dịch thấp hơn cá nhân đầu tư kể cả cá nhân đó có ký hợp đồng mua bán và nhà môi giới có mức phí hoa hang thấp nhất. Quỹ đầu tư có thể chỉ thanh toán vài cent tren một cổ phiếu cho một giao dịch lô lớn trong khi đó một cá nhân có thể phải thanh toán 50 cent trên một cổ phiếu hoặc nhiều hơn thế cho một giao dịch tương tự. Chi phí giao dịch tốt có thể được hiểu là hoạt động đầu tư tốt hơn và hiệu quả hơn. Ngoài những lợi thế cơ bản trên, quỹ đầu tư còn có những lợi thế khác như mang lại cho các nhà đầu tư dịch vụ cổ đông hữu ích, mang lại tính thanh khoăn cao và an toàn trước các hành vi không công bằng. - Quỹ đầu tư đem lại nhiều dịch vụ cổ đông. Một trong những dịch vụ quan trọng nhất là tự động tái đầu tư phần thu nhập được chia cho nhà đaù tư, dùng để mua thêm chứng chỉ quỹ thay vì lấy các khoản cổ túc phục vụ cho tiêu ding như các cá nhân riêng lẻ vẫn thường làm. Ngoài ra nhiều quý còn các phương thức rút tiền rất thuận tiện cho những người đầu tư. Các dịch vụ khác bao gồm các lựa chọn cách thức đầu tư, nộp thuế và chuyển đổi quỹ. - Trong nhiều trường hợp quỹ đầu tư có thể mang lại tính thanh khoăn cao hơn so với cá nhân tự đầu tư. Người đầu tư có thẻ đầu tư một khoản tiền lớn vào quỹ hoặc rút khỏi quỹ dựa theo NVA hàng ngày của quỹ cộng với khoản phí tham gia hoặc rút khoỉ quỹ (trường hợp quỹ ma). Bên cạnh đó, người đầu tư có thể tự do yêu cầu chuyển đổi sang một quỹ khác có mục tiêu đầu tư phù hợp. - An toàn trước các hành vi không công bằng. Nguồn đầu tư có thể bịthiệt hại nếu danh mục đầu tư của quỹ bị giảm giá trị do sự biến động giá chứng khoán trên thị trường, nhưng xác suất bị tổn thất do gian lận, bê bối hoặc phá sản liên quan dến công ty quản lý quỹ là rất nhỏ. Khuôn khổ pháp lý và việc quản lý chặt chẽ của các cơ quan có them quyền đối với quỹ đầu tư đem lại những đảm bảo cơ bản. 1.1.3.Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán. 1.1.3.1. Vai trò đối với các nhà đầu tư. Lợi ích lớn nhát của nguồn vốn đầu tư là đa dạng hoá đầu tư, phân tán rủi ro.Với quỹ đầu tư chứng khoán, ngay cả khi một cá nhân có lượng vốn nhỏ vẫn có thể đa dạng hoá đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau. Người đầu tư được thu lợi từ việc đầu tư chuyên nghiệp với hiệu quả cao và chi phí thấp.Từ những lý do trên người đầu tư sở hữu những chứng chỉ đầu tư có tính thanh khoăn cao, họ có thể rút vốn nhanh chóng bằng việc bán lại các chứng chỉ trên TTCK. 1.1.3.2. Vai trò đối với nhà quản lý vốn. Những nhà quản lý vốn là những người có kiến hức chuyên môn có trình độ dự đoán và phân tích thông tin cho nên họ được uỷ thác đầu tư . Thông qua những hoạt động này họ thu được hoa hang và những khoản thưởng. 1.1.3.3. Vai trò đối với nền kinh tế. - Quỹ góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và sự phát triển của hị trường sơ cấp . Trên thị trường sơ cấp,quỹ đầu tư đóng vai trò tích cực trong việc tham gia, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán giúp các chủ thể, phát hành huy động vốn mmột cách hiệu quả, tạo thêm hàng hoá cho thị trường. - Quỹ góp phần ổn định thị trường thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp, với những kĩ năng phân tích đầu tư chuyên nghiệp và nguồn vốn lớn, dài hạn người đầu tư có thể tiến hành kiểm soát sự biến động giá chứng khoán do sự mất cân đối cung - cầu tạo sự ổn định cần thiết trên thị trường thứ cấp. - Quỹ góp phần phổ cập đầu tư chứng khoán, phát huy nội lực. Bằng việc tiếp cận với những nguồn thông tin đa dạng cộng với chiến lược đầu tư khoa học trong hoạt động của quỹ đầu tư khiến cho nguồn vốn đầu tư gián tiếp của quỹ trở nên an toàn hơn; Chức năng chuyển đổi nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội thành nguồn vốn đầu tư trên phạm vi rộng làm cho quỹ đầu tư trở thành phương tiện rất hiệu quả trong việc huy động vốn nhàn rỗi rộng rãi trong công chúng, phát huy nội lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Đồng thời, kỹ năng nghiên cứu, phân tích đầu tư chuyên nghiệp của quỹ đầu tư góp phần hướng dẫn thị trường nâng cao trình độ hiểu biết cũng như kỹ năng đầu tư chuyên nghiệp của quỹ đầu tư chứng khoán của công chúng, giúp nâng cao tính xã hội hoá của hoạt động đầu tư. - Hoạt động quỹ đầu tư tăng cường khả năng huy động vốn nước ngoài Một mặt các quỹ này thu hút được lượng vốn từ nước ngoài chuyển vào đầu tư trong nước, mặ khác, tạo nên sự đa dạng các đối tượng tham gia trên thị trường chứng khoán, làm tăng chu chuyển vốn trên thị trường. Thông qua hoạt động cảu quỹ đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư trong nước sẽ tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, phân tích và đầu tư chứng khoán. 1.2.Phân loại quỹ đầu tư chứng khoán. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư với các tên gọi khác nhau như: quỹ đầu tư cá nhân, quỹ đầu tư tập thể, quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở… Có được sự phân loại như thế là do dựa vào một số tiêu chí khác nhau như đối tượng người đầu tư , mục đích đầu tư, cơ cấu tổ chức… 1.2.1.Căn cứ vào đối tượng người tham gia quỹ. Có hai loại: Quỹ đầu tư tư nhân Quỹ đầu tư tập thể 1.2.1.1.Quỹ đầu tư tư nhân: Là loại hình quỹ đầu tư được hình thành do một số tổ chức và cá nhân góp vốn và thuê công ty quản lý quỹ nhămf mục đích đầu tư vốn của mình một cách có lợi nhất và đảm bảo quản lý chặt chẽ vốn đầu tư. Xuất phát từ nguồn vốn huy động ở một số ít tổ chức và cá nhân có quan hệ với nhau, nên các quỹ này có thể đầu tư vào các dự án dài hạn, có tiềm năng phát triển cao và chịu đựng được mức rủi ro lớn. Các quỹ này thường đầu tư vào chứng khoán của những công ty này phát triển đến mức độ nhất định, họ có thể thu hồi vốn bằng cách bán lại phần vốn góp hoặc những chứng khoán mà họ nắm giữ. Có nhiều dạng quỹ đầu tư tư nhân trong đó có hai loại quỹ điển hình và phổ biến trên thị trrường vốn thế giới là: - Quỹ phòng ngừa rủi ro: Là hình thức chung vốn đầu tư, vốn của các thành viên được góp lại với mục đích kinh doanh chứng khoán. Các quỹ phòng ngừa rủi ro đều có chiến lược kinh doanh riêng và đầu tư vào rất nhiều các công cụ tài chính khác nhau. - Quỹ đầu tư mạo hiểm: Cũng là một trong các dạng quỹ đầu tư riêng lẻ, xuất hiện từ những năm 70 tại các thị trường phát triển. Quỹ huy động vốn chủ yếu từ các tổ hợp công nghiệp lớn và các định chế tài chính lớn. Hình thức đầu tư chủ yếu ban đầu của quỹ là đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên, từ những năm 80 hình thức đầu tư đã thay đổi. Việc tiến hành đầu tư được thực hiện thông qua các nhà quản lý đầu tư tư nhân chuyên nghiệp, người đứng thay mặt cho các nhà đầu tư là các định chế tài chính tiến hành việc đầu tư. 1.2.1.2. Quỹ đầu tư tập thể: Là loại quỹ mà số lượng đầu tư tham gia góp vốn đông hơn quỹ đầu tư riêng lẻ, tất cả mọi người có thể tham gia. Đó là những người tiết kiệm, những người đầu tư chuyên nghiệp, những người đầu tư nhỏ và phần lớn là các cá nhân- những người không có kiến thức chuyên sâu về đầu tư. Quỹ đầu tư tập thể là những quỹ đầu tư chuyên nghiệp. Quỹ này phát hành cổ phiếu cho các nhà đầu tư ( Nếu quỹ đó là công ty cổ phần), hoặc chứng chỉ quỹ đầu tư ( Nếu quỹ đó là quỹ góp vốn chung). 1.2.2. Căn cứ vào cách thức huy động vốn. Có hai loại: Quỹ đầu tư đóng. Quỹ đầu tư mở. 1.2.2.1. Quỹ đầu tư dạng đóng( Closed – end funds). Đây là quỹ đầu tư mà theo điều lệ quy định, thường chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ đầu tư dạng đóng mang tính chất giống như một công ty cổ phần thông thường có thể phát hành cổ phiếu thông thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không được phát hành thêm bất kỳ một loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không mua lại các cổ phiếu đã phát hành. Số cổ phiếu đó được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán cũng như cổ phiếu của các công ty khác. Muốn mua bán cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng này người muốn mua hoặc muốn bán phải liên hệ với môi giới và phải trả tiền hoa hồng cho mỗi dịch vụ cũng như mua bán các loại cổ phiếu khác. Giá thị trường cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng phụ thuộc vào lượng cung cầu cũng như khi áp dụng đối với các loại chứng khoán khác chứ không trực tiếp liên quan đến giá trị tài sản ròng( NAV – Net Asset Value) của mỗi cổ phần. Quỹ đầu tư dạng đóng ding số vốn của mình đầu tư vào các doanh nghiệp hay thị trường chứng khoán. Sau đó lại dùng số tiền và vốn lài thu được để đầu tư tiếp. Như vậy, quy mô vốn của loại quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu được mà thôi. 1.2.2.2. Quỹ đầu tư dạng mở (open- end funds). Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là quỹ tương hỗ (mutual funds). Khác với quỹ đầu tư dạng đóng, các quỹ đầu tư dạng mở luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng thêm vốn và cũng sẵn lòng chuộc lại những cổ phiếu đã phát hành. Các cổ phiếu của quỹ được bán trực tiếp cho công chúng, không qua thị trường chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng mở, không phải qua môi giới. Do đó tạo cơ hội cho bất kỳ ai cũng có thể tham gia và trở thành chủ sở hữu của quỹ. Quỹ cho phép các nhà đầu tư bán lại chứng chỉ đầu tư cho Quỹ bất cứ lúc nào theo giá trị tài sản ròng cùng chứng chỉ(Net asset value pershare) chứ không theo giá thị trường trong một thời gian luật định. Vì quỹ mở liên tục mua bán cổ phần nên lượng tiền trong quỹ phục vụ cho hoạt động đầu tư sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu các nhà đầu tư rút vốn đồng loạt dưới sự tác động của các yếu tố trên thị trường. Bảng so sánh hai loại quỹ: Quỹ đóng và quỹ mở Chỉ tiêu Quỹ đầu tư mở Quỹ đầu tư đóng Số lượng chứng khoán lưu hành Luôn thay đổi Cố định Chào bán cho công chúng Liên tục Một lần Việc mua lại Có mua lại Không mua lại Nơi mua bán chứng chỉ của quỹ Mua bán trực tiếp tại quỹ qua công ty quản lý quỹ Cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung và OTC Mối quan hệ giữa giá mua và giá trị tài sản ròng NVA Giá mua = NVA + phí giao dịch Giá mua được xác định bởi cung cầu trên thị trường 1.2.3.Căn cứ theo mục tiêu và đối tượng đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán không nhất thiết chỉ đầu tư chứng khoán mà còn có thể đầu tư vào bất động sản, các tài sản có giá trị khác. Tuy nhiên chứng khoán vẫn phải chiếm một tỷ lệ phần trăm nhất định. Căn cứ vào tỷ trọng của các loại chứng khoán của quỹ ta có thể có: Quỹ đầu tư cổ phiếu. Quỹ đầu tư trái phiếu. Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ. Quỹ đầu tư kết hợp. 1.2.3.1. Quỹ đầu tư cổ phiếu. Quỹ đầu tư cổ phiếu là quỹ đầu tư hoàn toàn vào một chủng loại cổ phiếu nhất định, như cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Trong quỹ lại có thể được phân ra theo từng loại cổ phiếu thường. Chẳng hạn như cổ phiếu của các công ty đang tăng trưởng, cổ phiếu của các công ty đang hoạt động trong ngành công nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu đầu tư của mình, người đầu tư có thể chọn các quỹ đầu tư thích hợp. 1.2.3.2. Quỹ đầu tư trái phiếu. Quỹ đầu tư trái phiếu tập trung đầu tư vào các loại trái phiếu khác nhau nhằm tạo ra mức lợi nhuận và rủi ro có thể chấp nhận được. Các quỹ này cũng giông như các quỹ đầu tư cổ phiếu chỉ khác về chính sách đầu tư. Một số quỹ tập trung vào trái phiếu có mức độ tín nhiệm cao, trong khi đó một số quỹ khác lại tập trung vào những trái phiếu có mức độ tín nhiệm được đánh giá ở mức độ khác nhau hoặc đầu tư vào những chứng khoán nợ có rủi ro cao nhưng kỳ vọng lợi nhuận cao. Có thể phân quỹ đầu tư trái phiếu thành các loại: Quỹ đầu tư trái phiếu chính phủ, quỹ đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp, quỹ đầu tư từ trái phiếu nội địa, quỹ đầu tư từ trái phiếu nước ngoài. 1.2.3.3. Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ. Quỹ đầu tư vào thị trường tiền tệ nhằm vào các công tcụ tài chính như: Tín phiếu, thương phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu. Sự ổn định của quỹ phụ thuộc vào thái độ ứng xử của các nhà đầu tư, khi thị trường chứng khoán phát triển mạnh, người đầu tư rút tiền trên thị trường tiền tệ để đầu tư vào đầu tư trên thị trường chứng khoán. 1.2.3.4. Quỹ đầu tư kết hợp. Quỹ đầu tư kết hợp có thể kết hợp giữa cổ phiếu, trái phiếu, và các loại tài sản khác như bất động sản… 1.2.4.Căn cứ và mục đích đầu tư. 1.2.4.1. Quỹ tăng trưởng: Đầu tư vào cổ phiếu của các công ty kinh doanh thành đạt. Mục tiêu chính là tăng giá trị của các khoản đầu tư chứ không nhằm vào dòng cổ tức thu được. Người đầu tư vào các quỹ này quan tâm đến việc giá cổ phiếu đang lên hơn là khoản thu từ cổ tức. 1.2.4.2. Quỹ tăng trưởng thu nhập: Quỹ này đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu thường có giá trị cao đồng thời có mức cổ tức ổn định. Kiểu quỹ này muốn kết hợp cả hai yếu tố tăng vốn trung, dài hạn và dòng thu nhập ổn định trong ngắn hạn. 1.2.4.3. Quỹ thu nhập: Để có được thu nhập ổn định, quỹ giành phần lớn vốn để đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi lẫn công cụ đầu tư có thu nhập thường xuyên ổn định. 1.2.5. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức điều hành. 1.2.5.1. Quỹ đầu tư dạng công ty( Corporate fund ). Theo mô hình này, quỹ đầu tư được xem là một pháp nhân đầy đủ, nhường người góp vốn vào quỹ trở thành các cổ đông và có quyền bầu ra hội đồng quản trị quỹ. Đây là tổ chức cao nhất trong quỹ đứng ra thuê công ty quản lý quỹ và giám sát việc tuân thủ hoạt động của hai tổ chức này. Trong đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản các tài sản quỹ, nhận hoặc giao chứng khoán cho quỹ khi thực hiện lệnh giao dịch. Còn công ty quản lý có trách nhiệm cử người điều hành và sử dụng vốn của quỹ để đầu tư vào các chứng khoán hay các tài sản sinh lợi khác. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng công ty thường được sử dụng ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, tiêu biểu là thị trường Mỹ và Anh. Mô hình công ty. Công ty quản lý quỹ Hội đồng quản trị Ngân hàng bảo quản Quỹ đầu tư Người đầu tư Nguồn đầu tư Người đầu tư 1.2.5.2. Quỹ đầu tư dạng tín thác (Trust fund ) Theo mô hình này, quỹ đầu tư không được xem là một pháp nhân đầy đủ, mà chỉ là quỹ chung vốn giữa nhưỡng người đầu tư để thuê các chuyên gia quản lý quỹ chuyên nghiệp đâù tư sinh lợi. Theo mô hình này, vai trò của công ty quản lý quỹ khá nổi bật. Đó là tổ chức đứng ra thành lập và sử dụng vốn thu được thông qua việc phát hành các chứng chỉ đầu tư để đầu tư vào những nơi có hiệu quả nhất. Ngân hàng giám sát đóng vai trò là người bảo quản an toàn vốn và tài sản của người đầu tư, Giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ trong việc tuân thủ điều lệ quỹ đầu tư
Tài liệu liên quan