Lịch sử kế toán trải qua rất nhiều thời kỳ cơ bản khác nhau như thời kỳ mà
công việc của kế toán gắn liền với những phương pháp, kỹ thuật thu thập thông tin
giản đơn các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh mang tính thống kê lại tài sản,
nguồn vốn, chi phí, thu thập, lợi nhuận ở phạm vi hẹp về tình hình hoạt động kết quả
kinh doanh chuyển sang thời kỳ phát triển vượt bậc củasự tính toán bằng khoa học
hiện đại về kỹ thuật. Xét trên diện rộng vi mô sự thay đổi này làm đảo lộn lại toàn
bộ hệ thống kế toán trước đây nó có sự ảnh hưởng và tầm quan trọng rất lớn đối với
hệ thống kế toán. Xét trên diện hẹp vi mô đối với các công ty sự thay đổi này cũng
làm ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của bản thân mình do bởi hệ thống kế
toán thay đổi sẽ làm cho sự cạnh tranh về sản phẩm thay đổi như chất lượng và giá
cả của sản phẩm. Những nhân tố chất lượng và giá cả dựa trên cơ sở hao phí về lao
động sống và lao động cá biệt của doanh nghiệp.
Tập hợp chi phí và tính giá thành của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
đánh giá nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp nó phản ảnh mộtcách tổng quát về
mặt kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý. Mặt khác nó còn lại cơ sở để định giá bán
cho sản phẩm, phân tích chi phí và là căn cứ để xác định kết quả kinh doanh. Tuy
nhiên để xác định đúng được những nhân tố trên điều cấp thiết đốivới mỗi nhà
quản trị là đưa ra được những phương pháp cụ thể xây dựng, tổ chức và tính toán
được chi phí và giá thành của sản phẩm sao cho chính xác.
Chính từ tính cấp thiết như trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Tổ chức hệ thống kế
toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động (ABC) tại Công Ty
Bao Bì Nhựa Sài Gòn” nhằm góp phần giải quyết một số vấn đề về lý luận và sự
1
ứng dụng vào thực tiễn hiện tại của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công Ty Bao Bì Nhựa Sài Gòn
64 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tổ chức hệ thống kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động (ABC) tại Công Ty Bao Bì Nhựa Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử kế toán trải qua rất nhiều thời kỳ cơ bản khác nhau như thời kỳ mà
công việc của kế toán gắn liền với những phương pháp, kỹ thuật thu thập thông tin
giản đơn các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh mang tính thống kê lại tài sản,
nguồn vốn, chi phí, thu thập, lợi nhuận ở phạm vi hẹp về tình hình hoạt động kết quả
kinh doanh chuyển sang thời kỳ phát triển vượt bậc của sự tính toán bằng khoa học
hiện đại về kỹ thuật. Xét trên diện rộng vi mô sự thay đổi này làm đảo lộn lại toàn
bộ hệ thống kế toán trước đây nó có sự ảnh hưởng và tầm quan trọng rất lớn đối với
hệ thống kế toán. Xét trên diện hẹp vi mô đối với các công ty sự thay đổi này cũng
làm ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của bản thân mình do bởi hệ thống kế
toán thay đổi sẽ làm cho sự cạnh tranh về sản phẩm thay đổi như chất lượng và giá
cả của sản phẩm. Những nhân tố chất lượng và giá cả dựa trên cơ sở hao phí về lao
động sống và lao động cá biệt của doanh nghiệp.
Tập hợp chi phí và tính giá thành của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
đánh giá nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp nó phản ảnh một cách tổng quát về
mặt kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý. Mặt khác nó còn lại cơ sở để định giá bán
cho sản phẩm, phân tích chi phí và là căn cứ để xác định kết quả kinh doanh. Tuy
nhiên để xác định đúng được những nhân tố trên điều cấp thiết đối với mỗi nhà
quản trị là đưa ra được những phương pháp cụ thể xây dựng, tổ chức và tính toán
được chi phí và giá thành của sản phẩm sao cho chính xác.
Chính từ tính cấp thiết như trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Tổ chức hệ thống kế
toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động (ABC) tại Công Ty
Bao Bì Nhựa Sài Gòn” nhằm góp phần giải quyết một số vấn đề về lý luận và sự
1
ứng dụng vào thực tiễn hiện tại của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công Ty Bao Bì Nhựa Sài Gòn.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Chuyên đề đã phần nào góp phần làm rõ về cơ sở lý luận và áp dụng thực
tiễn về chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm về sản xuất bao bì
nhựa trong Cty Nhựa Sài Gòn. Đặc biệt là đã đưa ra được phương pháp tính giá
thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động (ABC) thay vì trước đây sử dụng phương pháp
tính giá thành sản phẩm trên cơ sở khối lượng.
Thực tế cho thấy phương pháp tổ chức hệ thống kế toán chi phí và tính giá
thành sản phẩm trên cơ sở khối lượng không phải là một phương pháp mới trên thế
giới xong lại là một phương pháp mới đối với nền kế toán của việt nam. Tuy nhiên
phương pháp tính toán này đã được đúc kết những kinh nghiệm quản lý của các
nước có hiệu quả nên nó có tính chất đặc thù chung và đặc thù riêng của nó.
3. Mục đích
Nhằm một bước cải thiện hơn về mặt lý luận tổ chức kế toán chi phí và tính
giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động (ABC). Mặt khác đưa ra phương pháp tính
toán mới mẻ hơn so với phương pháp cũ đã được áp dụng mà không mang lại hiệu
quả cao tại Công ty Bao Bì nhựa sài gòn nhằm góp phần thúc đẩy việc duy trì, phát
triển lâu dài của Công ty. Bên cạnh đó đề tài còn đưa ra được sự khác biệt lớn giữa
phương pháp tính giá thành trên cơ sở khối lượng và phương pháp trên cơ sở hoạt
động (ABC).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về mặt lý luận và vận dụng hệ thống kế toán chi phí sản
xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động tại Công ty Bao
Bì Nhựa Sài gòn.
2
5. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề đã sử dụng phương pháp tổng hợp để nghiên cứu như phương pháp
thống kê, chọn mẫu, so sánh, phân tích, quan sát. Nhưng phương pháp mang tính chủ
đạo vẫn là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đưa ra được cơ sở lý luận và vận dụng có tính sáng tạo (dựa trên nền tảng) một
số nội dung kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động tại
Công ty Bao Bì Nhựa Sài Gòn.
Chỉ ra được những nhược điểm quan trọng về tổ chức hệ thống chi phí và tính giá
thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động qua đó đưa ra được phương pháp có tính khả
thi hơn nhằm đắp ứng được yêu cầu của nhà quản lý
7. Bố cục Luận văn gồm 3 nội dung chính .
Chương 1 : Cơ sở lý luận về việc tổ chức hệ thống kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động.
Chương 2 : Thực trạng hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại Công ty bao bì nhựa sài gòn.
Chương 3 : Phương hướng tổ chức hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trên cơ sở hoạt động tại Công ty bao bì nhựa sài gòn.
3
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC TỔ CHỨC HỆ
THỐNG KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRÊN CƠ SỞ HOẠT ĐỘNG
1.1 Hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở
khối lượng.
1.1.1 Đặc điểm hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trên cơ sở khối lượng
Giá thành sản phẩm là gì ?
Bàn luận đến giá thành sản phẩm có thể thấy được rất nhiều quan điểm sau :
Quan điểm 1 : [5,10-11] “Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ
những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá được tính cho một đại lượng,
kết quả sản phẩm hoàn thành nhất định”. Quan điểm này đã đưa ra được những yếu
tố vật chất bên trong cấu thành nên bản thân sản phẩm và thực hiện giá trị của sản
phẩm, mặt khác cho thấy được nội dung cơ bản của giá thành sản phẩm và tiết kiệm
được chi phí sản xuất theo hướng tuyệt đối và tương đối là những biện pháp cơ bản
để hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng cường doanh lợi. Chính những ưu điểm này mà
đôi khi người ta lầm tưởng rằng cứ sản xuất nhiều sản phẩm thì giá thành hạ và tăng
cường được doanh lợi nhưng vấn đề chính là có mang lại được như vậy hay không?
Quan điểm 2 : [5.11-12] “Giá thành sản phẩm là toàn bộ các khoản chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bất kể nó nằm ở bộ phận nào
trong các bộ phận cấu thành giá trị sản phẩm. Theo quan điểm này thì cần phải xem
xét và giải quyết sự hình thành và phát sinh của các loại chi phí : Chi phí cố định và
chi phí biến đổi. Hay nói cách khác là toàn bộ các đầu vào của các yếu tố vật chất
nhằm mục đích tạo ra những đầu ra tương ứng không phân biệt nó nằm trong bộ
phận nào của các bộ phận thuộc giá trị sản phẩm.
4
Quan điểm 3 : [5,12-13] “Giá thành sản phẩm là biểu hiện mối liên hệ tương
quan giữa một bên là chi phí sản xuất và một bên là kết quả đạt được trong từng giai
đoạn nhất định”. Quan điểm này yêu cầu đánh giá chất lượng sản phẩm ở từng giai
đoạn sản xuất hoặc bộ phận sản xuất mà ở đó có thể xác định được lượng chi phí
tiêu hao và kết quả sản xuất đạt được. Cho phép người quản lý luôn chủ động trong
việc xác định giá thành của từng loại kết quả trong từng giai đoạn sản xuất nhất
định, giúp cho doanh nghiệp nắm bắt kịp thời hiệu quả đầu tư của từng loại công
việc, từng loại sản phẩm. Tuy nhiên quan điểm này không thể hiện được sự gắn chặt
chẽ toàn bộ các đầu vào có liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm trong những
điều kiện nhất định và phạm vi nhất định do vậy không thể hiện được chức năng bù
đắp của chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Từ những quan điểm trên ta có thể kết luận Giá thành sản phẩm là sự chuyển
dịch giá trị các yếu tố vật chất vào giá trị sản phẩm được sản xuất, tiêu thụ và nó
bao gồm toàn bộ các khoản hao phí vật chất thực tế cần được bù đắp bất kể nó
thuộc bộ phận nào trong cấu thành giá trị sản phẩm. Như vậy, giá thành sản phẩm là
một đại lượng xác định, biểu hiện mối liên hệ giữa hai đại lượng là chi phí bỏ ra và
kết quả đã đạt được.
Chức năng giá thành sản phẩm.
Thông qua giá thành người ta có thể đánh giá được toàn bộ các biện pháp kinh
tế tổ chức, kỹ thuật mà các doanh nghiệp đã đầu tư trong quá trình sản xuất kinh
doanh và có thể đánh giá hiệu quả của quá trình sản xuất, khả năng phát triển và
việc sử dụng các yếu tố vật chất như thế nào?
Giá thành sản phẩm có rất nhiều chức năng như thước đo bù đắp chi phí. Đây
là vấn đề quan trọng nhất và được quan tâm đầu tiên của các doanh nghiệp bởi hiệu
quả kinh tế được biểu hiện ra trước hết là doanh nghiêp có khả năng bù lại những
chi phí mà mình đã bỏ ra. [5,14]
5
Chức năng lập giá: Giá của sản phẩm được căn cứ vào giá trị sản phẩm. Việc
xây dựng giá cả quyết định khả năng bù đắp hao phí vật chất và tiêu thụ. [5,14]
Chức năng đòn bẩy kinh tế. Giá thành không chỉ thể hiện trong quá trình thực
hiện nguyên tắc hạch toán kinh tế doanh nghiệp mà thể hiện rõ nét và tích cực trong
nội bộ khi thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ [5,15-16]
Chi phí sản xuất là gì ?
Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình mà các doanh nghiệp phải thường
xuyên đầu tư các loại chi phí khác nhau để đạt được mục đích là tạo ra được khối
lượng sản phẩm do vậy các loại chi phí phát sinh một cách thường xuyên, nó luôn
vận động, thay đổi trong quá trình tái sản xuất.
“Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định” [5,7]. Định nghĩa này về bản chất thì giống với
giá thành sản phẩm cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất, nhưng khác so với giá thành sản
phẩm là về lượng tức là khi đề cập đến chi phí sản xuất thì sẽ không phân biệt cho
loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa hoàn thành.
“Chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra
thực hiện quá trình sản xuất và đạt được mục đích là tạo ra được sản phẩm ở mọi
dạng thể có được của nó” [4,62]. Về mặt định tính chi phí sx là bản thân các yếu tố
vật chất phát sinh và tiêu hao tạo nên quá trình sản xuất và đạt được mục đích là tạo
nên sản phẩm. Về mặt định lượng là bản thân các yếu tố về vật chất của các yếu tố
vật chất tham gia vào quá trình sản xuất và được biểu hiện qua các thước đo khác
nhau mà thước đo chủ yếu là thước đo tiền tệ.
Thông tin về chi phí và giá thành sản phẩm phục vụ cho việc lập kế hoạch, ra
quyết định quản trị và kiểm soát nội bộ. Tập hợp chi phí và phân loại chính xác có ý
6
nghĩa thiết thực trong việc đánh giá đúng thực tế sử dụng nguồn của doanh nghiệp
cũng như đưa ra các quyết định đầu tư và giá bán hợp lý. Do vậy việc tập hợp chi
phí để tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa thiết thực đối với quản trị cũng như cung
cấp thông tin một cách đầy đủ và chính xác đối với các đối tượng bên ngoài. Tuy
nhiên việc tập hợp chi phí gián tiếp cho từng loại sản phẩm luôn là mối lo ngại và
quan tâm đối với mối kế toán giá thành do bởi nó không thể tính trực tiếp vào đối
tượng tính giá thành như chi phí nhân công hay chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Đặc điểm hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành trên cơ sở
khối lượng
Chi phí gián tiếp (chi phí sản xuất chung) được tập hợp vào các đối tượng chi
phí dựa trên các tiêu chí có ít hoặc không có mối quan hệ nhân quả với mức độ hoạt
động của bộ phận. Phân bổ chi phí sản xuất chung theo tỷ lệ chi phí sản xuất chung
diện rộng duy nhất và tỷ lệ chi phí sản xuất chung theo bộ phận tức là theo hệ thống
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở khối lượng sử dụng
phương pháp phân bổ dựa theo tiêu thức phân bổ cấp tổng thể hay bộ phận.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm trên cơ sở khối lượng phân bổ chi phí
gián tiếp dựa trên các tiêu thức đơn như tiền lương lao động trực tiếp hoặc số giờ
máy chạy, hoặc là theo Chi phí nguyên vật liệu chính…
Các chi phí gián tiếp như chi phí sử dụng máy, kiểm tra chất lượng, kiểm tra
tiến độ, mua, bảo dưỡng, giám sát và các chi phí phân xưởng chung (khấu hao nhà
xưởng, bảo hiểm, tiện ích và kho) được tập hợp như chi phí của các bộ phận phục
vụ. Các chi phí này lại được phân bổ cho các bộ phận sản xuất theo tỷ lệ đơn so với
số giờ lao động trực tiếp của từng bộ phận một cách đơn giản, hoặc đôi khi qua
những ý đồ phức tạp khó hiểu.
7
Để tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung có thể sử dụng các tiêu thức như
tỷ lệ tiền lương công nhân sản xuất, tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí
nhân công trực tiếp, với số giờ máy chạy, đơn vị nhiên liệu tiêu hao, số giờ công..
Các tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất chung trên cơ sở khối lượng
Tiêu thức phân bổ chi phí được xem là hợp lý phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau :
Phải gắn liền với sự phát sinh của chi phí được phân bổ.
Phản ánh mức chi phí chung sử dụng của mỗi bộ phận và mức lợi ích mà mỗi bộ
phận thụ hưởngvà tính đơn giản nhất quán và tiết kiệm.
Giờ công lao động trực tiếp
Việc sử dụng giờ công lao động trực tiếp làm tiêu thức để phân bổ chi phí thường
cung cấp một cơ sở định hướng tốt hơn dựa vào các chi phí khác do bởi thời gian lao
động của công nhân trực tiếp liên quan chặt chẽ đến chi phí gián tiếp luôn có mối
liên hệ nhân quả tiền lương lao động trực tiếp và chi phí gián tiếp.
Trong trường hợp tỷ suất lao động giống nhau, không có sự khác biệt chủ yếu
giữa tiêu thức giờ công lao động trực tiếp và tiền lương lao động trực tiếp. Nên việc
phân bổ chi phí gián tiếp theo phương pháp này là phù hợp hơn. Tuy nhiên nếu dựa
vào giờ công lao động trực tiếp nó sẽ không thể đúng được trong các doanh nghiệp
hoạt động sản xuất với trang thiết bị không phải là tự động hoá mà chi phí của nó
rất thấp so với chi phí nhân công để vận hành máy móc thiết bị.
Việc sử dụng tiêu thức giờ công lao động trực tiếp có thể tạo ra những lệch lạc
lớn trong phân bổ chi phí sản xuất chung
Tiền lương lao động trực tiếp
Để tính chi phí về tiền lương cần dựa vào hao phí thực tế về số lượng, chất lượng
lao động và đơn giá lương được quy định trong những điều kiện cụ thể. Số lượng lao
động mà đơn vị sử dụng để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh gồm lao động
thường xuyên và lao động có tính chất tạm thời.
8
Phương pháp này để phân bổ chi phí gián tiếp cần sử dụng tiền lương lao động
trực tiếp của các công nhân sản xuất tạo ra sản phẩm. Như vậy đối với những sản
phẩm cần nhiều công nhân lao động hơn, tiền lương cao hơn sẽ phải gánh chịu phần
nguồn sử dụng nhiều hơn trong sản xuất và dung cấp dịch vụ và những sản phẩm
cần ít công nhân hơn nhưng lại đòi hỏi phải tự động hoá sản xuất tiền lương thấp
hơn thì gánh chịu phần ít hơn chi phí gián tiếp, nhưng thực tế lại không phải như vậy
do bởi nếu sử dụng máy móc tự động nhưng chi phí khấu hao, chi phí nhiên liệu sử
dụng cao hơn … thì chi phí gián tiếp phải nhiều hơn mới đúng.
Số giờ máy chạy
Chi phí khấu hao, nhiên liệu xử dụng…. phụ thuộc vào việc sử dụng máy móc
thiết bị và thường biến động trực tiếp với việc sử dụng máy móc. Nhưng bên cạnh
đó nó cũng rất khó khăn trong việc thu thập dữ liệu về sử dụng máy móc thiết bị.
Việc theo dõi mục đích sử dụng máy móc thiết bị cho một đối tượng chi phí cụ thể là
rất khó khăn, thời gian máy chạy không thể tính riêng chi từng đối tượng chi phí
được.
Chi phí gián tiếp được tập hợp vào các đối tượng chi phí dựa trên các tiêu chí có
ít hoặc không có mối quan hệ nhân quả với mức độ hoạt động của bộ phận. Sự phân
bổ chi phí như vậy có thể không chính xác và nhầm lẫn vì một sản phẩm có thể
gánh chịu quá nhiều chi phí trong khi các sản phẩm khác được đánh giá thấp hơn chi
phí thực tế.
Công thức phân bổ chi phí sản xuất chung
Mức phân bổ chi phí Chi phí sản xuất chung Số đơn vị của từng
sản xuất chung = thực tế phát sinh trong tháng x đối tượng theo
cho từng đối tượng Tổng số đơn vị của các đtượng tiêu thức được
được phân bổ tính theo tiêu thức lựa chọn
đựơc lựa chọn
9
VD1 : Số liệu tại Công Ty Z như sau :
Số lượng Sản phẩm hoàn thành X : 100, sản phẩm Y : 50
Số giờ công lao động trực tiếp và số giờ máy chạy được tập hợp (bảng 1.1)
BẢNG 1.1
DỮ LIỆU TẬP HỢP
Chi phí
X
Đơn vị sp
Y
Đơn vị sp
Tổng
cộng
Đ.giá
(đ)ù/giờ
Giờ công lao động trực tiếp 6giờ 4giờ 800giờ 15.000
Số giờ máy chạy 4giờ 3giờ 550giờ 40.000
Tổng chi phí sản xuất chung : 50.000.000 đ
Từ những giả thiết trên ta có thể phân bổ chi phí sản xuất chung theo một trong 2
cách sau :
10
Giờ công lao động trực tiếp
50.000.000
Sản phẩm X = x 9.000.000 = 37.500.000
15.000 x 800
50.000.000
Sản phẩm Y = x 3.000.000 = 12.500.000
15.000 x 800
TC = 50.000.000
Số giờ máy chạy
50.000.000
Sản phẩm X = x 16.000.000 = 36.364.000
550 x 40.000
50.000.000
Sản phẩm Y = x 6.000.000 = 13.636.000
550 x 40.000
TC = 50.000.000
Nếu lựa chọn tiêu thức phân bổ theo giờ công lao động trực tiếp, Chi phí sản
xuất chung phân bổ cho sản phẩm X : 37.500.000 Sản phẩm Y : 12.500.000, Nếu
lựa chọn tiêu thức phân bổ theo số giờ máy chạy Sản phẩm X : 36.364.000 Sản
phẩm Y : 13.636.000, Sản phẩm X chênh lệch giảm 1.136.000, sản phẩm Y chênh
lệch tăng 1.136.000.
Do vậy chỉ với việc đưa ra phương pháp phân bổ chi phí sản xuất chung dựa theo
tiêu thức giờ công lao động trực tiếp hay số giờ máy chạy thì chi phí của sản phẩm
này sẽ được tính vào chi phí cho sản phẩm khác và ngược lại.
Như vậy liệu các tiêu thức phân bổ theo hệ thống kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành s