Tính hữu ích của thông tin tài chính được nâng cao nếu thông tin đó có thể so sánh được. Sự khác biệt giữa các phương pháp kế toán được sử dụng có thể có một tác động tiêu cực đến khả năng so sánh của báo cáo tài chính. Do đó, có nhiều nghiên cứu tìm kiếm cách thức đo lường tính so sánh được nhằm tăng tính hữu ích của thông tin báo cáo tài chính được cung
cấp đến người sử dụng. Mục đích của bài viết đưa ra các chỉ số thường được các nhà nghiên cứu sử dụng
để đo lường. Bài viết sử dụng các chỉ số được chấp nhận chung (C, H, I) và những ví dụ minh họa, quan
điểm khác nhau của nhiều tác giả đưa ra nhằm chứng minh sự phổ quát của chỉ số chung. Mặc dù có nhiều
tranh cãi của thống kê các chỉ số sử dụng cho mục đích đo lường nhưng các chỉ số là cần thiết để phát triển
một chỉ số được chấp nhận rộng rãi giúp cho quá trình hài hòa, hội tụ của hệ thống chuẩn mực kế toán.
7 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 636 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường tính so sánh được của thông tin báo cáo tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN34 Số 115 - tháng 5/2017
ño löÔøng tÍnh so saùnh ñöÔÏc cuûa
thoâng tin Baùo caùo taøi chÍnh
ThS. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG*
*Khoa Kế toán, Kiểm toán - Đại học Kinh tế - Luật
Tính hữu ích của thông tin tài chính được nâng cao nếu thông tin đó có thể so sánh được. Sự khác biệt giữa các phương pháp kế toán được sử dụng có thể có một tác động tiêu cực đến khả năng so sánh của báo cáo tài chính. Do đó, có nhiều nghiên cứu tìm kiếm cách thức đo lường tính so sánh được nhằm tăng tính hữu ích của thông tin báo cáo tài chính được cung
cấp đến người sử dụng. Mục đích của bài viết đưa ra các chỉ số thường được các nhà nghiên cứu sử dụng
để đo lường. Bài viết sử dụng các chỉ số được chấp nhận chung (C, H, I) và những ví dụ minh họa, quan
điểm khác nhau của nhiều tác giả đưa ra nhằm chứng minh sự phổ quát của chỉ số chung. Mặc dù có nhiều
tranh cãi của thống kê các chỉ số sử dụng cho mục đích đo lường nhưng các chỉ số là cần thiết để phát triển
một chỉ số được chấp nhận rộng rãi giúp cho quá trình hài hòa, hội tụ của hệ thống chuẩn mực kế toán.
Từ khóa: tính so sánh được, đặc điểm định tính nâng cao, khuôn mẫu lý thuyết.
Measuring the comparability of financial reporting information
The usefulness of financial information is enhanced if that information is comparable. The difference
between the accounting methods used may have a negative impact on the comparability of financial
statements. Consequently, many studies seek to measure comparability in order to increase the usefulness
of financial reporting information provided to users. The purpose of the article is to provide indicators
commonly used by researchers to measure. The article uses generally accepted indicators (C, H, I) and
illustrated examples and views of various authors to demonstrate the universality of the overall index.
Although there are many controversies over the statistics of indicators used for measurement purposes,
indicators are needed to develop a widely accepted index that helps harmonize the convergence of the
accounting standard system.
keywords: Comparability, qualitative characteristics, theoretical models.
1. Đặt vấn đề
Người sử dụng Báo cáo tài chính quyết định lựa
chọn nhiều phương án, ví dụ bán hay nắm giữ các
khoản đầu tư hoặc đầu tư vào đơn vị này hay đơn vị
khác. Do đó, thông tin về đơn vị báo cáo sẽ hữu ích
hơn nếu có thể so sánh các thông tin tương tự với
đơn vị khác hoặc các thông tin tương tự của đơn vị
mình giữa các kỳ và các ngày khác nhau.
Khả năng so sánh không phải là đồng nhất.
Thông tin có thể so sánh phải đảm bảo sự tương
đồng giữa các khoản mục, chỉ tiêu tương tự và
sự khác biệt giữa các khoản mục, chỉ tiêu không
tương tự. Khả năng so sánh của thông tin tài chính
sẽ không được đảm bảo nếu các khoản mục, chỉ
tiêu không tương tự được trình bày giống nhau
hoặc các khoản mục, chỉ tiêu tương tự lại trình bày
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 35Số 115 - tháng 5/2017
khác nhau. Khác với các đặc điểm định tính khác,
khả năng so sánh không liên quan đến một khoản
mục đơn lẻ mà yêu cầu ít nhất là hai khoản mục.
Ngày càng có nhiều cuộc tranh luận về việc cần
thiết phải đo lường và xác định tác động của tính
so sánh được đến quyết định của người sử dụng
thông tin BCTC. Vì vậy, vấn đề đo lường tính so
sánh được là rất cần thiết.
2. Tính so sánh được
Theo khuôn mẫu lý thuyết kế toán, khả năng so
sánh là đặc điểm định tính giúp người sử dụng Báo
cáo tài chính nhận biết và hiểu được sự giống nhau
và khác nhau của các khoản mục.
Cần có sự phân biệt giữa so sánh “theo thời
gian’’ và so sánh “giữa khác nhau’’ của các công ty
trong cùng một nước và - do sự toàn cầu trên toàn
thế giới. Để cung cấp thông tin tài chính có hữu ích
cho các mục đích ra quyết định, lý thuyết kế toán
(Belkaoui, 2004) đề cập đến một số đặc tính ngoài
hai đặc điểm cơ bản là tính thích hợp và trình bày
trung thực thì tính dễ hiểu và so sánh là những đặc
điểm định tính quan trọng. Để đạt được sự so sánh
này, các thông tin tài chính nên dựa trên sự thích
hợp. Tính nhất quán có nghĩa là các công ty nên
sử dụng các phương pháp kế toán tương tự cho
các khoản mục liên quan theo thời gian. Mặt khác,
các so sánh nên tồn tại tính đồng nhất và tính linh
hoạt. Tính đồng nhất có nghĩa là cùng một phương
pháp kế toán được áp dụng bởi các công ty khác
nhau. Tuy nhiên, những khác biệt về hoàn cảnh
sẽ dẫn đến phương pháp khác nhau. Bài viết này
không tập trung vào việc so sánh theo thời gian mà
dựa trên sự so sánh của báo cáo tài chính giữa các
công ty và giữa các quốc gia.
Sterling (1969) lập luận rằng sự thay đổi trong
phương pháp kế toán không phải là nguyên nhân
duy nhất của sự biến đổi trong các con số xuất hiện
trên báo cáo tài chính. Nhà nghiên cứu đã chứng
minh rằng các ước tính khác nhau cho thời gian
hữu ích của tài sản hình thành một nguồn thứ hai
của sự thay đổi và cũng quan trọng như các vấn
đề linh hoạt. Thậm chí, nếu trong cùng công ty, tất
cả sử dụng cùng một phương pháp kế toán, một
số biến đổi nhất định sẽ vẫn còn. Sự thay đổi này
có thể là kết quả của những hoàn cảnh khác nhau
trong hoạt động của công ty, kinh nghiệm cá nhân
và xét đoán của nhà quản lý. Do đó, điều quan
trọng là phải xác định ở cấp độ so sánh nào được
sử dụng.
3. Đo lường mức độ so sánh được
Một số phương pháp tiếp cận để đo lường mức
độ so sánh sử dụng ba chỉ số khác nhau: (1) Chỉ
số H để đo lường sự so sánh trong nước, (2) Chỉ
số C để đo lường sự so sánh trong nước với nhiều
hệ thống báo cáo và (3) Chỉ số I để đo lường sự so
sánh quốc tế. Hầu hết các nghiên cứu quan trọng
đo lường mức độ so sánh đều dựa trên tư duy của
Tas(1988) mặc dù trong những năm gần đây xuất
hiện các phương pháp tiếp cận có nguồn gốc từ các
nghiên cứu cơ bản và mở rộng từ tư duy của Tas.
Bảng 1: Tổng quan các nghiên cứu trước đây đã sử dụng các chỉ số
Tác giả H C C(modified) I I(modified)
Tas(1988) X X X
Tay and Parker (1990, 1992)
Tas(1992) X
Emenyounu i Gary (1992) X
Archer, Delvaille and McLeay (1995) X
Hermann i Thomas (1995) X X
Archer, Delvaille and McLeay (1996) X
Adhikari and Emenyounu (1997) X
Morris and Parker (1999) X X
Canibano and Mora (2000) X
Parker and Morris (2001) X X
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 115 - tháng 5/2017
Vì vậy, tư duy của Tas (1988,1992) là một hướng
khởi đầu quan trọng trong quá trình làm rõ các chỉ
số được chấp nhận chung để đo lường sự so sánh.
Khả năng so sánh có thể được coi là sự gia tăng tính
nhất quán trong việc lựa chọn các phương pháp kế
toán khác nhau cho các khoản mục của báo cáo tài
chính. Việc gia tăng tính nhất quán có thể bị bắt
buộc, khuyến khích hoặc tự giác thực hiện. Trong
trường hợp thứ nhất, những quy định bắt buộc cho
phép hoặc ngăn cấm một hay nhiều phương pháp
kế toán. Trong trường hợp thứ hai những quy định
được khuyến khích sử dụng một hay nhiều phương
pháp kế toán. Trong trường hợp thứ ba, sự gia tăng
tính nhất quán có thể không được đưa vào những
quy định bắt buộc hoặc tùy chọn. (Tas, 1988).
Khi xác định mức độ so sánh kế toán, những
mục của tác giả Nair-Frank (1981) thường được
sử dụng để đo lường và công bố: (1) yêu cầu (sử
dụng các phương pháp kế toán hoặc thực hiện công
bố một số thông tin được yêu cầu), (2) thực hiện
theo chỉ thị, (3) việc thực hiện không quan trọng
(4) không sử dụng hoặc (5) không cho phép. (Tas,
1992). Khả năng so sánh tăng lên khi doanh nghiệp
chuyển từ lựa chọn giữa các phương pháp kế toán
khác nhau sang tập trung vào một hoặc giới hạn
một số phương pháp kế toán (Tas,1988).
Roberts và cộng sự (2008) đã đề cập đến các dữ
kiện cho rằng có rất nhiều cách khác nhau để đo
được mức độ tập trung, nhưng phương pháp được
chấp nhận chung đó là sử dụng chỉ số Herfindahl
(chỉ số H). Chỉ số H được sử dụng để đo lường khả
năng so sánh của các phương pháp kế toán dùng
trong việc lập báo cáo tài chính. Về cơ bản chỉ số H
là một phương pháp đơn giản để đo lường khả năng
so sánh mà bỏ qua các thông tin phụ từ các báo cáo
tài chính, và bởi vì các chỉ số có tính đơn giản nêu
trên cho phép nhiều cách giải thích kết quả và kết
quả này sẽ không đầy đủ. Chỉ số H có dạng:
Trong đó:
- Pi : là tỷ lệ các doanh nghiệp có sử dụng phương
pháp kế toán
- n: là số lượng lớn nhất có thể của phương pháp
kế toán hiện có.
Nhược điểm chính của chỉ số H là có những
khó khăn nhất định trong việc tính toán mức độ
quan trọng của sự so sánh và không có khả năng
áp dụng nhiều phương pháp đo lường khác nhau.
(Tas, 1992). Biên độ dao động của chỉ số H theo Tas
(1988) là từ 0 (không hòa hợp với rất nhiều phương
pháp khác nhau) đến 1 (hòa hợp ở các doanh
nghiệp sử dụng cùng một phương pháp) biên độ
của chỉ số H biến động trong một khoảng nào đó
sẽ cho thấy mức độ (không) tuân thủ.
Ví dụ: Có thể trình bày trong báo cáo tài chính
việc sử dụng ít nhất hai phương pháp khác nhau (A
và B). Giả sử rằng có 50 đơn vị kinh doanh trong
nhóm 100 doanh nghiệp áp dụng phương pháp A
trong giai đoạn 1. Các đơn vị kinh doanh còn lại sử
dụng phương pháp B. Trong giai đoạn 2, có 70 đơn
vị sử dụng phương pháp A so với 30 đơn vị hạch
toán theo phương pháp B. Trong giai đoạn 3, tỷ lệ là
90:10 nghiêng về phương pháp A. Tần số tương đối
và chỉ số H có thể được tóm tắt như sau:
Bảng 2. Cách tính của chỉ số H
Phương pháp
A B
Giai đoạn Chỉ số H
1 0,5 0,5 0,52 + 0,52 = 0,50
2 0,7 0,3 0,72 + 0,32 = 0,58
3 0,9 0,1 0,92 + 0,12 = 0,82
Nguồn: Tas (1988)
Bên cạnh đó, Tas còn phân biệt hai cấp độ của
chỉ số H: (1) chỉ số C và (2) chỉ số I. Walton và cộng
sự (2003) đưa ra gợi ý cho Tas về mức độ so sánh
vào năm 1988, (mở rộng vào năm 1992) bằng cách
sử dụng chỉ số C trong thời gian báo cáo tài chính
được công bố và những thay đổi trong chính sách
Aisbitt (2001) X
Taplin (2003) X X
Nguồn: Baker & Barbu (2007)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 37Số 115 - tháng 5/2017
kế toán cho thấy sự biến động của mức độ so sánh
như là bằng chứng về các đối tượng không báo cáo
theo quy định. Mức độ so sánh được đo bằng chỉ
số C khi đơn vị kinh doanh cung cấp thông tin kế
toán về việc sử dụng phương pháp kế toán thay
thế cho phương pháp kế toán hiện tại (Mustaţă và
Matis, 2007). So sánh chỉ số C trên nhiều báo cáo
tài chính với nhau cho thấy khả năng hòa hợp giữa
các quốc gia và việc đo lường giữa hai quốc gia sử
dụng cùng một phương pháp kế toán hoặc cung
cấp đầy đủ thông tin cho phép việc so sánh lẫn
nhau. Sau đó, hai bản báo cáo tương thích nhau sẽ
so sánh với tổng số các cặp theo cách sau: (Roberts
và cộng sự, 2008).
Trong đó:
- ni: số lượng đơn vị kinh doanh áp dụng
phương pháp i
- N: tổng số các đơn vị kinh doanh.
Ví dụ: Xét hai khoản mục kế toán ((1) khấu hao
(2) đánh giá hàng tồn kho) và ba phương pháp đo
lường khác nhau ( phương pháp đường thẳng, tịnh
tiến và số dư giảm dần hoặc phương pháp FIFO,
bình quân gia quyền và thực tế đích danh) tại 20
doanh nghiệp được thể hiện trong bảng 3.
Bảng 3. Cách tính của chỉ số C
Nguồn: Roberts và cộng sự (2008)
Biên độ dao động của chỉ số C, theo Tas (1988),
dao động từ 0 (không hòa hợp với nhiều phương
pháp khác nhau) đến 1 (hòa hợp tại tất cả các doanh
nghiệp sử dụng cùng một phương pháp), bởi vậy
chỉ số C biến động trong một khoảng nào đó cho
thấy mức độ (không) tuân thủ. Phương pháp này
đáp ứng ba tiêu chí: định lượng mức độ so sánh
có liên quan trực tiếp đến khả năng so sánh, cho
phép nhiều báo cáo và các thông tin trên thuyết
minh báo cáo tài chính và nó có thể tính toán sự
biến động của mức độ so sánh bằng cách sử dụng
thử nghiệm (phân tích hồi quy). Chỉ số C đo lường
mức độ so sánh của từng khoản mục dựa trên số
lượng báo cáo tài chính có thể so sánh được. Giả
sử rằng hai báo cáo tài chính trên so sánh với một
loại giao dịch hoặc một sự kiện. Như vậy, không
so sánh được giữa hai báo cáo tài chính kể từ khi
chỉ có một loại giao dịch hay sự kiện được đưa vào
chung khoản mục (Tas, 1992).
Có nhiều lý do cho việc thiếu đo lường sự so
sánh một phần đối với các giao dịch và sự kiện tổng
hợp, nhưng đối với từng loại giao dịch hoặc sự kiện
riêng biệt thì ngược lại. (1) Đo lường một cách
riêng biệt cung cấp kết quả chính xác hơn vì nó có
khả năng đo lường mức độ so sánh cho từng loại
giao dịch hoặc sự kiện được trình bày trong báo
cáo tài chính, trong khi đo lường mức độ so sánh
cho tất cả các loại giao dịch hoặc sự kiện chỉ cung
cấp kết quả tổng hợp, do đó rất khó để rút ra kết
luận về chính sách đo lường và (2) việc đo lường
mức độ so sánh của các giao dịch hoặc các sự kiện
tổng hợp đòi hỏi một danh sách chi tiết của các loại
giao dịch, sự kiện và việc đo lường riêng biệt mức
độ so sánh vật chất cho từng loại giao dịch hoặc sự
kiện sẽ thuận tiện hơn.(Tas, 1992).
Tas (1988) nhấn mạnh việc đo lường mức độ so
sánh một phần trong quốc tế phải đáp ứng hai điều
kiện. Thứ nhất, so sánh quốc
tế là khả năng so sánh của báo
cáo tài chính doanh nghiệp
tại quốc gia đó có nghĩa là đo
lường sự so sánh nên đi chủ
yếu từ sự so sánh quốc gia. Thứ
hai, so sánh quốc tế tồn tại ở
một mức độ cụ thể của sự hội tụ hai hay nhiều quốc
gia liên quan đến việc thực hiện các hoạt động kế
toán trong việc lập báo cáo tài chính. Mức độ so
sánh một phần trong quốc tế cho thấy mức độ mà
các doanh nghiệp ở một quốc gia áp dụng phương
pháp kế toán giống nhau hoặc chỉ có một số phương
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 115 - tháng 5/2017
pháp kế toán khác so với các doanh nghiệp ở các
quốc gia khác. Theo Hermann và Thomas (1995)
chỉ số I đo lường mức độ so sánh quốc tế hoặc mức
độ so sánh trong hoạt động kế toán giữa hai hay
nhiều quốc gia. Chỉ số này được tính bằng cách gia
tăng các thủ tục của doanh nghiệp đối với một lựa
chọn phương pháp kế toán thay thế cụ thể và tập
hợp các quy tắc thay thế tổng thể cho đến khi các
yếu tố điều chỉnh, thể hiện trong các số mũ, được
sử dụng khi kiểm tra một số quốc gia. Các chỉ số
chung có thể được biểu diễn dưới dạng toán học
như sau:
- m: phương pháp kế toán thay thế m
- n: quốc gia n
- Pmn: tần số phương pháp kế toán m ở quốc
gia n
Biên độ dao động của chỉ số I theo Tas (1988)
dao động từ 0 (không hòa hợp với nhiều phương
pháp khác nhau) đến 1 (hòa hợp với các doanh
nghiệp sử dụng cùng một phương pháp) và từ cách
tính chỉ số này cho thấy mức độ (không) tuân thủ.
Ví dụ, Giả sử cho rằng hai nước (A và B) trong một
khoảng thời gian quy định áp dụng hai phương
pháp khác nhau (phương pháp 1 và phương pháp
2). Việc sử dụng phương pháp nào của chỉ số I
được thể hiện trong Bảng 4.
Bảng 4. Cách tính của chỉ số I
Nguồn: Tas (1988)
4. Ưu điểm và nhược điểm các chỉ số đo lường
Các ứng dụng định lượng đo lường mức độ so
sánh: (1) để xác định mức độ so sánh trong mối
quan hệ với việc hạch toán kế toán của một số mặt
hàng tại một thời điểm, (2) để cho thấy các biến
động của mức độ so sánh và việc đạt được mức
độ hài hoà, (3) các biến động của mức độ so sánh
có thể do sự ra đời hoặc sửa đổi các quy định bắt
buộc về báo cáo tài chính hoặc do mức độ so sánh
được phát triển từ các lý thuyết kế toán và các sự
kiện quốc tế, (4) để xác định các khoản mục có vấn
đề trong báo cáo tài chính (đối tượng với mức độ
so sánh thấp) và (5) các tổ chức đang đối phó với
mức độ so sánh của báo cáo tài chính có thể sử
dụng phương pháp đo lường để thiết lập các mục
tiêu liên quan đến mong muốn mức độ so sánh cho
một khoản mục trong báo cáo tài chính. Để đạt
được mức độ so sánh cần so sánh với các chuẩn
mực kế toán (Tas, 1988). Tay và Parker (1992) đang
thực hiện các phương pháp thay thế để đo lường
sự so sánh mặc dù họ đồng ý với quan điểm của
Tas(1988). Hoạt động so sánh tập trung vào việc
so sánh các kết quả từ các nước khác nhau và các
nghiên cứu đo lường tập trung thực hiện những
báo cáo về mức độ so sánh không hoàn toàn, so
sánh hoàn toàn. Mức độ so sánh có thể được định
lượng bằng cách sử dụng chỉ số tập trung. So sánh
mức độ so sánh trong các giai đoạn khác nhau sẽ
cho thấy sự so sánh và không so sánh. Mức độ so
sánh có thể được đo lường bằng các phương pháp
thay thế như thử nghiệm thống kê phi tham số, đo
lường tập trung, đo dữ liệu chọn mẫu, phương sai
của logarit, chỉ số Hannah-Kay, kiểm định t-test.
Tas(1992) bác bỏ những nỗ lực của Tay và Parker
(1992) đã nói rằng các chỉ số H được tính theo bình
phương các tần số tương đối thay thế phương pháp
đo lường cho một loại giao dịch.
Mức độ tập trung của các đơn
vị kinh doanh được đo bằng chỉ
số H xung quanh một hoặc một số
phương pháp thay thế dẫn đến mức
độ so sánh của chỉ số H ngày càng
tăng. Tay và Parker dựa theo quan
điểm của họ trên thực tế về chỉ số H
là một chỉ số đo mức độ tập trung đã
được thực hiện qua các thử nghiệm
không quan trọng đồng nghĩa với
những thay đổi (thống kê) không quan trọng hoặc
có thay đổi quan trọng trong giá trị của chỉ số. Tiếc
là, Tay và Parker không thảo luận về phương pháp
thực tế đo lường sự so sánh của chỉ số. Chỉ số C
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 115 - tháng 5/2017
không phải là chỉ số tập trung, nhưng tỷ lệ được
tính bằng thương số của số lượng các cặp so sánh
được của báo cáo tài chính và tổng số các cặp của
các báo cáo tài chính. Điều này xác nhận không
tồn tại các vấn đề trong việc áp dụng, các cuộc thử
nghiệm thống kê thông thường có ý nghĩa. Ưu
điểm của chỉ số C là: (1) sự tham gia của việc đo
lường mức độ so sánh không hoàn toàn có ảnh
hưởng đến nhiều báo cáo và công bố thông tin bổ
sung trong các thuyết minh báo cáo tài chính cho
phép người dùng khác nhau hiểu được báo cáo tài
chính, (2) sự biến động của chỉ số C cho thấy tầm
quan trọng của các thử nghiệm.
Tay và Parker (1992) đã không trình bày và nghĩ
ra một phương pháp khác. Các phương pháp này
được mô tả khá phức tạp và để lại một số câu hỏi
chưa được trả lời, chẳng hạn như tầm quan trọng
của các thử nghiệm, đo lường mức độ tập trung
và làm thế nào để áp dụng phương pháp tập trung
trong việc phát hiện vấn đề. Tầm quan trọng của
các thử nghiệm không có nghĩa là kiểm tra sự quan
trọng của biến động mức độ so sánh, nhưng tập
trung vào mức độ quan trọng của sự so sánh. Tầm
quan trọng của sự biến động mức độ so sánh chưa
được thử nghiệm một cách phù hợp vì các phương
pháp đo lường được đưa ra có nhược điểm nhất
định như chỉ số H. Nhược điểm nữa của phương
pháp Tay & Parker là không thể ảnh hưởng đến
nhiều báo cáo hoặc bổ sung thông tin trong các
thuyết minh để đo lường sự so sánh không hoàn
toàn từ một báo cáo tài chính được lập chỉ bằng
một phương pháp thay thế của phép đo lường.
Có thể kết luận rằng để đo lường mức độ so sánh
không hoàn toàn của các chỉ số C thì phương pháp
của Tay và Parker chắc chắn không phải là tốt nhất.
Tay và Parker (1992) nhận xét tư duy của Tas
(1992) như sau: vấn đề chung liên quan đến việc
sử dụng mức độ tập trung để định lượng sự so
sánh bắt nguồn từ tiềm ẩn của các doanh nghiệp
(c) về một hoặc nhiều hơn các phương pháp lựa
chọn thay thế có sẵn trái ngược với tổng số (n)
phương pháp thay thế. So sánh tăng lên khi c tăng
hoặc giảm khi n tăng. Tuy nhiên, rất khó để dự
đoán cách đo sự hòa hợp phản ứng khi biến đổi
(c,n) cùng lúc theo nhiều hướng khác nhau. Vấn
đề trên có thể được khắc phục bằng cách đo lường
tập trung như chỉ số H và đo lường entropy (đo sự
bất định trong cấu trúc của hệ thống(E)). áp dụng
phương pháp entropy là không phù hợp vì nó gần
như là không thể, lấy mẫu để thử nghiệm, tính xác
suất của việc không sử dụng một trong các phương
pháp kế toán có sẵn và giá trị tương đối của việc
đo lường entropy là không phù hợp với các giá trị
tuyệt đối. Với điều này có thể kết luận rằng chỉ số H
là biện pháp đáng tin cậy hơn tr