Đo lường chất lượng thông tin công bố trong báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam theo mô hình EBO

Thông tin công bố trong báo cáo tài chính (BCTC) có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý ở cấp vi mô cũng như cấp vĩ mô. Có thể nói rằng chất lượng của thông tin công bố trong BCTC ảnh hưởng trực tiếp và có tính chất quyết định sự thành bại của các quyết định kinh doanh. Ở Việt Nam, những thông tin được công bố từ các công ty niêm yết, đặc biệt là các thông tin trong BCTC rất nhạy cảm và quan trọng với các cổ đông và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, đo lường chất lượng thông tin công bố trong BCTC của các công ty niêm yết là vấn đề cần thiết. Bài báo này sẽ tiến hành đo lường theo mô hình EBO đại diện cho phương pháp đo lường dựa trên cơ sở thị trường.

pdf8 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường chất lượng thông tin công bố trong báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam theo mô hình EBO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN6 Số 127 - tháng 5/2018 ÑO LÖÔØNG CHAÁT LÖÔÏNG THOÂNG TIN COÂNG BOÁ TRONG BAÙO CAÙO TAØI CHÍNH CUÛA CAÙC COÂNG TY NIEÂM YEÁT TREÂN THÒ TRÖÔØNG CHÖÙNG KHOAÙN VIEÄT NAM THEO MOÂ HÌNH EBO TS. NGUYỄN THị KHáNH PHƯơNG* TS. NGUYỄN THị LÊ THANH* ThS. NGUYỄN DIỆU LINH* *Học viện Ngân hàng Thông tin công bố trong báo cáo tài chính (BCTC) có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý ở cấp vi mô cũng như cấp vĩ mô. Có thể nói rằng chất lượng của thông tin công bố trong BCTC ảnh hưởng trực tiếp và có tính chất quyết định sự thành bại của các quyết định kinh doanh. Ở Việt Nam, những thông tin được công bố từ các công ty niêm yết, đặc biệt là các thông tin trong BCTC rất nhạy cảm và quan trọng với các cổ đông và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, đo lường chất lượng thông tin công bố trong BCTC của các công ty niêm yết là vấn đề cần thiết. Bài báo này sẽ tiến hành đo lường theo mô hình EBO đại diện cho phương pháp đo lường dựa trên cơ sở thị trường. Từ khóa: Chất lượng thông tin, báo cáo tài chính, công ty niêm yết, mô hình EBO Measuring the quality of information disclosed in the financial statements of listed companies according to EBO model The information disclosed in the financial statements plays on important role on both of the micro and macro management levels. It is said that the quality of information disclosed in the FS directly affect and decisive on the success of business decisions. In Vietnam, the information disclosed by listed companies, especially the information in the financial statements, is very sensitive and important to shareholders and investors on the stock market. Therefore, measuring the quality of information disclosed in the financial statements of listed companies is very necessary. This paper will carry out EBO model measurements that represent market-based measurement. key words: Quality of information, financial statements, listed companies, EBO model Tổng quan nghiên cứu Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thị trường chứng khoán là nơi tập trung nhiều đối tượng tham gia với các mục đích và sự hiểu biết khác nhau. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán trở thành môi trường dễ xảy ra hoạt động gian lận, không công bằng, gây tổn thất cho các nhà đầu tư, cho thị trường và toàn bộ nền kinh tế. Những biến động lớn trên thị trường chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng thông tin công bố trong báo cáo tài chính của các công ty niêm yết. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này. Mỗi nghiên cứu lại có cách tiếp cận khác nhau, phương pháp nghiên cứu khác nhau, phạm vi nghiên cứu khác nhau. Cụ thể như sau: Ở các nghiên cứu trước đây liên quan đến chất lượng thông tin kế toán công bố trong BCTC thì nổi bật lên là nghiên cứu của Francis và các cộng sự (2004) đã phân loại các chỉ tiêu sử dụng để đo lường chất lượng thông tin dựa trên cở sở thị trường gồm thích hợp, thận trọng và kịp thời, các chỉ tiêu được sử dụng các đặc điểm này để ước tính mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá thị trường của cổ phiếu. Nghiên cứu của Ewert & Wagenhofer (2011) và Perotti & Wagenhofer (2011) đã đo lường chất NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 7Số 127 - tháng 5/2018 lượng thông tin BCTC dựa trên cơ sở thị trường. Nghiên cứu của Barth và các cộng sự (2001), Collins (1997), Nichols & Wahlen (2004) cho rằng mô hình giá trị thích hợp đo lường chất lượng thông tin công bố trên BCTC vì mô hình này thể hiện mối quan hệ giữa các biến thông tin kế toán với phản ứng của giá cổ phiếu. Ngoài ra, Bernard (1995) và mô hình Ohlson (1995) đã góp phần quan trọng trong các nghiên cứu về thị trường vốn những năm 90 và đã cung cấp một nền tảng lý thuyết trong việc xác định mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu. Vì vậy, nhóm tác giả sử dụng mô hình EBO đại diện cho phương pháp đo lường chất lượng thông tin công bố trong BCTC của các công ty niêm yết dựa trên cơ sở thị trường. Phương pháp nghiên cứu Mô hình EBO (Edward Bell Ohlson) là mô hình được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu trước đó khi đo lường giá trị thích hợp của thông tin kế toán. Các nghiên cứu đã sử dụng mô hình EBO để kiểm định về giá trị thích hợp của thông tin kế toán trên các thị trường khác nhau như ở các nước Châu Âu và Mỹ có nghiên cứu của Collins, Maydew & Weiss (1997) về thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn 1953 – 1993; King & Langli (1998) nghiên cứu tại thị trường Anh và Nauy giai đoạn 1982 – 1996; Halonen tại Thủy Điển trong thời gian từ năm 2007 – 2010. Ở các nước Châu á (đặc biệt là Đông Nam á) gồm nghiên cứu của Malcolm Smith về thị trường chứng khoán Malaysia trong giai đoạn từ năm 1987 đến 1996. Nghiên cứu của Yan Bao (2004) về thị trường chứng khoán các nước Singapore, Malaysia, Hong Kong, Thái Lan, Indonesia, Philippines và Hàn Quốc giai đoạn 1988 - 1999. Mô hình EBO chỉ ra rằng giá cổ phiếu chịu ảnh hưởng của 2 biến kế toán là giá trị sổ sách của của vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu và lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu. Mô hình EBO gốc là: MPSit = α0 + α1BVit + α2EPSit + eit Trong đó: MPSit: Giá thị trường của cổ phiếu α0 là hệ số chặn α1, α2 là các hệ số BVit là giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu của công ty i trong năm t EPSit là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của công ty i trong năm t eit là phần dư Sau đó, nghiên cứu của Abubakar (2011), Hassan (2012) và Ahmed (2012) đã sử dụng mô hình EBO điều chỉnh để đo lường chất lượng thông tin kế toán công bố trong báo cáo tài chính, cụ thể như sau: MPSit = α0 + α1 BVit + α2 EPSit+ α3 EPS1it+ eit (1) NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN8 Số 127 - tháng 5/2018 Trong đó: MPSit: Giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu α0 là hệ số chặn α1, α2, α3 là các hệ số BVit: Giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu của công ty i trong năm t EPSit: Lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi cổ phiếu của công ty i trong năm t EPS1it: Thay đổi lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu. eit: Phần dư Theo Francis và các cộng sự (2004) và Schipper & Vincent (2003) thì mô hình EBO điều chỉnh đã bổ sung thêm biến là EPS1 (là sự thay đổi trong thu nhập) so với mô hình EBO gốc là do giá cổ phiếu đại diện cho giá trị thị trường của công ty và mô hình này được sử dụng để kiểm tra tính bền vững của chỉ tiêu lợi nhuận, khả năng dự báo và sự thay đổi của các yếu tố về chất lượng báo cáo. Các bước thực hiện: + Xác định MPSit, BVit, EPSit, EPS1it + Thực hiện phân tích hồi quy để ước lượng các tham số α0, α1, α2, α3 + Thay các tham số vừa tìm được vào công thức (1) tính ra được phần dư eit Giá trị thích hợp của thông tin kế toán sẽ được lấy giá trị tuyệt đối của e vì chênh lệch giữa MPS với giá trị của BV, EPS, EPS1 đều thể hiện giá trị thích hợp của thông tin kế toán công bố trong BCTC nên giá trị này âm hay dương đều thể hiện là có sự chênh lệch. Giá trị tuyệt đối của e càng cao thì giá trị thích hợp của thông tin kế toán công bố trên BCTC càng thấp và ngược lại. Như vậy, giá trị tuyệt đối của e chính là thang đo cho chất lượng thông tin kế toán công bố trong BCTC, giá trị tuyệt đối của e càng cao thì chất lượng thông tin kế toán công bố trong BCTC càng thấp và ngược lại. Trong phân tích hồi quy, hệ số R2 đo lường tỷ lệ thay đổi biến phụ thuộc giải thích bởi các biến độc lập. Cụ thể, trong mô hình đo lường theo giá trị thích hợp của thông tin kế toán thì hệ số R2 đo lường mức độ thay đổi của giá cổ phiếu, vì vậy khả năng giải thích này đo lường giá trị thích hợp của thông tin kế toán và R2 càng lớn thì giá trị thích hợp của thông tin kế toán (chất lượng của thông tin công bố trong BCTC) càng cao và ngược lại. Theo Ball và các cộng sự (2003) đã nói rằng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận có thể không được sử dụng đúng khi các công ty lập và trình bày BCTC vì những mục đích khác nhau nên không đánh giá được thực tế BCTC của các doanh nghiệp. Do đó, để đánh giá chất lượng thông tin công bố trong BCTC của một công ty, quan trọng là chúng ta xem xét các công ty này đã công bố những thông tin trong BCTC như thế nào. Theo Hassan (2012) thì khi đánh giá chất lượng thông tin công bố trong BCTC của các công ty chúng ta không thể dựa vào những gì họ cung cấp mà phải dựa vào những gì họ làm thông qua mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và thông tin công bố trong BCTC và mối quan hệ này càng chặt chẽ nghĩa là thông tin trình bày trên BCTC càng thích hợp (chất lượng thông tin công bố trong BCTC càng cao). Ngoài việc sử dụng hệ số R2 để đo lường giá trị thích hợp của thông tin kế toán, chúng ta còn có thể sử dụng phần dư ε để đo lường bởi vì phần dư bao gồm sự khác nhau giữa giá trị của các quan sát của biến phụ thuộc (giá cổ phiếu) với các giá trị dự đoán của đường hồi quy. Vì vậy, phần dư càng nhỏ thì giá trị thích hợp của thông tin kế toán (chất lượng của thông tin công bố trong BCTC) càng cao và ngược lại. Phân tích kết quả nghiên cứu Kết quả thực nghiệm tác động của BV, EPS, EPS1 đối với giá trị cổ phiếu (MPS) của các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2012-2016. Năm BV EPS EPS1 Giá trị F Sig. Hệ số hồi quy điều chỉnh R2 Durbin - Watson VIF 2012-2016 0.199(11.774)* 0.640 (36.278)* 0.170 (12.160)* 1071.830 0.000 0.567 1.174 1.624 (*) Ý nghĩa thống kê tại mức 1% (p < 0.01) Nguồn: Nhóm tác giả tính toán NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 9Số 127 - tháng 5/2018 Kết quả hồi quy đa tuyến tính cho thấy ba biến độc lập trong mô hình là BV, EPS, EPS1 đều có sức mạnh giải thích đáng kể cho sự biến động của giá trị cổ phiếu của các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Cụ thể: - Tác động của chỉ tiêu giá trị ghi sổ của vốn chủ sở hữu (BV) cho thấy: Tác động của BV đối với MPS ở nghiên cứu này là 0,199. Chứng tỏ BV có tác động dương, hay tác động cùng chiều với MPS, cụ thể khi giá trị BV biến động tăng 100 đồng thì giá trị thị trường của cổ phiếu biến động tăng 19,9 đồng. Kết quả phân tích thực nghiệm hoàn toàn đúng với nghiên cứu của các nước. Theo kết quả nghiên cứu của Malcolm Smith về thị trường chứng khoán ở Malaysia trong giai đoạn từ năm 1987 đến 1996 thì chỉ tiêu BV tác động mạnh mẽ đến chỉ tiêu MPS là 0.423, cũng với ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Qua đó, nghiên cứu này là hoàn toàn đúng với nghiên cứu của các nước khác. Vậy kết luận rằng, chỉ tiêu BV có tác động cùng chiều với chỉ tiêu MPS. Khi BV tăng lên thì kéo theo MPS cũng tăng lên. Nhưng ở Việt Nam, do xu hướng của các nhà đầu tư chưa quan tâm nhiều đến thông tin vốn chủ sở hữu nên tác động này chưa cao như các nước khác. - Tác động của chỉ tiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) cho thấy: Tác động của EPS đối với MPS ở nghiên cứu này là 0.640. Chứng tỏ EPS cũng có tác động dương, hay tác động cùng chiều với MPS, có nghĩa là khi giá trị EPS biến động tăng 100 đồng thì giá trị thị trường của cổ phiếu biến động tăng 64 đồng. Kết quả phân tích thực nghiệm hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của Malcolm Smith về thị trường chứng khoán ở Malaysia trong giai đoạn từ năm 1987 - 1996 thì chỉ tiêu EPS cũng tác động đến chỉ tiêu MPS là 0.466, cũng với ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Qua đó, nghiên cứu này là hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của các nước khác. Vậy kết luận rằng, chỉ tiêu EPS có tác động cùng chiều với chỉ tiêu MPS. Khi EPS tăng lên thì kéo theo MPS cũng tăng lên. So sánh với tác động của chỉ tiêu BVS ta thấy, không chỉ Việt Nam mà ở các nước khác, tác động của chỉ tiêu EPS luôn cao hơn chỉ tiêu BV hay tác động của lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu đến giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu cao hơn tác động của giá trị ghi sổ của vốn chủ sở hữu. Nghiên cứu cho kết quả là ở Việt Nam, chỉ tiêu EPS tác động đến giá thị trường của mỗi cổ phiếu nhiều hơn chỉ tiêu BV, cụ thể cứ 100 đồng tăng thêm thì chỉ tiêu EPS tác động nhiều hơn 44,1 đồng so với chỉ tiêu BV, nên xu hướng chung của các nhà đầu tư, không chỉ các nhà đầu tư Việt Nam là tập trung vào chỉ tiêu EPS nhiều hơn chỉ tiêu BV, tức là tập trung vào lợi nhuận hơn là vốn chủ sở hữu. - Tác động của chỉ tiêu thay đổi lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS1) cho thấy: Tác động của EPS1 đối với MPS ở nghiên cứu này là 0.170. Chứng tỏ EPS1 cũng có tác động dương, hay tác động cùng chiều với MPS, có nghĩa là khi giá trị EPS1 biến động tăng 100 đồng thì giá trị thị trường của cổ phiếu biến động tăng 17 đồng. Khi EPS1 tăng lên thì kéo theo MPS cũng tăng lên. - Giá trị F trong mô hình hồi quy đa tuyến tính cho thấy kết quả phân tích là hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu.Ở mức ý nghĩa thống kê 1% cho kết quả giá trị F là 1071.830. - Hệ số hồi quy R2 điều chỉnh có kết quả là 0,567 có nghĩa là ba thông tin BVS, EPS và EPS1 giải thích được 56,7% sự biến động của giá trị cổ phiếu (MPS) của các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thảo luận kết quả nghiên cứu Kết quả này có sự khác biệt so với một số công trình nghiên cứu khác như trong nghiên cứu của Malcolm Smith khi phân tích thị trường chứng khoán Malaysia, hệ số hồi quy điều chính R2 là 0.3295; trong nghiên cứu của Collins và các cộng sự (1997) với bộ số liệu phân tích về thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, con số này là 0.54% và theo kết quả nghiên cứu của King và LangLi (1998) với các dữ liệu về thị trường chứng khoán tại Vương Quốc Anh, hệ số hồi quy điều chỉnh R2 là 0.66. Những kết quả này hoàn toàn tương đồng với kết quả nghiên cứu của các nước Hoa Kỳ (54%), Anh (66%), Norway (65%), Nhật Bản (65%), Sri Lanka (56%) và còn cao hơn các nước như Malaysia (32,95%), Đức (40%), Hàn Quốc (35%), Italia (43%), điều này cho thấy chất lượng thông tin kế NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 21Số 127 - tháng 5/2018 Basel II sử dụng khái niệm “ba trụ cột”: Cột trụ thứ I: Liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Cột trụ thứ II: Liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II nhấn mạnh các nguyên tắc rà soát, giám sát sau: (i) Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn duy trì mức vốn đó; (ii) Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu; Giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này; (iii) Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định; (iv) Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu. Cột trụ thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. 1.4. Hiệp ước Basel III Ngày 12/9/2010, chuẩn mực vốn Basel III được BCBS đưa ra trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn cầu những năm 2007 - 2010, nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của Basel II, chủ yếu về quản lý thanh khoản, yêu cầu vốn đệm theo chu kỳ của nền kinh tế, giới hạn tỷ lệ đòn bẩy vốn. Basel III có hiệu lực từ năm 2013 và được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018, sau đó thực hiện đầy đủ kể từ ngày 1/1/2019. BIS đưa ra lộ trình thực hiện hiệp ước Basel III như sau: - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn được giữ nguyên là 8%. - Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 tối thiếu được bắt đầu áp dụng vào 01/01/2015 với mức 4.5% và phải đạt mức 6% trước 01/01/2019. - Tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường tối thiếu được bắt đầu áp dụng vào 01/01/2015 với mức 3.5% và phải đạt mức 4.5% trước 01/01/2019. - Tỷ lệ dự phòng bảo toàn vốn được bắt đầu tính từ 01/01/2016 với mức 0.625% và hoàn thành mức 2,5% trước 01/01/2019. - Lộ trình loại bỏ các khoản giảm trừ khỏi vốn cấp 1 được áp dụng từ 01/01/2014 với mức 20%, và đến 01/01/2019 loại bỏ được 100%. 1.5. Hiệp ước Basel IV Ngày 07/11/2017, nhóm Thống đốc các ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát quốc gia (GHOS - cơ quan thường trực của Ủy ban Basel) đã thông qua những quy định cải cách sau khủng hoảng của Basel III (“Basel IV”). Theo Ủy ban Basel, những tiêu chuẩn sửa đổi sẽ có hiệu lực từ 01/01/2022 và áp dụng theo từng giai đoạn trong vòng 05 năm. Gói các thay đổi với khuôn khổ Basel III, được gọi là Basel IV, được chính thức thông qua ngày 7/12/2017. Những điểm chính của Basel IV bao gồm: - Sửa đổi phương pháp chuẩn hóa áp dụng cho rủi ro tín dụng; NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN22 Số 127 - tháng 5/2018 - Sửa đổi phương pháp xếp hạng nội bộ đối với rủi ro tín dụng, trong đó việc sử dụng các phương pháp mô hình nội bộ nâng cao nhất cho danh mục có rủi ro vỡ nợ thấp sẽ được giới hạn; - Sửa đổi khung điều chỉnh định giá tín dụng (CVA), bao gồm việc loại bỏ phương pháp mô hình nội bộ và áp dụng sửa đổi phương pháp tiêu chuẩn; - Sửa đồi phương pháp tiêu chuẩn cho rủi ro hoạt động, thay thế phương pháp tiêu chuẩn và đo lường nâng cao hiện tại; - Sửa đổi việc đo lường tỷ lệ đòn bẩy và một bộ đệm tỷ lệ đòn bẩy cho các ngân hàng lớn có hệ thống toàn cầu (G-SIB), sẽ có hình thức một bộ đệm vốn cấp I, thiết lập ớ mức 50% bộ đệm vốn theo trọng số rủi ro của G-SIB; - Đảm bảo rằng các tài sản có rủi ro được tính toán bởi mô hình nội bộ không thấp hơn một “tỷ lệ tối thiểu” 72,5% RWAs được tính toán theo phương pháp chuẩn hóa của Basel IV. Các ngân hàng cũng được yêu cầu phải công khai RWAs dựa trên các phương pháp chuẩn hóa này. Như vậy, Basel IV sẽ thúc đẩy các ngân hàng đánh giá lại các mô hình nội bộ và các quy trình quản lý rủi ro, bao gồm cả giá trị gia tăng. 2. Thực trạng tiếp cận Basel II tại các NHTM Việt Nam Tại Việt Nam, văn bản đầu tiên có quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là Quyết định 297/1999/ QĐ-NHNN5 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM. Tại quy định này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% nhưng phương pháp tính đơn giản, chưa phản ánh chính xác tinh thần Basel I. Đến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương pháp tính toán đã tiếp cận tương đối toàn diện Basel I. Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/10/2010. Năm 2016, theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và vốn tự có, tài sản tính theo rủi ro tín dụng; vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động, thị trường đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do Ngân hàng nhà nước ban hành ngày 30/12/2016. Từ ngày 1/1/2020, ngân hàng không có công ty con, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn
Tài liệu liên quan