Nền kinh tế nước ta đã trải qua thời kỳ dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mặc dù đây là một cơ chế đã phát huy hiệu quả rất cao khi đất nước có chiến tranh nhưng trong hoà bình thì cơ chế này trở nên lạc hậu kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhận thức rõ điều này tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI – 1986, Đảng và nhà nước ta chủ trương đổi mới và xác định đặc điểm của nền kinh tế nước ta:” Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với sự chuyển biến mạnh mẽ của cơ chế quản lý nhà nước, lúc này có thể nói công tác kế hoạch trở thành một công cụ quản lý đắc lực của các doanh nghiệp và các tổ chức khác đem lại hiệu quả cao trong quản lý. Là nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới trên đất nước ta hơn 10 năm qua.
Mặc dù trong những năm gần đây công tác lập kế hoạch đã có sự đổi mới tuy nhiên sự đổi mới đó vẫn còn nhiều bất cập, cần được tiếp tục hoàn thiện từ nhận thức của người làm kế hoạch đến nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch, để công tác kế hoạch thực sự trở thành một công cụ đắc lực, có hiệu quả trong công tác quản lý của doanh nghiệp.
Qua quá trình tìm hiều về mặt lý luận và thực tiễn tại công ty dịch vụ kĩ thuật dầu khí (PTSC), nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề trên tôi đã chọn đề tài: Xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2004 của công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp.
ChươngII: Phân tích thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí 2000-2003
ChươngIII: Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty cho năm 2004 và các giải pháp thực hiện kế hoạch trong ba quý còn lại của năm 2004
75 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2004 của công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta đã trải qua thời kỳ dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mặc dù đây là một cơ chế đã phát huy hiệu quả rất cao khi đất nước có chiến tranh nhưng trong hoà bình thì cơ chế này trở nên lạc hậu kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhận thức rõ điều này tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI – 1986, Đảng và nhà nước ta chủ trương đổi mới và xác định đặc điểm của nền kinh tế nước ta:” Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với sự chuyển biến mạnh mẽ của cơ chế quản lý nhà nước, lúc này có thể nói công tác kế hoạch trở thành một công cụ quản lý đắc lực của các doanh nghiệp và các tổ chức khác đem lại hiệu quả cao trong quản lý. Là nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới trên đất nước ta hơn 10 năm qua.
Mặc dù trong những năm gần đây công tác lập kế hoạch đã có sự đổi mới tuy nhiên sự đổi mới đó vẫn còn nhiều bất cập, cần được tiếp tục hoàn thiện từ nhận thức của người làm kế hoạch đến nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch, để công tác kế hoạch thực sự trở thành một công cụ đắc lực, có hiệu quả trong công tác quản lý của doanh nghiệp.
Qua quá trình tìm hiều về mặt lý luận và thực tiễn tại công ty dịch vụ kĩ thuật dầu khí (PTSC), nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề trên tôi đã chọn đề tài: Xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2004 của công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp.
ChươngII: Phân tích thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí 2000-2003
ChươngIII: Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty cho năm 2004 và các giải pháp thực hiện kế hoạch trong ba quý còn lại của năm 2004 .
chương 1
Cơ sở lý luận về công tác xây dựng kế hoạch
trong doanh nghiệp
i. khái niệm & vai trò của kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp.
1. Kế hoạch và vai trò của kế hoạch với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.1 Định nghĩa:
Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một công cụ quản lý quan trọng, không thể thiếu được với bất kì doanh nghiệp nào dù là lớn hay nhỏ, dù là doanh nghiệp quốc doanh hay ngoài quốc doanh.Với chức năng tạo sự chủ động trong công việc huy động và sử dụng mọi nguồn lực của doanh nghiệp nhằm làm tăng hiệu quả cho doanh nghiệp.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng là một phạm trù kinh tế và như mọi phạm trù khác nó có nhiều cách tiếp cận theo nhiều khía cạnh để có thể hiểu hết ý nghĩa và bản chất của nó.
Với cách tiếp cận theo quá trình thì cho rằng : Kế hoạch kinh doanh là một quá trình liên tục xoáy trôn ốc với chất lượng ngay càng tăng, kể từ khi chuẩn bị xây dựng cho tới lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp theo các mục tiêu đã định.
Theo quan niệm cua Steiner thì: Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một quá trình bắt đầu bởi việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược được thực hiện nhằm hoàn thiện hơn bản kế hoạch. Như vậy, theo cách tiếp cận của Steiner thì các khái niệm về hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết định để đạt được kết quả mong muốn đều đã được thể hiện trong bản kế hoạch.
Kế hoạch hoá chiến lược là một trạng thái ý tưởng, đó là sự suy nghĩ về qúa trình tiến triển, về sự phát triển của doanh nghiệp trong thời gian tới. Ngày nay, kế hoạch hoá doanh nghiệp được xem như là một quá trình xác định các mục tiêu các phương án huy động nguồn lực (bên trong và bên ngoài) nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã xác định. Kế hoạch hoá quan tâm đến sự biến động môi trường trong và ngoài doanh nghiệp hay là đến tính phức tạp của các vấn đề. Đồng thời số lượng các bộ phận kế hoạch, tính chất, đặc điểm, chức năng, thời hạn, đối tượng khác nhau cũng được cân nhắc kỹ. Từ đó mới thấy được tính phức tạp của hoạt động kế hoạch hoá.
Theo cách tiếp cận hiện nay được nhiều người sử dụng ở Việt Nam thì kế hoạch là những chỉ tiêu những con số được dự kiến, ước tính trước trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để đạt được hiệu quả cao nhất (tức là phù hợp với yêu cầu về thị trường, phù hợp với pháp luật và khả năng thực tế của doanh nghiệp).
Theo quan niệm này thì những chỉ tiêu những con số phải có cơ sở khoa học, cơ sở thực tế và nó phải được thể hiện ở bảng biểu kế hoạch. Những con số chỉ tiêu này mang tính khả năng và muốn biến chúng thành hiện thực thì phải áp dụng hệ thống các biện pháp.
Nói tóm lại, kế hoạch thực chất là xác định mục tiêu phấn đấu và dự kiến sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực để đạt mục tiêu với hiệu quả kinh tế cao. Nếu có một kế hoạch tốt, có chất lượng thì đã đạt được 50% mục tiêu đặt ra.
1.2 Vai trò của xây dựng kế hoạch.
1.2.1 Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chính là các chỉ tiêu pháp lệnh mà nhà nước giao cho, cùng với các chỉ tiêu đó nhà nước căn cứ cung cấp nguyên nhiên liệu đầu vào và bao tiêu đầu ra cho doanh nghiệp. Hay nói cách khác doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho chính mình, nhưng không có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn toàn thụ động trước thị trường không kích thích, sáng tạo, kìm hãm sản xuất.
1.2.2Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
a.Từ những đặc trưng của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường hoạt động dựa trên các quy luật:
-Quy luật giá trị: Tức là trao đổi hàng hoá được tiến hành phù hợp với chi phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra nó, thể hiện qua quy luật giá cả biến đổi xoay quanh giá trị.
-Quy luật cung cầu: Sự thay đổi thường xuyên giữa nhu cầu về hàng hoá được cung cấp tạo ra một điểm cân bằng mới . Tại đó cung cầu và giá cả của một loại hàng hoá được xác định đối với một hàng hoá nào đó thì khi cung lớn hơn cầu thì giá cả giảm và ngược lại.
-Quy luật cạnh tranh: Tức là mỗi chủ thể khi tham gia vào thị trường phải chấp nhận sự tham gia và cạnh tranh của các đối thủ khác nhằm giành giật thị trường và doanh thu.
Như vậy với 3 quy luật này thì nền kinh tế thị trường có những ưu và nhược điểm:
b.Ưu điểm.
Nền kinh tế thị trường có tính năng động và tính thích nghi cao với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, ở đó tính cạnh tranh cao đòi hỏi các chủ thể cũng phải thay đổi (về đầu tư đổi mới thiết bị, về mặt hàng, về mẫu mã, và về cung cách quản lý) do đó sản xuất phát triển. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao động, đơn vị kinh tế nâng cao tính tự chủ, tự lực và sáng tạo khi tham gia vào thị trường. Các quan hệ kinh tế mở rộng ra thị trường thế giới tạo điều kiện học hỏi, du nhập các nguồn lực với chất lượng cao hơn. Kinh tế thị trường vừa là động lực vừa là phương tiện của sự phát triển.
c.Nhược điểm.
Đó là sự tự phát trong các hoạt động kinh tế, khủng hoảng, lạm phát, mất cân đối kinh tế ngành cùng khu vực, phân hoá giầu nghèo...Không những thế nó còn gây hậu quả về mặt xã hội như phong tục tập quán truyền thống bởi tính thực dụng và quá thiên về mục tiêu lợi nhuận. Cũng do những đặc điểm này mà không thể để nền kinh tế theo hướng thị trường quy định hoàn toàn mà phải có kế hoạch để khắc phục nhược điểm và phát huy những ưu điểm của nó.
Kế hoạch là hoạt động chủ quan, có ý thức của con người nhằm xác định mục tiêu, phương án bước đi trình tự và cách thực hiện mục tiêu. Kế hoạch hoá là yêu cầu của bản thân quá trình lao động của con nguời và gắn liền với quá trình đó. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7&8 của Đảng đều khẳng định “mô hình kinh tế mà chúng ta đang hướng tới xây dựng không thể thiếu được công tác kế hoạch”.
Trong cơ chế này thì vai trò của kế hoạch hoá mới thực sự bộc lộ rõ nét. Những kết quả đạt được sau 10 năm đổi mới càng khẳng định vai trò to lớn của công tác kế hoạch trong doanh nghiệp.
Với cơ chế thị trường, thì thị trường với các nguyên tắc của nó sẽ trực tiếp điều tiết mọi hoạt động của doanh nghiệp hướng dẫn doanh nghiệp trong định hướng và thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh tối ưu để tìm giải pháp cho các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp, thị trường sẽ là cơ sở để doanh nghiệp trả lời các câu hỏi sản xuất cho ai? Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? Nhà nước chỉ có vai trò điều tiết. Nhu vậy thì kế hoạch không chỉ có vai trò đối với doanh nghiệp mà còn trong phạm vi nền kinh tế.
-Trong phạm vi nền kinh tế: Kế hoạch hoá là một trong những công cụ điều tiết chủ yếu của Nhà nước, giúp nhà nước xác định chiến lược,định hướng phát triển chung làm cơ sở hoạch định các chính sách và giải pháp.
-Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch hoá là khâu đầu tiên, bộ phận không thể thiếu trong công tác quản lý. Nếu không có kế hoạch thì không chỉ doanh nghiệp mà bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào cũng đều bị mất phương hướng, như đi trong rừng mà không có la bàn, không biết đi đâu và đích là đâu. Hoạt động kế hoạch giúp doanh nghiệp chủ động trong việc huy động, khai thác, nguồn lực một cách có hiệu quả để hoạch định và thực hiện các mục tiêu hoạt động,dự báo các khả năng và nguồn lực, thẩm định và lựa chọn các phương án phù hợp.
Mặt khác, kế hoạch hoá giúp doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh bằng các kế hoạch nhằm khai thác triệt để các lợi thế so sánh, tận dụng các lợi thế của doanh nghiệp. Xây dựng kế hoạch cũng là cách mà các doanh nghiệp sử dụng để hạn chế rủi ro trong kinh doanh thông qua việc xác định những vùng tương đối an toàn mà ở đó xác suất rủi ro thấp nhất. Các kế hoạch dự phòng cho phép doanh nghiệp ứng phó một cách nhanh nhạy với những thay đổi của thị trường.
Ngoài ra, kế hoạch còn thể hiện được tham vọng của doanh nghiệp trong tương lai nhằm đạt mục tiêu không chỉ tồn tại mà còn phát triển với tốc độ ngày càng cao và ổn định.
1.2.3.Tầm quan trọng của việc xây dựng kế hoạch .
Trong thời gian trước đây, nước ta thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà cơ chế này chỉ phù hợp khi đất nước có chiến tranh,khi hết chiến tranh phải thay đổi nhưng chúng ta vẫn giữ nguyên dẫn đến nền kinh tế bị suy sụp nghiêm trọng tiêu cực xã hội xẩy ra. Nguyên nhân là do kế hoạch tập trung cao độ từ một trung tâm là nhà nước, doanh nghiệp thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh do nhà nước giao một cách chặt chẽ, cứng nhắc và không chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, tính thiếu sáng tạo trong sản xuất kinh doanh dẫn đến nền kinh tế bị trì trệ kéo dài. Nhận thức được điều này Đại hội VI của đảng đã đề ra đường lối đổi mới quản lý kinh tế theo hướng: "Kiên quyết xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo hướng hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trong giai đoạn đầu thực hiện cơ chế mới người ta tưởng rằng lúc này hoàn toàn không cần kế hoạch mà do thị trường điều tiết hoàn toàn, cơ chế mới không có chỗ đứng cho kế hoạch, thực tế, công tác kế hoạch ở nước ta trong những năm trước đây bị coi nhẹ, doanh nghiệp bị cuốn hút và trôi nổi theo thị trường, kế hoạch không những không phát huy được tác dụng là điều tiết thị trường mà còn gây ra sự gò bó, cứng nhắc, thiếu linh hoạt trong quản lý. Biểu hiện cụ thể là những cơn sốt về xi măng, sắt thép,nhà...sự phát triển mất cân đối giữa các ngành công-nông-dịch vụ,giữa các vùng nông thôn-thành thị làm cho lượng lao động di chuyển về thành phố lớn làm ăn một cách ồ ạt sinh nhiều tệ nạn xã hội. Nền kinh tế Việt Nam thực sự bị chao đảo trước “cơn lốc thị trường”.
Mặt khác, kinh nghiệm ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy họ luôn quan tâm đến công tác kế hoạch hoá cấp công ty. Họ đánh giá đúng vai trò, vị trí, chức năng,tổ chức nghiên cứu thực thi nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này. Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng hoạt động kế hoạch hoá công ty là thực sự cần thiết nhằm hai mục đích: tấn công(tận dụng các cơ hội để tăng khả năng thành công của doanh nghiệp) và dự phòng(tránh rủi ro cạm bẫy của thị trường). Các nhà kinh tế và các chuyên gia khác cũng khẳng định chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên trong chu trình quản lý cấp công ty. Thực tế đã cho thấy sự thành công ở các nước như Nhật, Đức ... phải kể đến sự đóng góp của công tác kế hoạch từ trung ương đến địa phương, từ bộ ngành tới các doanh nghiệp kế hoạch chiến lược,kế hoạch tác nghiệp luôn được tiến hành và hoàn thiện hơn.
Như vậy, trong điều kiện Việt Nam công tác kế hoạch sẽ luôn tồn tại và được cải tiến cho phù hợp với từng giai đoạn, từng điều kiện hoàn cảnh, với từng cấp để phát triển kinh tế.
Nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, công tác kế hoạch đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm khắc phục những tồn tại trong thời gian qua. Trong lĩnh vực này đã tồn tại những ý kiến trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của nó. Nhưng từ lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng : công tác kế hoạch là công tác không thể thiếu được trong bất cứ hoạt động nào, sự tồn tại của nó là tất yếu khách quan.
+ứng phó với sự bất định và sự thay đổi của cơ chế thị trường.
Sự bất định và thay đổi làm cho việc lập kế hoạch trở thành tất yếu để ứng phó với sự thay đổi của cơ chế thị trường. Giống như nhà hàng hải không thể chỉ lập trình một lần rồi quên nó, một người quản lý kinh doanh không thể lập một kế hoạch và dừng lại ở đó. Tương lai rất ít khi chắc chắn, và tương lai càng dài thì các kết quả của quyết định mà ta cần phải xem xét, sẽ càng kém chắc chắn .Thậm chí khi tương lai có độ chắc chắn cao thì một số kế hoạch vẫn cần thiết. Thứ nhất là, các nhà quản lý vẫn tìm cách tốt nhất để đạt được mục tiêu. Thứ hai là sau khi tiến trình được xác định cấn phải đưa ra các kế hoạch để sao cho mỗi bộ phận của tổ chức cần phải đóng góp như thế nào vào công việc phải làm.
+Tập trung sự chú ý của tổ chức vào các mục tiêu.
Do toàn bộ công việc lập kế hoạch là nhằm đạt được các mục tiêu của cơ sở cho nên chính hoạt động lập kế hoạch tập trung sự chú ý vào các mục tiêu này. Những kế hoạch được xem xét là đủ toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận nhằm thực hiện những mục tiêu của tổ chức.
+Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế.
Việc lập kế hoạch sẽ cực tiểu hoá chi phí vì nó chú trọng vào các hoạt động hiệu quả và sự phù hợp. Kế hoạch thay thế những hoạt động manh mún, không có định hướng chung, thay thế luồng hoạt động thất thường bởi một luồng đều đặn, và thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết định có tính cân nhắc kĩ lưỡng, giúp cho tổ chức chủ động trong việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực sản xuất.
+Làm đơn giản hoá việc kiểm tra.
Người quản lý không thể kiểm tra công việc của các cấp dưới nếu không có được mục tiêu đã định để đo lường. Như một người lãnh đạo cấp cao đã từng nói. "Khi tôi rời khỏi văn phòng lúc năm giờ chiều, tôi không còn quan tâm tới những việc xẩy ra trong ngày hôm đó,tôi chẳng thể làm gì được nữa, tôi sẽ chỉ xem xét những việc có thể xẩy ra vào ngày mai hoặc ngày kia hoặc vào năm tới, bởi vì tôi còn có thể làm được một điều gì đó về những vấn đề này". Ta có thể thấy điều quan trọng trong kiểm tra có hiệu quả là sự kiểm tra hướng tới tương lai.
1.2.4.Những sai lầm có thể gặp phải trong công tác xây dựng kế hoạch
-Các phương án và quyết định kế hoạch thường dựa trên cơ sở kết quả dự báo, dự đoán, do đó kế hoạch hoá có thể gặp sai lầm do các hiện tượng, quá trình dự tính có thể thay đổi trước biến động của môi trường (suy thoái kinh tế, công nghệ mới ...) do đó làm sai kế hoạch ban đầu.
Một nhà kinh tế học người Đức đã nói: "Một kế hoạch tốt nhất là không có kế hoạch”. ý muốn nói không có một kế hoạch cứng nhắc nào cả mà nó phải luôn luôn được điều chỉnh thay đổi phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, ngay cả khi kế hoạch đã được xây dựng xong thì công tác kế hoạch hoá vẫn chưa được chấm dứt. Tóm lại, người lập kế hoạch phải thường xuyên theo dõi và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế khách quan.
-Kế hoạch hoá là một quá trình dài và những khoản chi phí lớn.Nó đòi hỏi sự nỗ lực và phối hợp của nhiều nguời và những khoản chi phí lớn. Mọi sự điều chỉnh kế hoạch đều gây hậu quả về nhiều mặt vì vậy đều khó thực hiện.Có thể nói kế hoạch là cứng nhắc và thiếu linh hoạt.
-Sự gò bó của các thủ tục hành chính, sự thiếu đồng bộ của môi trường pháp lý cũng làm sai lệch kết quả thực hiện và cản trở các hoạt động khác nhau của kế hoạch hoá.
2. Phân loại kế hoạch cấp doanh nghiệp
2.1.Căn cứ vào tiêu thức thời gian hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp bao gồm:
2.1.1. Chiến lược kinh doanh
Nhằm xác định các lĩnh vực hoạt động mà tổ chức sẽ tham gia, xác định các mục tiêu chính sách giải pháp dài hạn( thường là 4-5 năm ) về tài chính, đầu tư, nghiên cứu phát triển, con người... do cấp quản lý cấp cao lập, mang tính tập trung cao và linh hoạt.
2.1.2. Kế hoạch trung hạn:
Phác thảo các chương trình trung hạn để hiện thực hoá các lĩnh vực các mục tiêu, chính sách, giải pháp được hoạch định trong chiến lược đã chọn. Loại này được lập bởi các chuyên gia quản lý cấp cao và chuyên gia quản lý điều hành. Loại này ít tập trung và ít uyển chuyển hơn kế hoạch dài hạn. Thời gian kế hoạch thường kéo dài từ 3 - 5 năm.
2.1.3.Kế hoạch hàng năm:
Tuỳ theo cách thức tiếp cận của kế hoạch chiến lược và trung hạn, cách cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hằng năm có thể được xác định theo chương trình hoặc phương án kế hoạch năm. Kế hoạch năm là sự cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược và kế hoạch trung hạn, kết quả nghiên cứu điều chỉnh các căn cứ xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch. Là kết quả hoạch định của các chuyên gia quản lý điều hành và chuyên gia quản lý thực hiện.
2.1.4. Kế hoạch tác nghiệp và các dự án:
Để triển khai các mục tiêu và thực hiện các hoạt động trong tổ chức.
2.2. Căn cứ vào mối quan hệ gắn bó giữa các loại kế hoạch hoá trong phạm vi tổ chức.
2.2.1.Bộ phận kế hoạch mục tiêu:
Đây là một bộ phận kế hoạch quan trọng nhất của tổ chức, nhằm hoạch định các mục tiêu, chính sách và các giải pháp về sản phẩm, thị trường, qui mô và cơ cấu hoạt động của tổ chức. Nó cũng xác định các chỉ tiêu về tài chính cơ bản nhằm xác định hiệu quả hoạt động gắn với từng phương án được hoạch định.
2.2.2. Các kế hoạch điều kiện hay hỗ trợ: ( Về lao động tiền lương vật tư thiết bị, vốn...).
Nhằm xác định các mục tiêu, giải pháp, phương án huy động, khai thác các khả năng và nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch mục tiêu. Kế hoạch điều kiện được căn cứ và gắn bó với kế hoạch hoá mục tiêu. việc xác định các kế hoạch này nhăm đảm bảo tính đồng bộ trong mục tiêu, giải pháp và điều kiện thực hiện các hoạt động kế hoạch và quản lý. Độ dài của thời gian và yêu cầu của kế hoạch mục tiêu sẽ quyết định các vấn đề tương ứng của kế hoạch điều kiện. Cuối cùng được xây dựng và thực hiên các kế hoạch điều kiện là nhằm đảm bảo và nâng cao tính khả thi của các phương án và chương trình kế hoạch của tổ chức.
Hình 1: Sơ đồ hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp:
Các sứ mệnh và mục tiêu của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh
Kế hoạch trung hạn
Kế hoạch năm
KH SX-TT
KH TC-TD
VT-KT
LĐ-TL
KH-KT
ĐTXD
CB
GTSP
ĐS
Kế Hoạch tác nghiệp
(quý tháng)
Nguồn: Phòng tổ chức nhân sự
Hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp
Trong hệ thống kế hoạch hoá của doanh nghiệp thì kế hoạch hàng năm giữ một vị trí vai trò đặc biệt quan trọng.Nó là sự cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh có căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược. Bên cạnh đó các bộ phận kế hoạch cũng có mối quan hệ khăng khít, ràng buộc với nhau, trong đó kế hoạch sản xuất - tiêu thụ là một trong những bộ phận trung tâm của kế hoạch năm,nó thuộc loại kế hoạch mục tiêu. Các bộ phận kế hoạch khác như vật tư kĩ thuật, lao động tiền lương, nghiên cứu và ứng dụng khoa học kĩ thuật , giá thành sản phẩm...là những kế hoạch điều kiện.
II. phương pháp luận về xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
1. Những yêu cầu và các