Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội (CNXH) và theo lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quỏ độ vận dụng vào kinh tế, có phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế -xó hội hiện cú ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả vấn đề lại chính là ở đó.
30 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tìm hiểu thực trạng kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
MỞ ĐẦU
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội (CNXH) và theo
lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quỏ độ vận dụng vào kinh tế, có
phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không
phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của
kết cấu kinh tế - xó hội hiện cú ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả
vấn đề lại chính là ở đó. Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta đó chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là một chủ trương
đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển khách quan, bởi thông qua chủ
trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các thành kinh tế mới hỡnh thành
được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân tán trong các tầng lớp
dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất trong xó hội để xây
dựng đất nước. Từ khi có chính sách đổi mới (1986) đến nay, các thành phần
kinh tế đó đóng góp nhất định của mỡnh vào xõy dựng vào nền kinh tế quốc
dõn, thỳc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ kinh tế
(Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước phát
triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta .
Tuy nhiờn, theo lý luận Mac: ”Trong bất cứ hỡnh thỏi kinh tế xó hội nào
cũng cú phương thức sản xuất (PTSX) giữ vị trí chi phối”. Có nghĩa là trong
mỗi chế độ xó hội cần cú một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo, có nghĩa
là trong mỗi chế độ XHCN cần có một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo,
dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đi theo một định hướng xó hội nhất định.
Ngay từ đầu lập nước, đảng ta đó xỏc định đưa nước Việt Nam tiến lên chủ
nghĩa xó hội, mà cơ sở hỡnh thành nên CNXH đó chính là chế độ công hữu
về tư liệu sản suất (TLSX), tức là TLSX thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế nhà
nước (KTNN) là thành phần kinh tế được hỡnh thành trờn hỡnh thức sở hữu
toàn dõn vỡ vậy một tất yếu khỏch quan là KTNN phải là thành phần kinh tế
nắm vai trũ chủ đạo nhằm hướng toàn bộ nền kinh tế đi theo định hướng
XHCN.
Đảng và nhà nước ta đó xỏc định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH đũi hỏi
một thời gian rất lõu dài và sẽ gặp nhiều khú khăn thách thức đặc biệt Việt
Nam lại đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ TBCN. Ta biết rằng
“chớnh trị là tập trung của kinh tế”, do đó kinh tế là con đường để hỡnh
Trang 2
thành một thể chế chớnh trị. Ta định hướng xây dựng CNXH thỡ phải phỏt
triển thành phần kinh tế nhà nước thật vững chắc ,làm sao để nó thể hiện vai
trũ chủ đạo của KTNN, nắm được quy luật vận động khách quan của kinh tế
để từ đó có cách tác động để KTNN thể hiện được vai trũ trọng yếu của nú,
để đất nước ta đi đúng theo định hướng đó chọn.
Việc nhiờn cứu (NC), tỡm hiểu rồi đến nắm bắt bản chất cũng như vai trũ
của KTNN sẽ giỳp mỗi chỳng ta thấy được tầm quan trọng, tính thiết yếu phải
phát triển KTNN ở nước ta hiện nay nhận thức được những đường lối, chính
sách phát triển mà đảng và chính phủ đưa ra nhằm cải tổ và xây dựng nền
kinh tế XHCN tiến kịp với thế giới, nhưng cũng đồng thời thôi thúc mỗi
chúng ta cần phải góp sức mỡnh vào cụng cuộc đất nước bằng cách dựa trên
những gỡ mà ta đó đạt được và chưa làm được để đưa ra những giải pháp
kiến nghị hữu ích cho việc đưa KTNN lên nắm vai trũ chủ đạo cũng là để xây
dựng nền kinh tế nước nhà ổn định, phát triển và bền vững.
Đồ án của tôi sẽ đi sâu vào NC về một số vấn đề sau:
Phần I: Khát quát về một số vấn đề lý luận về KTNN, vai trũ chủ đạo
của KTNN, giải thích vỡ sao sự hỡnh thành KTNN là một tất yếu và sự cần
thiết của vai trũ chủ đạo của KTNN trong chế độ của chúng ta hiện nay.
Phần II: Thực trạng về vấn đề đưa KTNN giữ vai trũ chủ đạo trong nền
kinh tế ở nước ta hiện nay đó đạt được thành quả gỡ và cũn những tồn tại,
yếu kộm nào cần khắc phục - nguyên nhân của thực đó.
Phần III: Một số giải phỏp và kiến nghị nhằm phỏt huy những gỡ đó đạt
được ,khắc phục những hạn chế ,thiếu sót trong việc đưa KTNN lên nắm vai
trũ chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Do trỡnh độ hiểu biết và lý luận cũn rẩt hạn chế , đề án NC của tôi cũn rất
nhiều hạn chế và thiếu sút. Tụi rất mong nhận được sự thông cảm cùng những
ý kiến đóng góp để mỗi chúng ta sẽ được nâng cao hơn tầm nhận thức hiểu
biết nhằm phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp đổi mới và phỏt triển kinh tế xó hội
của đất nước.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Mai Hữu Thực đó giỳp
em rất nhiều từ khõu cung cấp những kiến thức cơ bản nhất cho đề tài, đến
việc hướng dẫn tỡm đọc những tài liệu bổ ích để từ đó em có thể hoàn thành
được đề tài NC này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2007
Trang 3
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về KTNN:
1. Một số khỏi quỏt chung về KTNN:
1.1 Khỏi niệm chung về thành phần KTNN:
Để hiểu đầy đủ về thành phần KTNN, trước hết ta phải tỡm hiểu thành
phần kinh tế nhà nước là gỡ và thành phần KTNN xuất hiện ở nước ta khi
nào.
Là một nước đi sau trong tiến trỡnh xõy dựng CNXH, chỳng ta được học
hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ những nước đi trước mà tiên phong là Nga (Liên
Xô cũ). Từ luận điển Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ - đó phải là
nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đó ỏp dụng vào thực tiển ở
nước ta và đưa ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa phần mang tính đặc
trưng của thời kỳ giao thời giữa kinh tế TBCN và XHCN.
Trước hết ta hiểu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế
hay đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một
kiểu tổ chức kinh tế dựa trên một hỡnh thức sở hữu nhất định có quan hệ quản
lý và quan hệ phân phối riêng của nó. Trong nền kinh tế nước ta cú ba hỡnh
thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ
đó mà hỡnh thành nờn cỏc thành phần kinh tế khỏc nhau.
Thành phần KTNN đó xuất hiện như thế nào trong nền kinh tế Việt Nam?
Ta sẽ trở lại từ những ngày đầu giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt
tay vào xó hội mới với một nền kinh tế mới. Đảng ta đó lónh đạo nhân xây
dựng đất nước theo con đường XHCN, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước
mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ và văn minh”. Để xây dựng nền chính trị
XHCN thỡ đũi hỏi phải cú nền kinh tế đặc trưng cho hỡnh thỏi chớnh trị ấy -
một nền kinh tế cú thành phần chớnh hỡnh thành trờn chế độ công hữu. Trong
lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam dựa trên chế độ tư hữu, đó là sở hữu tư
nhân của những người sản xuất nhỏ và sở hữu tư nhân của CNTB. Đối với
hỡnh thức này, Nhà nước đó tiến hành cải tổ, sắp xếp để phát triển thành phần
kinh tế cá thể tiểu thủ công nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư nhân - là
đại diện của quan hệ sản xuất cũ CNTB. Vậy để xây dựng một nền kinh tế
mới XHCN, nhà nước đó đầu tư xây dựng các doanh nghiệp của mỡnh trong
cỏc nghành kinh tế, kết quả là hỡnh thành nờn một thành phần kinh tế mới –
KTNN.
Trang 4
Từ đó ta khái niệm được thành phần KTNN là gỡ? Đó là thành phần kinh
tế dựa trên sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức kinh doanh
tiến hành theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế và thực hiện phân phối theo lao
động.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của thành phần KTNN với các thành phần kinh
tế khác đó là hỡnh thức sở hữu và nguồn vốn hỡnh thành. Cú thể toàn bộ vốn
đều thuộc sở hữu nhà nước hoặc có thể phần vốn đóng góp của nhà nước
chiếm tỷ lệ khống chế (>50% vốn).
1.2 Phõn loại KTNN:
KTNN bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dõn.
*Về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc Doanh
nghiệp cổ phần trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối.
Trong ba nhõn tố cấu thành KTNN ở trờn thỡ DNNN là nhõn tố (hay
thành phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trũ quan trọng nhất trong việc đảm bảo
cho KTNN giữ được vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi
đề cập đến vai trũ chủ đạo của KTNN thỡ người ta thường đề cập đến DNNN
là chủ yếu. Ngay trong nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung
ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả DNNN. Hội nghị đó khẳng định rừ quan điểm “KTNN cú vai trũ quan
trọng trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô, làm lực lượng nũng cốt, gúp phần quan trọng để KTNN thực hiện
vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
DNNN cũng được chia ra làm hai loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh và hoạt động công ích. Cả hai loại doanh nghiệp này đều mang các đặc
điểm của các thành phần của KTNN và thông thường chúng được chia làm
hai loại nhỏ: các doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% và một loại doanh
nghiệp do nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi
nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn
đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà
nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh thông thường là những doanh nghiệp có quy mô lớn có
Trang 5
đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng
kỹ thuật - công nghệ hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.
Cũn cỏc doanh nghiệp hoạt động công ích là những doanh nghiệp hoạt
động không vỡ mục đích lợi nhuận, có thể không có thu mà nhà nước cấp
kinh phí - đó là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá công cộng, dịch
vụ công như : An ninh, quốc phũng, giao thụng, giỏo dục, ytế…..
*Về cỏc tổ chức KTNN:
Các tổ chức KTNN là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý
(kiểm tra, kiểm soỏt) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước,
các quỹ dự trữ quốc gia…các tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp 100%
vốn hoặc giữ một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các
tổ chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
*Về cỏc tài sản thuộc sở hữu nhà nước:
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là
thành phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do
quuền sở mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…
2. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước và vai trũ chủ đạo của kinh tế
Nhà nước trong nền kinh tế
2.1. Sự cần thiết có kinh tế Nhà nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xó hội
của đất nước.
Với mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước từ ngày bắt tay vào xây dựng Chủ
nghĩa xó hội ở miền Bắc cho đến hôm nay, kinh tế Nhà nước đó được hỡnh
thành, phỏt triển với những vcị trớ khỏc nhau trong nền kinh tế nhằm thực
hiện những nhiệm vụ kinh tộ nhất định của từng giai đoạn. Tuy vậy, trong
suốt cả thời kỳ lịch sử ấy, kinh tế nhà nước luôn luôn là lực lượng chủ đạo,
nũng cốt, là cụng cụ duy nhất để Nhà nước đưa đất nước đi lên theo con
đường Xó hội chủ nghĩa(1955).
Sau khi hoà bỡnh lập lại ở miền Bắc(1955), đảng và nhà nước đó chủ
trương xây dựng xó hội chủ nghĩa ở miền Bắc theo cơ chế kế hoạch hoà tập
trung bao cấp để tạo cơ sở ban đầu cho một Nhà nước xó hội chủ nghĩa tương
lai khi giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà. Xuất phát điểm từ một
nền kinh tế được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, vỡ vậy bước
đầu tiên khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xó hội là thực hiện cụng cuộc cải
Trang 6
tạo xó hội chủ nghĩa với nhiệm vụ thủ tiờu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế
quốc doanh (Kinh tế quốc dân) và kinh tế tập thể. Từ đây một loạt các xí
nghiệp quốc doanh (XNQD) được ra đời bằng nhiều cách khác nhau: do Nhà
nước đầu tư xây dựng mới, hoặc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân. Đến
cuối thời kỳ cải tạo và khôi phục kinh tế, XNQD đó chiếm ưu thế tuyệt đối
trên nền kinh tế quốc dân. Kết quả là kinh tế tư bản tư nhân bị xóa bỏ để
chuyển sang một nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ vị
trí độc tôn. Đến năm 1960, kinh tế quốc doanh vươn lên trở thành lực lượng
kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân nước ta lúc bấy giờ. Và với chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi lên xó hội chủ nghĩa, kinh tế
quốc doanh được giao cho vai trũ chủ đạo của nền kinh tế từ đây.
Giai đoạn 1960 đến 1985:
Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đó trải qua những bước
thăng trầm về chính trị, xó hội và kinh tế.
Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai
đoạn này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xó hội chủ nghĩa
miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Để tiến hành công nghiệp
hoá xó hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cỏch hợp lý”, và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư
nhiều hơn và phát triển hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành
công nghiệp nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hỡnh thành như:
Việt Trỡ, Thỏi Nguyờn, Vinh, Đông Anh(Hà Nội)… đây là cơ sở để kinh tế
quốc doanh được mở rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ
làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế
quốc doanh trong giai đoạng này có vai trũ vừa là cụng cụ quan trọng để nhà
nước tiến hành công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm
gương phản ánh sự hành công của quá trỡnh xõy dựng CNXH ở nước ta, nó
khẳng định con đường mà Đảng ta đó lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện
chính trị xó hội, thỡ KTQD luụn là lực lượng tiến bộ xó hội, là đội quân tiên
phong trong việc mở rộng QHSX XHCN.
Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý vẫn
được duy trị. Sau khi thống nhất đất nước. với định hướng đưa cả nước đi lên
XHCN, nhưng có sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vỡ vậy Đảng ta chủ
trương tiếp tục mở rộng QHSX XHCN và công nghiệp hoá XHCN ở miền
Bắc, đồng thời tiến hành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ
trương đó số lượng các XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Công nghiệp,
Trang 7
nông nghiệp, thương nghiệp) tăng lên một cách nhanh chóng trên khắp cả
nước. Mặc dù so với giai đoạn trước đó sức đóng góp của KTQD trong giai
đọan này đó giảm sỳt, song KTQD vẫn đóng vai trũ chủ đạo, tuyệt đối quan
trọng công cuộc xây dựng và phát triển QHSX mới CNXH.
Từ 1980-1985: Giai đoạn này nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, năng
lực sản xuất của KTQD không được sử dụng tối đa do thiếu vật tư một cách
nghiêm trọng. Với quan điểm định hướng xây dựng CNXH nên KTQD vẫn
được nhà nước rất chú trọng tỡm giải phỏp thỏo gỡ giai đoạn này cơ chế kế
hoạch hoá tập trung đó cải tiến dần sang phi tập trung hoỏ trong quản lý kinh
tế, tuy vậy KTQD vẫn giữ vai trũ quan trọng tuyệt đối, trong sự phát triển
kinh tế - xó hội của đất nước, thể hiện ở chỗ các XNQD vẫn nắm giữ các
ngành then chốt như điện, hoá chất, luyện kim, xi măng…
Giai đoạn từ1986 đến nay:
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đó đưa ra chính sách kinh tế mới làm
nên một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế ở nước ta, đó là chính sách
đổi mới cơ chế kinh tế : xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trỡnh hỡnh thành cơ chế kinh tế
mới, công tác quản lý KTQD vẫn cũn tiếp tục được cải tiến theo hướng phi
tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý và quản lý đối với KTQD, đồng thời
các thành phần kinh tế khác được hỡnh thành và chỳ trọng phỏt triển, đó là
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và các thành phần khác. Từ đây KTQD
mất vị trí độc tôn trong nền kinh tế quốc dân. Song không có nghĩa là nó
không cũn giữ vai trũ chủ đạo nữa, mà ngược lại hơn bao giờ hết vai trũ chủ
đạo của kinh tế quốc doanh – đó đổi thành kinh tế nhà nước - được xem là
quan trọng và cần thiết nhất. Trên giác độ kinh tế thỡ KTNN luụn nắm giữ
những lĩnh vực then chốt, những ngành trọng yếu của nền kinh tế như: CN
năng lượng (dầu mỏ, than, điện), công nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu
xây dựng…
Như vậy cùng với tiến trỡnh lịch sử xõy dựng và phỏt triển QHSX mới
XHCN của nước ta, KTNN đó khẳng định được vai trũ chủ đạo mà chỉ có nó
mới thực hiện được những nhiệm vụ mà lịch sử phát triển đưa ra KTNN đó
nắm được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trũ mở
đường hướng dẫn nền kinh tế phát triển đúng định hướng đó chọn suốt cả một
thời kỳ lịch sử phỏt triển kinh tế.
2.2 Kinh tế nhà nước và vai trũ chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Trang 8
Để hiểu đúng vai trũ của một thành phần kinh tế trong một cơ chế kinh tế
nhất định thỡ ta phải hiểu được cơ chế vận hành và đặc trưng cơ bản của cơ
chế kinh tế đó. Vỡ vậy ở đây ta nghiên cứu về kinh tế nhà nước trong cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thỡ trước hết ta sẽ tỡm hiểu qua về cơ
chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Ta có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá
do sự tác động của các quy luật vốn có của nó (đó là quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tê…), cơ chế đó giải
quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gỡ, như thế nào và cho ai.
Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị
trường.
Vậy nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN mà nước ta đang vận dụng là gỡ? Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào)
của nền kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng
thời phải tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà
nước XHCN. Từ khái niệm này ta có thể hiểu nôm na rằng, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị
trường hướng tới chế độ XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đó
là mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ văn
minh.
Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự phát, các nhân tố kinh
tế của cơ chế đó tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn
đến sự biến đổi, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đó vừa là ưu điểm, vừa
là hạn chế của cơ chế này. Nó có thể mang lại một nền kinh tế phát triển với
tốc độ nhanh, nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xó hội đó là
phân biệt giàu nghèo, bất công, tệ nạn xó hội gia tăng…
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo
hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điểm
của cơ chế thị trường để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế kém phát
triển của nước ta, đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xó hội cụng bằng, dõn chủ ,văn minh.
Ở các phần trên ta đó rỳt ra được rằng để xây dựng một nền kinh tế theo
chế độ XHCN thỡ nhất định kinh tế nhà nước phải luôn nắm vai trũ chủ đạo,
bởi nó là lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nó là
công cụ để nhà nước dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đó chọn, nú
Trang 9
đóng vai trũ quan trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế
phát triển. Cũn trong cơ chế kinh tế thị trường thỡ sao?
Nếu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, không sự
quản lý của nhà nước thỡ sẽ bộc lộ rừ ngay những hạn chế, yếu kộm, những
khuyết tật vốn có của nó. Bởi vậy với định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự
quản lý của nhà nước thỡ nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành
quả cả về mặt xó hội và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng
phải được củng cố và phát triển hơn nữa – mà đại diện của nó là thành phần
kinh tế nhà nước phải được tổ chức làm sao ngày càng hoàn thiện và nắm
được vai trũ chủ đạo của nó trong nền kinh