Đôi điều về văn hóa báo chí thời kỳ hội nhập

Hướng tới một nền báo chí lành mạnh, để các cơ quan báo chí trong nước vừa thực hiện tốt chức năng tư tưởng chính trị, vừa thực hiện tốt chức năng kinh doanh của mình; vừa đảm bảo tốt yêu cầu và định hướng phát triển báo chí của Đảng và Nhà nước ta, vừa phù hợp với xu thế phát triển báo chí của thế giới Văn hóa báo chí là thành tố quan trọng và trở thành nhân tố cốt lõi và quyết định yếu tố thành công của hoạt động báo chí hiện nay. Về bản chất, văn hóa không chỉ là yếu tố thể hiện mà còn là đích hướng, mục tiêu phải đạt được của báo chí. Chính vì vậy, văn hóa báo chí Việt Nam cần được nhìn nhận nghiêm túc, đúng đắn để các cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ mục đích hoạt động. Ngoài ra đó còn là đảm bảo sự tôn trọng công chúng - những người hưởng thụ các sản phẩm và dịch vụ báo chí- những người đang ngày càng có vai trò duy trì sự tồn tại và sự phát triển không ngừng của cơ quan báo chí hiện nay. Bài viết này, chúng tôi xin được trình bày đôi điều về văn hóa báo chí thời hội nhập với 4 nội dung nhỏ sau đây: 1. Báo chí phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu và hữu hiệu

pdf8 trang | Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 860 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đôi điều về văn hóa báo chí thời kỳ hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÔI ĐIỀU VỀ VĂN HÓA BÁO CHÍ THỜI KỲ HỘI NHẬP TS. Đỗ Thị Quyên∗ Hướng tới một nền báo chí lành mạnh, để các cơ quan báo chí trong nước vừa thực hiện tốt chức năng tư tưởng chính trị, vừa thực hiện tốt chức năng kinh doanh của mình; vừa đảm bảo tốt yêu cầu và định hướng phát triển báo chí của Đảng và Nhà nước ta, vừa phù hợp với xu thế phát triển báo chí của thế giới Văn hóa báo chí là thành tố quan trọng và trở thành nhân tố cốt lõi và quyết định yếu tố thành công của hoạt động báo chí hiện nay. Về bản chất, văn hóa không chỉ là yếu tố thể hiện mà còn là đích hướng, mục tiêu phải đạt được của báo chí. Chính vì vậy, văn hóa báo chí Việt Nam cần được nhìn nhận nghiêm túc, đúng đắn để các cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ mục đích hoạt động. Ngoài ra đó còn là đảm bảo sự tôn trọng công chúng - những người hưởng thụ các sản phẩm và dịch vụ báo chí- những người đang ngày càng có vai trò duy trì sự tồn tại và sự phát triển không ngừng của cơ quan báo chí hiện nay. Bài viết này, chúng tôi xin được trình bày đôi điều về văn hóa báo chí thời hội nhập với 4 nội dung nhỏ sau đây: 1. Báo chí phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu và hữu hiệu Điều 1 của Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam năm 1999 qui định Vai trò, chức năng của báo chí như sau:“Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân dân.” Trước hết, báo chí là tấm gương phản ánh bộ mặt xã hội. Báo chí thực sự là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu cung cấp và phản ánh muôn mặt của đời sống xã hội, giúp cho các cá nhân, tổ ∗ Đại học Văn hóa Hà Nội chức có thể được cập nhật và nắm bắt các thông tin, sự kiện trong và ngoài nước đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Báo chí có vai trò giám sát, phản biện xã hội và định hướng dư luận xã hội. Báo chí khẳng định ngày càng rõ hơn vai trò là tiếng nói của Đảng, là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Cơ quan báo chí là đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, bảo đảm lợi ích của toàn xã hội và yêu cầu của đất nước. Báo chí có vai trò không thể thoái thác là nắm bắt, tạo dựng và định hướng dư luận xã hội. Báo chí là chủ thể khơi nguồn dư luận xã hội, dư luận xã hội là đối tượng phản ánh của báo chí. Báo chí cũng là một động lực phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Những thông tin, sự kiện được cập nhật kịp thời, đảm bảo độ tin cậy, trung thực và khách quan có ý nghĩa và giá trị thực tiễn lớn trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước hiện nay. Đó là các cơ hội đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, vùng lãnh thổ; cơ hội để gìn giữ và quảng bá bản sắc văn hóa vùng miền, các giá trị văn hóa dân tộc; thời điểm hợp lý để triển khai thực thi một chính sách xã hội cụ thể v.v 2. Văn hóa - nhân tố cốt lõi của báo chí Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Tại hội nghị quốc tế về văn hóa do UNESCO chủ trì từ ngày 26/7 đến 6/8 năm 1982 ở Mêhicô với sự tham dự của đại diện hơn 100 quốc gia, đã có khoảng 200 định nghĩa được đưa ra và bản Tuyên bố chung của Hội nghị khẳng định: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền căn bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Chính văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực thi những lựa chọn. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân mình”. Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO F.May-ơ cho rằng: “Văn hoá là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đó hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.” Theo Hồ Chí Minh: ‘‘Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện, phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó là loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống, và đòi hỏi của sự sinh tồn’’. Như vậy, mặc dù có nhiều cách hiểu về văn hóa, nhiều định nghĩa về văn hóa do các cách tiếp cận khác nhau, nhưng rõ ràng, các quan niệm về văn hóa đều đi đến một điểm chung là văn hóa gắn với con người, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hoá và hệ ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Theo đó, văn hóa bao gồm: Văn hóa cá nhân biểu hiện ở sáng tạo của cá nhân, bao gồm toàn bộ vốn tri thức, kinh nghiệmtích lũy vào một con người, phản ánh sự lựa chọn định hướng giá trị và phương thức ứng xử của người ấy trong các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình; Văn hóa cộng đồng là văn hóa của một tập thể người, phản ánh hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mà họ đã lựa chọn, chia sẻ, biểu hiện thành lối sống ổn định, đã trở thành truyền thống của cộng đồng xã hội ấy. Người ta có thể dựa vào các hình thái của hoạt động sản xuất để phân chia văn hóa thành văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất là môi trường nhân tạo - kết quả hoạt động sản xuất vật chất của con người - bao gồm công cụ lao động, phương tiện sản xuất, hoạt động mưu sinh của con người, trang phục, ăn uống, nhà cửa, phương tiện giao tiếp; Văn hóa tinh thần là môi trường nhân tạo - kết quả của hoạt động tinh thần bao gồm các thành tố hệ tư tưởng, đạo đức, giao tiếp tinh thần, sáng tạo nghệ thuật và tôn giáo. Văn hóa còn được tiếp cận và xem xét từ nhiều góc nhìn, chúng tôi tán đồng với quan niệm văn hóa của tác giả E.Heriôt coi “Văn hóa là cái còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn còn thiếu sau khi người ta đã học tất cả.’’ Như vậy, mọi thứ có thể bị lãng quên và văn hóa là cái còn lại mãi mãi theo thời gian. Trong kinh doanh, yếu tố văn hóa có mặt và đan quyện trong toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động kinh doanh. Từ cách tổ chức bộ máy, hình thành quan hệ ứng xử trong và ngoài tổ chức, phương thức quản lý sản xuất, kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội... tất cả đều gắn liền những giá trị tốt đẹp thể hiện sinh động văn hóa của con người. Văn hóa báo chí là một phương diện của văn hóa trong xã hội và là văn hóa trong lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, những phương thức và kết quả hoạt động của con người được tạo ra và sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, văn hóa báo chí có thể được hiểu đơn giản như sau: Văn hóa báo chí là toàn bộ những giá trị được chủ thể chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động báo chí, tạo ra bản sắc, tính chuyên biệt của các cơ quan báo chí. Với cách tiếp cận như trên cho thấy, mọi hoạt động và hành vi ứng xử của báo chí đều có mối quan hệ mật thiết với văn hóa. Từ khâu khai thác, xử lý đến phản ánh thông tin của báo chí trong xã hội đều cần đến một qui chuẩn văn hóa nhằm đảm bảo độ chính xác, trung thực, tin cậy và khách quan. Qui chuẩn này có thể nằm chính trong những yêu cầu, nguyên tắc nghiệp vụ báo chí, cũng có thể không, chúng là hướng đích, mục tiêu cần đạt tới của các cơ quan báo chí. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, cạnh tranh vốn là nguyên tắc căn bản của nền kinh tế thị trường, dưới áp lực của cạnh tranh, để thỏa mãn nhu cầu báo chí của công chúng (nhu cầu thị trường) theo định hướng của Đảng và Nhà nước ngoài yếu tố sản phẩm, dịch vụ, còn cần đến cả thái độ, ứng xử của nhà cung cấp đối với người hưởng thụ sản phẩm và dịch vụ báo chí Văn hóa thực sự là thành tố quan trọng và là nhân tố cốt lõi của báo chí. Văn hóa báo chí còn biểu hiện cả ở thái độ ứng xử của cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí. Sự quan tâm chỉ đạo, định hướng và quản lý sát sao phù hợp hoạt động báo chí trên cả nước thông qua cơ chế, chính sách quản lý; qui hoạch, chiến lược phát triển báo chí trong từng giai đoạn; hệ thống đồng bộ các văn bản pháp qui để quản lý của cơ quan chỉ đạo của Đảng và cơ quan quản lý của Nhà nước. 3. Văn hóa báo chí – một số vấn đề cần lưu tâm hiện nay Trong những năm qua, các cơ quan báo chí dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của cơ quan quản lý đã đóng góp tích cực và có hiệu quả vào việc thực hiện nhiệm vụ thông tin tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Báo chí phản ánh kịp thời diễn biến mọi mặt của đời sống xã hội và tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; phát hiện, cổ vũ các nhân tố mới, điển hình tiên tiến và những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng trong đời sống xã hội... Nhiều cơ quan báo chí đã năng động, tích cực trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác, tích cực đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”, phản bác các quan điểm sai trái Tuy nhiên, vẫn còn một số cơ quan báo chí và nhà báo có những biểu hiện chưa nghiêm túc trong quá trình thực hiện Luật Báo chí, làm giảm hiệu quả thông tin báo chí, ảnh hưởng không tốt đến kỷ cương xã hội; vẫn còn một số cơ quan báo chí thông tin không chính xác, chưa đúng với bản chất của sự việc, bình luận một chiều; một vài phóng viên, nhà báo, biên tập viên còn có những biểu hiện và hành động thiếu tôn trọng pháp luật và công chúng; một số báo chí còn nặng thông tin về tiêu cực, có nhiều tin bài chạy theo thị hiếu tầm thường để “hấp dẫn” người đọc, nội dung nhiều tờ báo và tạp chí bị lấn át bởi các thông tin quảng cáo, hình ảnh playboy và sexy hóa. Một vài chương trình truyền hình còn thể hiện sự cẩu thả nghề nghiệp của các biên tập viên, phóng viên đến vô trách nhiệm Một vài báo chí điện tử còn sơ hở trong sử dụng lại tin bài của nước ngoài, đăng cả những thông tin mật của Nhà nước, những bí mật kinh tế liên quan đến hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp. Một vài cơ quan báo chí còn chưa thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, khuynh hướng thương mại hóa báo chí, chạy theo lợi nhuận đang ngày càng trở nên phổ biến Cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí còn chưa thống nhất cách nhìn nhận về tính đặc thù của hoạt động báo chí hiện nay. 4. Hướng tới một nền văn hóa báo chí Thứ nhất, về văn hóa ứng xử. Văn hóa ứng xử gắn liền với các thước đo mà xã hội dùng để ứng xử. Đó là các chuẩn mực xã hội. Trong quá trình ứng xử, con người phải lựa chọn giữa cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai, cái đẹp và cái xấu, cái hợp lý và cái phi lý trong một cộng đồng nhất định. Sự lựa chọn này bị chi phối bởi bốn hệ chuẩn mực là: hệ chuẩn mực đạo đức, hệ chuẩn mực luật pháp, hệ chuẩn mực thẩm mỹ và trí tuệ, hệ chuẩn mực về niềm tin nhằm bảo tồn, phát triển cuộc sống của cá nhân và cộng đồng người hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Do vậy, cơ quan báo chí phải hoạt động có đạo đức và trách nhiệm đối với sản phẩm của mình, cung cấp thông tin có chất lượng nhằm tôn trọng công chúng, tôn trọng người hưởng thụ các sản phẩm và dịch vụ báo chí- người đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cơ quan báo chí. Quy tắc đạo đức của nhà báo phải được tuân thủ một cách thống nhất và công bằng. Nhà báo hoạt động cần tuân thủ nghiêm ngặt tính khách quan, trung thực, chính xác trong việc khai thác và phản ánh thông cũng như việc định hướng dư luận xã hội. Không vì bất cứ cám dỗ nào mà vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Ngay bản thân các nhà báo, biên tập viên, nhà lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan báo chí ngoài sự nhiệt huyết, sáng tạo nghề nghiệp cũng cần có nâng cao ý thức hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và phổ biến sản phẩm, dịch vụ báo chí. Cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu xã hội, tìm kiếm lợi nhuận chính đáng cho đơn vị và mang lại các giá trị hữu ích, nhân văn vì cuộc sống chung của cộng đồng và đất nước. Bản thân các cơ quan báo chí, cần xác định rõ quyền và trách nhiệm của mình trước xã hội. Là cơ quan ngôn luận của Đảng, là diễn đàn của nhân dân và là cầu nối quan trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân, cơ quan báo chí phải thực hiện tốt chức năng chính trị tư tưởng, đồng thời phải tính đến hiệu quả kinh tế báo chí như: đa dạng hóa sản phẩm báo chí, nâng cao chất lượng sản phẩm, sử dụng hiệu quả các nguồn lực vốn có, nhanh nhạy với thị trường, nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động báo chí, đặc biệt đối với mảng báo chí kinh doanh, quảng cáo, PR ... trên cơ sở tuân thủ pháp luật và đảm bảo định hướng của Đảng và Nhà nước. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần có ứng xử phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động báo chí. Khẳng định báo chí là sản phẩm đặc thù, sản xuất kinh doanh báo chí là hoạt động đặc thù trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, nhà nước cần có chế độ chính sách đặc thù cho hoạt động này phát triển. Đó là cơ chế quản lý, chính sách đầu tư phát triển ngành, chính sách thuế hợp lý nhằm nuôi dưỡng các nguồn thu từ các cơ quan báo chí... Đối với công chúng, những người sử dụng và hưởng thụ sản phẩm và dịch vụ báo chí cũng cần có thái độ ứng xử đúng mực với các thông tin báo chí. Tôn trọng thông tin báo chí trên cơ sở tiếp nhận, xử lý thông tin một cách khách quan, khoa học và có trách nhiệm. Trong trường hợp cần thiết, cần gặp người có trách nhiệm, thẩm quyền để trao đổi và giải quyết. Tránh tình trạng vô tình đồng lõa, tiếp tay và thậm chí là nạn nhân của những ‘‘tin đồn nhảm nhí” có hại cho cá nhân và cộng đồng... Thứ hai, về một số giải pháp cụ thể: Một là, Nhà nước cần ban hành thống nhất đồng bộ văn bản pháp luật và các chế tài xử lý trong hoạt động báo chí. Các văn bản pháp luật cần được ban hành và bổ sung kịp thời cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn báo chí, đặc biệt đối với những vấn đề hiện đang nhạy cảm hiện nay như: quảng cáo báo chí, liên kết sản xuất các chương trình phát thanh truyền hình, các vấn đề liên quan về nội dung, tư tưởng, hình thức của chương trình liên kết... Các văn bản qui định về xử lý vi phạm của cơ quan báo chí, phóng viên, nhà báo cũng như những vi phạm của cá nhân, tổ chức lợi dụng hoặc cố ý làm tổn thương, bôi nhọ nhân cách nhà báo... cần được qui định cụ thể chi tiết hơn. Hai là, báo chí là hoạt động đặc thù, Nhà nước cần có chính sách đầu tư phát triển thích đáng cho hoạt động này. Để đầu tư đúng, đủ và hiệu quả cho hoạt động này, Nhà nước cần phân định rõ mảng báo chí phục vụ mục đích tuyên truyền, mảng báo chí phục vụ nhiệm vụ kinh doanh trong mỗi cơ quan báo chí. Mảng báo chí tuyên truyền cần được nhà nước đầu tư kinh phí toàn bộ. Mảng báo chí kinh doanh, các cơ quan báo chí tự chủ, tự chịu trách nhiệm hạch toán kinh doanh theo qui định của pháp luật hiện hành. Ba là, các cơ quan báo chí cần linh hoạt, nhạy bén nắm bắt nhu cầu thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh báo chí trên cơ sở giữ vững bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp đảm bảo định hướng của Đảng. Đa dạng hóa loại hình báo chí và đa dạng các loại hình truyền thông trong một loại hình báo chí là xu hướng phổ biến trên thế giới, các cơ quan báo chí trong nước cần khai thác nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả báo chí trong việc đáp ứng nhu cầu báo chí của công chúng trong nước hiện nay. Tăng cường sử dụng vốn hiệu quả, tiết kiệm thông qua việc khai thác, xây dựng và phát sóng, phổ biến chương trình, tin bài; thiết lập đội ngũ phóng viên, nhà báo, cộng tác viên bên ngoài; thiết lập các kênh, mạng lưới tiêu thụ phù hợp nhóm cộng đồng/khu vực tiêu dùng báo chí; đẩy mạnh các biện pháp xúc tiến kinh doanh kích thích hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp và nhu cầu hưởng thụ của công chúng nói chung. Và dù muốn hay không, thực tế cho thấy, báo chí cũng là một sản phẩm đặc thù trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Hoạt động báo chí không phải là hoạt động kinh doanh đơn thuần mà là hoạt động kinh doanh đặc thù vừa thực hiện chức năng tư tưởng chính trị vừa thực hiện chức năng kinh doanh. Vì vậy ứng xử của cơ quan quản lý, các cơ quan báo chí và ngay cả của công chúng- người trực tiếp hưởng thụ các sản phẩm và dịch vụ báo chí là vô cùng quan trọng để tạo nên bản sắc của nền văn hóa báo chí Việt Nam . Tài liệu tham khảo 1. A.Ca-rơ-min (2011), Văn hóa học, St Peterburg ( Bản dịch của GS.Hoàng Vinh) 2. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa- Thông tin, Viện Quản trị doanh nghiệp (2001), Văn hóa và kinh doanh, NXB Lao động, Hà Nội. 3. PGS.TS Dương Thị Liễu (chủ biên), (2009), Văn hóa kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 4. GS. Phạm Xuân Nam (chủ biên), (1996), Văn hóa kinh doanh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Đào Duy Quát (chủ biên), (2007), Văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân trong quá trình hội nhập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu liên quan