Độ mặn của nước trầm tích

Độ mặn trung bình của nước trầm tích giữa các tầng đất khác nhau không có khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê (p-value > 0,05). Vào khoảng tháng 3 và 4, nước biển chiếm ưu thế hơn trong mối tương tác sông – biển, nước mặn xâm nhập sâu hơn vào trong vùng đất liền, do đó, độ mặn của nước trong đất rừng được nâng cao lên [1]. Ngược lại, vào khoảng tháng 9 đến tháng 11, khi các sông giữ vai trò ưu thế trong lực tương tác sông – biển, lúc đó nước ngọt từ sông đẩy lùi nước mặn ra biển làm hạ bớt độ mặn của nước trầm tích [1].

pdf45 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Độ mặn của nước trầm tích, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42 III KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN III.1 Độ mặn của nước trầm tích III.1.1 Độ mặn trung bình của nước trầm tích tại các tầng đất 0 5 10 15 20 25 30 35 Th án g 7 Th án g 8 Th án g 9 Th án g 1 1 Th án g1 2 Th án g 1 Th án g 2 Th án g 3 Th án g 4 Th án g 5 Th án g 6 Th án g 7 Th án g 8 Đ ộ m ặn ( pp t) 20cm 50cm 100cm Hình III.1: Biến thiên độ mặn trung bình của nước trầm tích tại 3 tầng. 0 5 10 15 20 25 30 35 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Đ ộ m ặn ( pp t) -50 0 50 100 150 200 250 300 350 Lư ợ ng m ư a tổ ng s ố (m m ) 20cm 50cm 100cm Mưa tổng số Hình III.2: Độ mặn trung bình nước trầm tích và lượng mưa tổng số. Độ mặn trung bình của nước trầm tích giữa các tầng đất khác nhau không có khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê (p-value > 0,05). Vào khoảng tháng 3 và 4, nước biển chiếm ưu thế hơn trong mối tương tác sông – biển, nước mặn xâm nhập sâu hơn vào trong vùng đất liền, do đó, độ mặn của nước trong đất rừng được nâng cao lên [1]. Ngược lại, vào khoảng tháng 9 đến tháng 11, khi các sông giữ vai trò ưu thế trong lực tương tác sông – biển, lúc đó nước ngọt từ sông đẩy lùi nước mặn ra biển làm hạ bớt độ mặn của nước trầm tích [1]. 43 Hình III.1 cho thấy độ mặn trung bình nước trầm tích tầng 20 cm đạt giá trị cao nhất trong 3 tầng vào cuối mùa khô (tháng 2 – 4) và thấp nhất trong 3 tầng vào giữa mùa mưa (tháng 7 – 9). Có thể nói, tầng 20 cm chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các biến động về thời tiết: vào các tháng mùa khô sự bốc hơi gia tăng trên bề mặt dẫn đến độ mặn tầng này cao nhất, vào giữa mùa mưa độ mặn thấp nhất có lẽ là kết quả của sự hòa tan hay rửa trôi lượng muối ở tầng đất bề mặt. Có sự tương quan nghịch khá chặt chẽ giữa độ mặn trung bình của nước trầm tích tầng 20 cm, 50 cm và 100 cm với lượng mưa tổng số (r = -0,72, -0,63 và - 0,58 lần lượt; p-value đều nhỏ hơn 0,000) và mối tương quan này yếu dần theo độ sâu. Hình III.2 cho thấy có một mối liên hệ khá chặt chẽ giữa lượng mưa và độ mặn trung bình. Trong mùa khô, khi lượng mưa tổng số giảm thì độ mặn nước trầm tích gia tăng. Ngược lại, ở mùa mưa, khi lượng mưa tổng số gia tăng thì độ mặn nước trầm tích sẽ giảm. Điều này không xảy ra trong cùng một tháng, do sự rửa mặn của nước mưa không xảy ra tức thời mà cần có thời gian để thấm vào trầm tích và hòa tan các muối. Tuy nhiên, độ mặn các tầng đất không có mối tương quan rõ ràng với lượng bốc hơi tổng số tại trạm Vũng Tàu với r = 0,44, 0,35 và 0,28 lần lượt ở các tầng 20 cm, 50 cm và100 cm (các giá trị p-value đều lớn hơn 0,05). III.1.2 Độ mặn nước trầm tích tại các tầng đất Bảng III.1: Giá trị độ mặn nước trầm tích trong 1 năm Tầng đất Độ mặn trung bình Độ mặn cực đại Độ mặn cực tiểu 20 cm 21,48 ± 3,97 29,65 9,18 50 cm 21,91 ± 3,37 27,77 10,79 100 cm 23,38 ± 2,53 27,25 15,01 Độ mặn của nước trầm tích chính là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến sinh trưởng, tỉ lệ sống và phân bố của cây rừng ngập mặn 44 [68][64]. Taal (1994) cho rằng ngưỡng chịu mặn của cây rừng ngập mặn từ 20 – 40‰ (trích dẫn theo tài liệu của Viên Ngọc Nam, 2005 [6]). Trong cả năm, độ mặn trung bình nước trầm tích ở độ sâu 20 cm, 50 cm và 100 cm đều nằm trong ngưỡng chịu mặn chung của cây rừng ngập mặn (20 – 40 ‰). Tuy nhiên, khu vực nghiên cứu này có thành phần loài Rhizophora apiculata chiếm ưu thế, trong khi loài này có độ mặn tối thích từ 8 đến 15‰ [6] thì độ mặn trầm tích của các tầng đất tại vùng gãy đổ này nhìn chung là khá cao so với điều kiện sống tối ưu của cây R.apiculata (Bảng III.1). Bảng III.2: Các giá trị p-value của độ mặn nước trầm tích Tầng 20 cm Tầng 50 cm Tầng 100 cm Khác biệt theo vị trí 0,999 0,14 0,02 Khác biệt theo vùng (vùng còn cây và vùng gãy đổ) 0,14 0,009 0,000 Khác biệt theo mùa 0,000 0,000 0,16 Khác biệt theo vị trí ô mẫu: độ mặn nước trầm tích giữa các vị trí ô mẫu ở tầng 100 cm có khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê, trong khi đó, các tầng 20 cm và 50 cm thì không nhận thấy (Bảng III.2). Khác biệt theo vùng (vùng còn cây và vùng gãy đổ): độ mặn nước trầm tích giữa vùng còn cây và vùng gãy đổ ở tầng 50 cm và 100 cm có khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê ở mức sai số 0,05 trong khi tầng 20 cm thì không có khác biệt (Bảng III.2). Khác biệt theo mùa: độ mặn nước trầm tích ở các tầng 20 cm và 50 cm vào mùa khô (tháng 11 – 4) đều cao hơn so với mùa mưa (tháng 5 – 10), trong khi độ mặn tầng 100 cm không có khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa hai mùa với mức sai số 0,05 (Bảng III.2). Các yếu tố thời tiết đã tác động lên độ mặn tầng 20 cm và 50 cm dẫn đến những biến động có tính chất mùa. Tóm lại: 45 Độ mặn nước trầm tích tầng 20 cm: có biến động mạnh nhất so với các tầng khác tuy nhiên giữa các ô mẫu hay các vùng (vùng còn cây và vùng gãy đổ) không có khác biệt ý nghĩa; có khác biệt ý nghĩa theo mùa (Bảng III.2). Điều này cho thấy sự che phủ hay không che phủ của thực vật không ảnh hưởng đến độ mặn nước trầm tích của tầng 20 cm mà tầng này bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết như lượng mưa tổng số (Hình III.2). Độ mặn nước trầm tích tầng 50 cm: có khác biệt ý nghĩa giữa các vùng còn thực vật và gãy đổ cũng như có biến động theo mùa (Bảng III.2). Độ mặn nước trầm tích của vùng còn thực vật cao hơn vùng gãy đổ và mùa nắng độ mặn cao hơn mùa mưa. Đây là tầng có độ mặn nước trầm tích mang các đặc điểm trung gian của 2 tầng 20 cm và 100 cm, vừa bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thời tiết vừa bị tác động lâu dài của các yếu tố nội tại (độ che phủ của thực vật). Độ mặn nước trầm tích tầng 100 cm: có khác biệt ý nghĩa giữa các ô thu mẫu, các vùng còn thực vật và vùng gãy đổ nhưng hầu như không bị tác động của yếu tố mùa. Điều này là hợp lí, vì tầng 100 cm khá sâu và ít bị chi phối bởi các tác động của thời tiết bên cạnh đó lại chịu sự chi phối bởi yếu tố nội tại như vị trí lấy mẫu và độ che phủ của thực vật. III.2 Tổng lượng vật rụng và năng suất vật rụng Tổng lượng vật rụng tại khu gãy đổ trong cả năm thu mẫu là 1,51 tấn/ha. So sánh với tổng lượng vật rụng tại rừng trồng R.apiculata 21 tuổi chưa bị gãy đổ ở Cần Giờ [5] là 10,45 tấn/ha/năm thì tổng lượng vật rụng tại khu rừng gãy đổ này rất thấp, chỉ bằng 1/10 khu rừng nguyên trạng. 46 0.00 0.05 0.10 0.15 0.20 0.25 Th án g 8 Th án g 9 Th án g 1 1 Th án g 1 2 Th án g 1 Th án g 2 Th án g 3 Th án g 4 Th án g 5 Th án g 6 Th án g 7 N ăn g su ất v ật rụ ng (t ấn /h a) Hình III.3: Năng suất vật rụng 0 5 10 15 20 25 30 35 Th án g 8 Th án g 9 Th án g 1 1 Th án g1 2 Th án g 1 Th án g 2 Th án g 3 Th án g 4 Th án g 5 Th án g 6 Th án g 7 Đ ộ m ặn ( pp t) 0 0.05 0.1 0.15 0.2 0.25 N SV R (t ấn /h a/ th án g) 20cm 50cm 100cm NS VR Hình III.4: Năng suất vật rụng và độ mặn các tầng đất Năng suất vật rụng của khu vực nghiên cứu có giá trị trung bình là 0,14 ± 0,04 tấn/ha/tháng. Năng suất vật rụng trung bình của rừng trồng R.apiculata tại Cần Giờ là 0,46 tấn/ha/tháng. So sánh với năng suất vật rụng trung bình trong mùa khô của một khu vực rừng ngập mặn nằm ven Khe Ốc – Cần Giờ là 1,39 tấn/ha/tháng [56] thì năng suất vật rụng trung bình tại đây cũng rất thấp. Điều này có thể do mật độ cây còn sống sau cơn bão là quá ít. Thời điểm cuối mùa mưa (tháng 9) có năng suất vật rụng cao nhất (0,22 tấn/ha) mà thành phần chủ yếu là trái (chiếm đến 47,4% lượng vật rụng). Cuối mùa khô (tháng 3) có năng suất vật rụng thấp nhất (0,05 tấn/ha). 47 Năng suất vật rụng tại khu vực nghiên cứu vào mùa mưa và mùa khô không có khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê với mức sai số là 0,05 (p-value = 0,83). Kết quả này tương tự với Wong, Ong và cộng sự (1980) khi nghiên cứu rừng Đước ở Mantang, Malaysia chưa thấy có sự liên quan giữa lượng vật rụng với khí hậu [6]. Cùng với kết quả đó, Viên Ngọc Nam (1998) nhận thấy ở Cần Giờ, tổng lượng vật rụng của Đước (R.apiculata) không biến động theo mùa [5]. Vào mùa khô, năng suất vật rụng tại khu vực nghiên cứu giảm dần nhưng không liên tục từ đầu cho đến cuối mùa khô (tháng 11 – 4). Tuy nhiên, vào giai đoạn giao mùa (tháng 9 – 12), lượng vật rụng cao hơn so với các tháng còn lại (Hình III.3). Tương quan giữa năng suất vật rụng và lượng mưa tổng số vào mỗi tháng tính trong cả năm thu mẫu là rất thấp (r = 0,076; p-value > 0,05) và có thể xem năng suất vật rụng không bị ảnh hưởng bởi lượng mưa tổng số trong cả năm thu mẫu. Tương tự vậy, hệ số tương quan giữa năng suất vật rụng với độ mặn của nước trầm tích (‰) từ tất cả các giếng trong mỗi tầng 20 cm, 50 cm và 100 cm lần lượt là 0,175, 0,093 và 0,237 (p-value > 0,05). Hệ số tương quan này cho thấy độ mặn cũng không phản ánh được năng suất vật rụng. Tuy nhiên, trong mùa mưa, hệ số tương quan của năng suất vật rụng và độ mặn nước trầm tích các tầng 20 cm và 100 cm lần lượt là r = -0,41 và -0,39 (p- value = 0,035 và 0,038 < 0,05) cho thấy năng suất vật rụng có tương quan yếu với độ mặn nước trầm tích các tầng này. Lượng mưa tăng vào mùa mưa làm độ mặn nước trầm tích giảm. Lượng mưa và độ mặn nước trầm tích có thể đã ảnh hưởng lên năng suất vật rụng vào mùa mưa. III.3 Năng suất vật rụng ở các ô nằm ven khu gãy đổ Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy khu vực bìa rừng xung quanh vùng trống tiếp tục mở tán có thể do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: hướng gió, độ bám của rễ, sự yếu đi của nền trầm tích sau khi bị bão quét,… Năng suất vật rụng có thể phần nào đánh giá sự mở tán của khu vực rừng ở rìa phía đầu đường cắt (các ô B01, C01, D01) và rìa phía cuối đường cắt (các ô B13, C10, D12). 48 0.00 0.10 0.20 0.30 0.40 0.50 0.60 0.70 0.80 0.90 1.00 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Nă ng s uấ t v ật rụ ng (t ấn /h a) Các ô B01,C01,D01 Các ô B13,C10,D12 Hình III.5: Năng suất vật rụng ở các ô nằm 2 rìa khu gãy đổ Phía đầu đường cắt (các ô B01, C01, D01) có năng suất vật rụng trung bình 0,421 ± 0,182 tấn/ha/tháng và phía cuối đường cắt (các ô B13, C10, D12) khoảng 0,304 ± 0,18 tấn/ha/tháng. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê (p-value > 0,05). Hình III.5 cho thấy năng suất vật rụng ở phần rừng phía đầu đường cắt (các ô B01, C01, D01) có biến động theo mùa (p-value = 0,002 < 0,05), mùa mưa vật rụng nhiều hơn mùa khô. Trong khi đó, năng suất vật rụng ở phần rừng phía cuối đường cắt (các ô B13, C10, D12) không có biến động mùa (p-value > 0,05). Đặc biệt, vào tháng 2 ở phần rừng phía cuối đường cắt, năng suất vật rụng tăng lên đáng kể (0,73 tấn/ha) có thể do tác động của sự mở tán. Điều này dường như hợp lý, vì những tháng sau đó năng suất của khu vực rừng này giảm đi đáng kể do đã bị mất nhiều cây. Sự mở tán xảy ra không đồng đều ở hai phía rừng của khu gãy đổ, các ô nằm cuối đường cắt dường như có tốc độ mở tán nhanh hơn các ô nằm phía đầu đường cắt, điều này có thể do tác động của hướng gió (tháng 11 – 4 gió có hướng Đông Nam [5]). Hơn thế, sự mở tán này phần nào đã lý giải được vì sao năng suất vật rụng của các ô nằm cuối đường cắt không biến động theo mùa. Sự mở tán mạnh mẽ xảy ra vào tháng 2 của phần rừng nằm cuối đường cắt làm cho năng suất vật rụng toàn khu gãy đổ vào tháng 2 tăng lên đáng kể, trong khi các tháng sau đó có mật độ cây tại khu vực này giảm đi so với lúc bắt đầu nghiên 49 cứu. Chính điều này làm ảnh hưởng đến năng suất vật rụng toàn khu vực gãy đổ dẫn đến năng suất vật rụng của cả khu vực này không biến động theo mùa. III.4 Các thành phần vật rụng Thành phần vật rụng bao gồm: lá, lá kèm, cành, cơ quan sinh sản (hoa, quả), thành phần không xác định. 50% 22% 8% 7% 10% 3% Lá Trái Hoa Lá kèm Cành Không xác định Hình III.6: Tỉ lệ giữa các thành phần vật rụng Trong các thành phần vật rụng, lá chiếm tỉ lệ cao nhất là 50% (tương đương 0,76 tấn/ha/năm), hoa chiếm 0,12 tấn/ha/năm, trái rụng 0,33 tấn/ha/năm, cành rụng 0,15 tấn/ha/năm, lá kèm rụng 0,11 tấn/ha/năm, còn lại là phần không xác định tương đương 0,04 tấn/ha/năm. Đối với Rhizophoraceae, lá kèm là lá bao bên ngoài chồi của lá non sẽ rụng xuống khi lá non mọc ra. Lá kèm là một thành phần vật rụng có tương quan cao với sự xuất hiện lá mới [15]. Theo một số nghiên cứu trước đây, Sasekumar và Loi (1983) nhận định có 40 – 67% thành phần vật rụng là lá ở Malay Peninsula [57]. Trong khi đó, tỉ lệ lá rụng chiếm 69,74% của tổng lượng vật rụng ở vịnh Sepetiba – Brazil [59][60]. Ở Cà Mau, Việt Nam, tỉ lệ lá rụng trong rừng trồng R.apiculata là 70% [53]. Tại Khe Ốc, một lạch triều nhỏ trong rừng ngập mặn Cần Giờ có tỉ lệ lá Rhizophora rụng là 42,35% thành phần vật rụng trong mùa khô [56]. Nếu chỉ tính riêng mùa khô thì lượng lá rụng chiếm 62,16% tổng lượng vật rụng tại khu vực gãy đổ, mà thành phần thực vật chủ yếu tại đây là R.apiculata. Như vậy, tỉ lệ lá trong thành phần vật rụng vào mùa khô tại khu gãy đổ này nhiều hơn so với tại Khe Ốc. 50 Điều này có thể do sự mở tán rừng xảy ra mạnh mẽ trong các tháng giữa mùa khô. III.4.1 Năng suất lá rụng 350 360 370 380 390 Năng suất lá rụng (tấn/ha) Mùa khô Mùa mưa Hình III.7: Năng suất lá rụng trong 2 mùa 0 5 10 15 20 25 30 35 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Đ ộ m ặn ( pp t) 0.00 0.02 0.04 0.06 0.08 0.10 0.12 0.14 N ăn g su ất lá r ụ ng (t ấn /h a/ th án g) 20cm 50cm 100cm Năng suất lá Hình III.8: Năng suất lá rụng và độ mặn 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 N ăn g su ất lá rụ ng (t ấn /h a/ th án g) Các ô B01,C01,D01 Các ô B13,C10,D12 Hình III.9: Năng suất lá rụng ở các ô nằm 2 khu gãy đổ 51 Năng suất lá rụng trung bình tại khu vực nghiên cứu là 0,069 ± 0,022 tấn/ha/tháng, lượng lá rụng này thấp hơn nhiều khi so sánh với lượng lá rụng ở các rừng phát triển bình thường. Năng suất lá rụng là 0,55 tấn/ha/tháng ở Phuket, Thái Lan [52]; 0,65 tấn/ha/tháng ở Cà Mau [53]; 0,67 tấn/ha/tháng ở Khe Ốc – Cần Giờ [56] và 0,63 tấn/ha/tháng ở rừng trồng R.apiculata tại Cần Giờ [5]. Tháng 12 lá rụng nhiều nhất (0,13 tấn/ha) và lá rụng ít nhất vào tháng 5 (0,024 tấn/ha). Năng suất lá rụng mùa khô cao hơn mùa mưa (Hình III.7), nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê (p-value = 0,5 > 0,05). Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển mùa (tháng 11 – 12) lượng lá rụng cao hơn so với các tháng còn lại (Hình III.8). Kết quả này tương tự với nghiên cứu được thực hiện tại một khu rừng trồng R.apiculata ở Cà Mau [53]. Hệ số tương quan của năng suất lá rụng và lượng mưa tổng số là -0,45 (p- value > 0,05), Tương quan với độ mặn nước trầm tích (‰) trong các tầng 20 cm, 50 cm và 100 cm lần lượt là r = -0,05, -0,117 và -0,065 (p-value > 0,05). Cho thấy, lá rụng không bị ảnh hưởng bởi lượng mưa tổng số và cũng không có mối tương quan với độ mặn nước trầm tích của các tầng đất. Năng suất lá rụng ở các ô nằm ven khu vực rừng gãy đổ có phản ánh một phần sự mở tán của cây. Năng suất lá rụng trung bình ở các ô nằm đầu đường cắt (ô B01, C01, D01) là 0,19 ± 0,05 tấn/ha/tháng, ở các ô nằm cuối đường cắt (ô B13, C10, D12) là 0,19 ± 0,11 tấn/ha/tháng. Năng suất lá rụng ở phần rừng phía đầu đường cắt (các ô B01, C01, D01) không biến động theo mùa (p-value = 0,99 > 0,05) (Hình III.9). Trong khi đó, năng suất lá rụng ở phần rừng phía cuối đường cắt (các ô B13, C10, D12) có biến động theo mùa (p-value = 0,01 < 0,05), mùa khô lá rụng nhiều hơn mùa mưa. Phần rừng nằm phía cuối đường cắt có sự mở tán mạnh (0,42 tấn/ha) vào các tháng 1 và 2, theo sau các tháng đó lượng lá rụng giảm hẳn. 52 III.4.2 Năng suất hoa và trái rụng 0.00 0.02 0.04 0.06 0.08 0.10 0.12 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 N ăn g su ất (t ấn /h a) Trái rụng Hoa rụng Hình III.10: Năng suất hoa và trái rụng Năng suất hoa rụng là 0,011 ± 0,005 tấn/ha/tháng. Tháng có hoa rụng nhiều nhất là tháng 6 (0,029 tấn/ha) trong giai đoạn đầu mùa mưa, lượng hoa rụng vào tháng này chiếm 23,7% tổng lượng hoa rụng trong cả năm thu mẫu. Tương tự như nghiên cứu tại Cần Giờ [5], hoa thường rơi nhiều vào thời kỳ cuối mùa khô và đầu mùa mưa. Năng suất trái rụng bình quân là 0,03 ± 0,02 tấn/ha/tháng. Tháng 9 là tháng có trái rụng nhiều nhất (0,104 kg/ha), chiếm 31,68% tổng lượng trái rụng trong cả năm. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Viên Ngọc Nam (1998) [5] cho rằng lượng trái rụng có đỉnh xảy ra trong tháng 9. Lượng trái rụng có biến động theo mùa (p-value = 0,01) và mùa mưa trái rụng nhiều hơn mùa khô, trong khi hoa rụng không có khác biệt ý nghĩa theo mùa (p-value = 0,2). Nghiên cứu cho thấy tại khu rừng ngập mặn bị gãy đổ, lượng hoa rụng nhiều vào đầu mùa mưa (tháng 6 và 7), đến giữa mùa mưa (tháng 9) trái già rụng. Như vậy, đối tượng rụng là hoa và trái tại khu vực rừng bị gãy đổ này không có khác biệt so với khu rừng nguyên trạng đã được nghiên cứu trước đó. 53 III.4.3 Số lượng lá kèm 0 5 10 15 20 25 30 35 Th án g 7 Th án g 8 Th án g 9 Th án g 1 1 Th án g 1 2 Th án g 1 Th án g 2 Th án g 3 Th án g 4 Th án g 5 Th án g 6 Th án g 7 Th án g 8 Đ ộ m ặn ( ‰ ) 0 100 200 300 400 500 600 Số lá k èm 20cm 50cm 100cm lá kèm Hình III.11: Độ mặn nước trầm tích và số lượng lá kèm 0 50 100 150 200 250 300 350 Th án g 8 Th án g 9 Th án g 1 1 Th án g 1 2 Th án g 1 Th án g 2 Th án g 3 Th án g 4 Th án g 5 Th án g 6 Th án g 7 Th án g 8 Lư ợ ng m ư a (m m ) 0 100 200 300 400 500 600 Số lá k èm Lượng mưa tổng số Số lá kèm Hình III.12: Lượng mưa tổng số và số lượng lá kèm Trong khu vực nghiên cứu, lá kèm rụng nhiều nhất vào tháng 8 – mùa mưa, chiếm 17% tổng số lá rụng trong năm (526 lá kèm) và rụng ít nhất vào tháng 5 – cuối mùa khô, với 82 lá (chiếm 3% tổng số lá kèm). Lá kèm là một thành phần vật rụng có tương quan cao với sự xuất hiện lá mới [15]. Điều này có thể giải thích tốc độ mọc lá mới của cây R.apiculata nhanh nhất vào giai đoạn giữa mùa mưa và chậm nhất vào giai đoạn cuối mùa khô. Trong nghiên cứu về lượng rơi, Viên Ngọc Nam có đề cập đến khối lượng lá kèm rụng là 0,41 – 0,98 tấn/ha/năm chiếm từ 8,95 – 11,19% tổng lượng rụng. Số lá kèm rụng theo các tháng khác nhau rất có ý nghĩa, trong đó tháng 7, 11, 9 có số lượng lá kèm rụng nhiều nhất, còn ít nhất thì có tháng 6, 3 và 8 [5]. Hệ số tương quan giữa số lượng lá kèm và độ mặn trung bình của nước trầm tích (‰) trong các tầng 20 cm, 50 cm và 100 cm lần lượt là r = -0,64, -0,67 và 54 -0,72 (p-value đều nhỏ hơn 0,05), cho thấy có một mối liên hệ nghịch chặt chẽ giữa hai thông số này và mối liên hệ đó tăng dần theo độ sâu. Có thể cho rằng tốc độ ra lá mới tương quan nghịch với độ mặn của nước trầm tích và nhất là nước trầm tích ở độ sâu 100 cm. Hình III.11 cho thấy trong giai đoạn mùa khô, khi độ mặn nước trầm tích tăng lên thì tốc độ ra lá mới giảm đi, mối tương quan nghịch này rất chặt chẽ ( r = -0,93, -0,91 và -0,93 tương ứng với các tầng 20 cm, 50 cm và 100 cm, các giá trị p-value đều nhỏ hơn 0,01), điều này có thể do độ mặn của nước trong đất đã ức chế quá trình tạo lá mới ở R.apiculata trong mùa khô. Hệ số tương quan giữa số lượng lá kèm và lượng mưa tổng số là 0,37 (p- value > 0,05). Điều đó cho thấy tốc độ ra lá mới cả năm và lượng mưa tổng số không có mối tương quan rõ ràng. Tuy nhiên, vào mùa mưa có mối tương qu