Thanh khoản cổ phiếu là một trong những vấn đề lớn được các nhà đầu tư cũng như các
nhà quản lý thị trường luôn quan tâm. Trong những năm gần đây, thanh khoản cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam giảm sút mạnh, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng ổn định của
thị trường. Nghiên cứu đầy đủ về thanh khoản cổ phiếu giúp các nhà hoạch định chính sách, các
nhà quản lý và điều hành hoạt động TTCK có được những giải pháp thích hợp thúc đẩy TTCK Việt
Nam phát triển bền vững.
Bài viết tập trung nghiên cứu phương pháp đo lường thanh khoản cổ phiếu theo chỉ số thiếu
thanh khoản và vận dụng để đo lường thanh khoản cổ phiếu trong điều kiện TTCK Việt Nam.
5 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 519 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường thanh khoản cổ phiếu theo chỉ số thiếu thanh khoản trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31
Đo lường thanh khoản . . .
ĐO LƯỜNG THANH KHOẢN CỔ PHIẾU THEO CHỈ SỐ
THIẾU THANH KHOẢN TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Lê Thị Tuyết Hoa*, Lê Thị Phương Thảo**
TÓM TẮT
Thanh khoản cổ phiếu là một trong những vấn đề lớn được các nhà đầu tư cũng như các
nhà quản lý thị trường luôn quan tâm. Trong những năm gần đây, thanh khoản cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam giảm sút mạnh, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng ổn định của
thị trường. Nghiên cứu đầy đủ về thanh khoản cổ phiếu giúp các nhà hoạch định chính sách, các
nhà quản lý và điều hành hoạt động TTCK có được những giải pháp thích hợp thúc đẩy TTCK Việt
Nam phát triển bền vững.
Bài viết tập trung nghiên cứu phương pháp đo lường thanh khoản cổ phiếu theo chỉ số thiếu
thanh khoản và vận dụng để đo lường thanh khoản cổ phiếu trong điều kiện TTCK Việt Nam.
Từ khóa: Thị trường chứng khoán, thanh khoản cổ phiếu
MEASUREMENT SHARES LIQUIDITY RATIOS LIQUIDITY
SHORTAGE IN VIETNAM STOCK MARKET
ABSTRACT
Liquidity of shares is one of the major matters the investors and the maket managers
always pay attention to. Recently, the share liquidity in Vietnam stock market has been reduced
significantly, influencing the growth stability of the market. The complete research in the share
liquidity helps the stock market policy planners, managers and operators to create the appropriate
solutions to promote its endurable development.
The paper focuses on the solutions to measure the share liquidity based on the weak
liquidity indicators and to apply them to measure the share liquidity in the Vietnam stock market
condition.
Keywords: The stock market, Liquidity of shares
* PGS.TS. GV. Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
** GV. Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
32
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Khái niệm và ý nghĩa của thanh
khoản cổ phiếu
Thanh khoản hay còn gọi là tính lỏng.
Định nghĩa về thanh khoản, Prof. Dr. Peter
Gomez (2004) quan tâm đến bốn khía
cạnh: (i) thời gian giao dịch (Trading time):
Khả năng để thực hiện một giao dịch ngay
lập tức tại mức giá hiện hành. (ii) Độ chặt
(Tightness): Độ chặt cho thấy chi phí liên
quan đến giao dịch. (iii) Chiều sâu thị trường
(Market depth): Khả năng mua bán một
lượng tài sản nhất định mà không ảnh hưởng
đến mức giá niêm yết. (iv)Khả năng phục hồi
(Resiliency) là tốc độ mà giá cả có thể trở lại
trạng thái cân bằng của nó sau một cú sốc
ngẫu nhiên trong dòng giao dịch.
Thanh khoản chứng khoán là khả năng
giao dịch chứng khoán dễ dàng, (Amihud et
al., 2005). Theo CFA Institute, thanh khoản
chứng khoán là khả năng mua bán nhanh
chóng chứng khoán mà không làm mất giá
chứng khoán. Như vậy, thanh khoản cổ phiếu
có thể được hiểu là khả năng mua bán lại cổ
phiếu dễ dàng mà không làm mất giá cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán. Nhờ có TTCK
mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi cổ phiếu
họ sở hữu thành tiền mặt khi họ muốn.Thanh
khoản chính là một trong những đặc tính hấp
dẫn của cổ phiếu và cũng là rủi ro mà mọi nhà
đầu tư trên thị trường luôn phải đối mặt.
Thanh khoản cổ phiếu có ý nghĩa quan
trọng đối với TTCK, là một trong những tiêu
chí đánh giá mức độ phát triển của TTCK.
Thứ nhất, thanh khoản cố phiếu là một yếu
tố quan trọng để đánh giá tài sản trên TTCK.
Khi một nhà đầu tư ra quyết định mua một tài
sản, họ cần phải đánh giá được khả năng bán
lại tài sản đó và khoản chiết khấu hoặc chi phí
giao dịch trong tương lai.
Thứ hai, thanh khoản cao làm tăng khả
năng huy động vốn cho các doanh nghiệp trên
TTCK. Khi cổ phiếu niêm yết của công ty
có tính thanh khoản cao làm cho giá cả phản
ánh thực chất cung cầu mà không bị bóp méo
bởi các giao dịch thao túng, làm giá trên thị
trường, do đó khả năng huy động vốn của
TTCK tăng lên.
Thứ ba, thanh khoản làm cho TTCK hoạt
động hiệu quả hơn. Tính thanh khoản thể hiện
sự an toàn và linh hoạt của nguồn vốn đầu tư,
đối với nhà đầu tư thì TTCK còn đóng vai trò
là một kênh đầu tư đem lại lợi nhuận, vì vậy
thanh khoản cao đồng nghĩa với niềm tin của
nhà đầu tư cao, hấp dẫn các nhà đầu tư, khi đó
TTCK dễ dàng thực hiện chức năng phân bổ
nguồn vốn hợp lý.
2. Đo lường thanh khoản theo phương
pháp chỉ số thiếu thanh khoản
Thanh khoản được đo lường qua chỉ số
thiếu thanh khoản. Phương pháp này được
Amihud’s (2002) nghiên cứu lần đầu tiên và
sau đó được sử dụng rộng rãi trong việc đo
lường thanh khoản cổ phiếu do có thể dễ dàng
tính được từ dữ liệu ngày của chứng khoán,
trong đó có nhiều bài nghiên cứu về thanh
khoản cổ phiếu tại Việt Nam đã sử dụng để đo
lường tính thanh khoản trên TTCK Việt Nam.
Tính thiếu thanh khoản - ILLIQ được đo
lường bằng công thức:
D
iy
: số ngày giao dịch trong tháng y của
chứng khoán i
R
iyd
: chênh lệch tuyệt đối giữa tỷ lệ lợi
nhuận trong ngày d của chứng khoán i và lãi
suất phi rủi ro trong ngày đó của tháng y
VOLD
iyd
: giá trị giao dịch ngày d của
chứng khoán i trong tháng y
33
Đo lường thanh khoản . . .
Để đo lường giá trị giao dịch trong ngày,
Amihud (2002) đã lấy giá đóng cửa nhân với
khối lượng giao dịch (i). Chúng ta có thể xem
xét thêm 02 cách tiếp cận khác trong việc xác
định giá trị giao dịch trong ngày:
(ii)
(iii)
Với P
t-1
, Pt, PH, PL: lần lượt là mức giá
đóng cửa ngày t-1, giá đóng cửa ngày t, giá
cao nhất, giá thấp nhất trong ngày t và NTt là
khối lượng giao dịch trong ngày t
Lindqvist và Du Rietz (2010) đã kiểm tra
độ chính xác của 03 phương pháp tính giá
trị giao dịch trên thì thấy phương pháp (iii)
có mức chính xác cao nhất với hệ số tương
quan lần lượt của 03 phương pháp là: 0,9992;
0,9990 và 0.9997. Vậy nên tác giả cũng sử
dụng phương pháp (iii) để tính giá trị giao
dịch chứng khoán i trong ngày d.
Chỉ số ILLIQ trong năm y cho toàn
thị trường là AILLQ
t,
được đo lường bằng
công thức:
Trong đó: N
y
là số chứng khoán được
giao dịch trong năm y.
Sau đó, để hạn chế sự biến động của ILLIQ,
ta sử dụng chỉ số ILLIQMA
i,t
điều chỉnh:
Vậy ILLIQMA
iy
là chỉ số đo lường mức
thiếu thanh khoản, chỉ số này càng lớn thì tính
thanh khoản càng kém và ngược lại.
3. Vận dụng trong điều kiện Việt Nam
Vận dụng phương pháp đo lường thanh
khoản theo chỉ số thiếu thanh khoản của
Amihud (2002) được phân tích trong phần
trên, tác giả đo lường được mức độ thiếu
thanh khoản cổ phiếu (ILLIQMA) trên TTCK
Việt Nam giai đoạn 2010-2014. Mức độ thiếu
thanh khoản càng cao thì tính thanh khoản cổ
phiếu càng thấp và ngược lại.
Tác giả tập trung thu thập và nghiên cứu
dữ liệu của 30 công ty được niêm yết trên
HOSE, HNX. Các cổ phiếu có giá thấp hơn
2.500 đồng và cao hơn 120.000 đồng hoặc
có khối lượng giao dịch cổ phiếu thấp hơn
5000 cổ phiếu trong một năm không được
lựa chọn trong danh sách 30 cổ phiếu được
nghiên cứu.
Biểu đồ 01: Mức thiếu thanh khoản thị trường cổ phiếu Việt Nam
Nguồn: Tính toán của tác giả
34
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Thông qua diễn biến trên biểu đồ 01 cho
thấy, mức thiếu thanh khoản cổ phiếu trên
TTCK Việt Nam trong giai đoạn 2010-2014
đạt thấp nhất vào năm 2010 có nghĩa thanh
khoản đạt mức cao nhất, sau đó năm 2014,
những năm 2012, 2013 thị trường cổ phiếu
có tính thanh khoản thấp hơn.
Biểu đồ 02: Mức thiếu thanh khoản thị trường cổ phiếu và chỉ số VNIndex
Nguồn: Tác giả tính toán, Bloomberg
Nhìn vào giá trị thiếu thanh khoản và
sự thay đổi chỉ số giá cuối mỗi tháng của
VNIndex tại biểu đồ 02, ta thấy được mối quan
hệ cùng chiều của lợi nhuận chứng khoán và
tính thanh khoản cổ phiếu. Năm 2010 chỉ số
VNIndex cao, có chiều hướng giảm, tính thiếu
thanh khoản thấp, tương ứng với mức thanh
khoản thị trường cao hơn. Những năm 2011,
2012 chỉ số VNIndex biến động tính thiếu
thanh khoản thị trường tăng, tương ứng mức
thanh khoản thị trường giảm. Sang năm 2014,
chỉ số VNIndex chiều hướng tăng, lợi nhuận
thị trường chứng khoán được cải thiện, thanh
khoản thị trường cổ phiếu được cải thiện.
Thông tin trên biểu đồ 03, dễ dàng cho
ta thấy được biến động ngược chiều của mức
thiếu thanh khoản thị trường cổ phiếu và khối
lượng giao dịch cổ phiếu. Khối lượng giao
dịch biến động tăng thì tính thiếu thanh khoản
có xu hướng giảm, ngược lại tính thanh khoản
tăng. Khối lượng giao dịch được tính trung
bình trong tháng. Những năm 2010, khối
lượng giao dịch lớn hơn dẫn đến thanh khoản
vào những năm này cao hơn.
Biểu đồ 03: Mức thiếu thanh khoản và khối lượng giao dịch
Nguồn: Tác giả tính toán, Bloomberg
35
Đo lường thanh khoản . . .
Như vậy, biến động cùng chiều giữa lợi
nhuận cổ phiếu và thanh khoản cổ phiếu, giữa
khối lượng giao dịch và thanh khoản phù hợp
với lập luận của Amihud (2002).
Theo dữ liệu tính toán và thống kê của tác
giả trong 05 năm qua đối với từng cổ phiếu
trong nhóm 30 cổ phiếu được lựa chọn, tính
thiếu thanh khoản đạt thấp nhất ở cổ phiếu
SSI vào năm 2014, và giá trị lớn nhất là cổ
phiếu ASP vào năm 2011.
Nhóm cổ phiếu SSI, PVS, VNM, HPG,
VIC, STB là những cổ phiếu có giá trị thiếu
thanh khoản thấp, đồng nghĩa với tính thanh
khoản cao. Điều này khá dễ hiểu do đa số cổ
phiếu nhóm này là những cổ phiếu blue – chip,
có mức vốn hóa thị trường lớn (trên 10.000 tỷ
đồng) so với mức chung toàn thị trường.
Nhóm cổ phiếu ASP, DBC, HOM, BCC là
những cổ phiếu có tính thiếu thanh khoản cao,
đồng nghĩa với tính thanh khoản của nhóm cổ
phiếu này thấp. Bởi các cổ phiếu này đều thuộc
nhóm cổ phiếu penny so với toàn thị trường,
mức vốn hóa thị trường dưới 2.000 tỷ đồng.
Năm 2010, tính thiếu thanh khoản lớn
hơn 1 thuộc về các cổ phiếu: SD9 (1,25),
MSN (2,32), HOM (3,41), PLC (3,43), DHG
(3,71), BCC (4,28) và cao nhất ASP (4,74).
Trong đó SD9, HOM, BCC, ASP đều thuộc
nhóm cổ phiếu có qui mô vốn hóa thị trường
dưới 2.000 tỷ đồng. Hai cổ phiếu DHG thuộc
nhóm cổ phiếu có mức vốn hóa thị trường vừa
và MSN thuộc nhóm cổ phiếu có vốn hóa thị
trường lớn nhưng có tính thanh khoản khá
thấp, do khối lượng giao dịch trong năm 2010
của DHG, MSN tương đối nhỏ; chẳng hạn
như tại ngày 09/07/2010 MSN chỉ có 340 cổ
phiếu được giao dịch, ngày 12/10/2010 DHG
chỉ có 100 cổ phiếu được giao dịch
Năm 2011, tính thiếu thanh khoản cao
thuộc về các cổ phiếu ASP (13,38), PLC
(6,22), HOM (4,06), BCC (1,76) bên cạnh
đó DHG, SD9 với mức ILLIQMA là 0,96.
Đặc biệt cổ phiếu ASP có khối lượng giao
dịch chỉ 4.371.540 cổ phiếu cả năm, vì vậy
tính thanh khoản của cổ phiếu này rất thấp
vào năm 2011. Năm 2012, giá trị ILLIQMA
của ASP (8), HOM (5.68), DHG (4.98), PLC
(3.24), BCC (2.88), SD9 (1.69). Năm 2013,
giá trị ILLIQMA của HOM (9,81), BCC
(5,36), DBC (4,77), ASP (3,75), SD9 (1,73),
PLC (1,54), DHG (0.98). Năm 2014, giá trị
ILLIQMA của DBC (11.88), HOM (11.47),
BCC (4.21).
Như vậy, với việc vận dụng phương pháp
đo lường thanh khoản theo chỉ số thiếu thanh
khoản của Amihud (2002) đã đo lường được
mức độ thanh khoản cổ phiếu trên TTCK Việt
Nam. Các kết quả vận dụng phù hợp với thực
tiễn biến động trên TTCK Việt Nam giai đoạn
2010-2014. Điều đó cho thấy, việc vận dụng
phương pháp này là có tính khả thi.
Vậy những nhân tố nào đã tác động tới
thanh khoản cổ phiếu? Phần tiếp theo của
chuyên đề này, trong bài viết sau chúng tôi
sẽ đề cập tới nội dung nghiên cứu liên quan
tới việc nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến
thanh khoản cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.
Đây cũng chính là cơ sở quan trọng để đưa ra
các giải pháp tăng thanh khoản cổ phiếu trên
TTCK Việt Nam trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Amihud (2002), Illiquidity and stock returns: Cross-section and time series effects.
[2]. Blooberg,
[3]. Kho dữ liệu,
[4]. Lê Đức Tú (2013), Mối quan hệ giữa tính thanh khoản và tỉ suất sinh lợi chứng khoán.
[5]. Nguyễn Thị Phương Thảo và Ming-Chin Lin (2014), Individual Stock Liquidity in Vietnam
[6]. Tổng cục thống kê, www.gso.gov.vn/