Yêu cầu thực tiễn phải đổi mới
Mặc dù đã qua hơn 30 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), hệ thống Quy hoạch đô thị
(QHĐT) và phương pháp luận QHĐT nước ta vẫn bảo lưu những
đặc điểm căn bản của hệ thống quy hoạch tổng thể có nguồn gốc
từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp với một hệ thống
quy hoạch đô thị theo tầng bậc phức tạp, các sản phẩm quy hoạch
khá cứng nhắc (quy hoạch vật thể) và khó đáp ứng được trước các
yêu cầu đầu tư thay đổi linh hoạt của thị trường và tốc độ phát triển
đô thị nhanh.
Trên thực tế hiện nay,vai trò của khối kinh tế tư nhân và đầu tư nước
ngoài đang dần thay thế vai trò độc tôn của Nhà nước trong đầu
tư phát triển đô thị (PTĐT) như trước đây, đặc biệt là trong các lĩnh
vực nhà ở và bất động sản, du lịch, dịch vụ, hạ tầng đô thị. Vai trò
của Nhà nước đang chuyển từ chủ thể đầu tư phát triển chính sang
vai trò dẫn dắt, tạo ra môi trường thể chế thuận lợi cho các chủ thể
khác cùng tham gia phát triển đô thị.
Tuy nhiên, những biến chuyển đó lại được phản ánh rất chậm
trong công tác QHĐT. Quy trình phức tạp và sản phẩm cứng nhắc
của các đồ án quy hoạch đang tạo ra cản trở lớn cho các nhà đầu
tư. Việc các định hướng phát triển được đặt ra trong các đồ án quy
hoạch cấp trên (quy hoạch chung (QHC), quy hoạch phân khu
(QHPK)) thường ít khi phù hợp với các dự án do các chủ đầu tư đề
xuất, cho thấy khả năng tiếp cận thị trường của đồ án QHĐT hiện
nay bị hạn chế rất cơ bản. Từ đó dẫn đến thực trạng là, để đáp
ứng và thu hút các dự án đầu tư, chính quyền địa phương thường
xuyên phải tiến hành điều chỉnh cục bộ các quy hoạch cấp trên
liên quan (QHC, QHPK) theo một quy trình phức tạp và mất nhiều
thời gian, điều này làm ảnh hưởng lớn đến cơ hội đầu tư và chi phí
chung của doanh nghiệp.
9 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý phát triển đô thị từ thực tiễn đến yêu cầu đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SË 100 . 201910
Từ Thực Tiễn đến yêu cầu đổi mới
Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý phát triển Đô thị
(phần 1)
Yêu cầu thực tiễn phải đổi mới
Mặc dù đã qua hơn 30 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), hệ thống Quy hoạch đô thị
(QHĐT) và phương pháp luận QHĐT nước ta vẫn bảo lưu những
đặc điểm căn bản của hệ thống quy hoạch tổng thể có nguồn gốc
từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp với một hệ thống
quy hoạch đô thị theo tầng bậc phức tạp, các sản phẩm quy hoạch
khá cứng nhắc (quy hoạch vật thể) và khó đáp ứng được trước các
yêu cầu đầu tư thay đổi linh hoạt của thị trường và tốc độ phát triển
đô thị nhanh.
Trên thực tế hiện nay,vai trò của khối kinh tế tư nhân và đầu tư nước
ngoài đang dần thay thế vai trò độc tôn của Nhà nước trong đầu
tư phát triển đô thị (PTĐT) như trước đây, đặc biệt là trong các lĩnh
vực nhà ở và bất động sản, du lịch, dịch vụ, hạ tầng đô thị. Vai trò
của Nhà nước đang chuyển từ chủ thể đầu tư phát triển chính sang
vai trò dẫn dắt, tạo ra môi trường thể chế thuận lợi cho các chủ thể
khác cùng tham gia phát triển đô thị.
Tuy nhiên, những biến chuyển đó lại được phản ánh rất chậm
trong công tác QHĐT. Quy trình phức tạp và sản phẩm cứng nhắc
của các đồ án quy hoạch đang tạo ra cản trở lớn cho các nhà đầu
tư. Việc các định hướng phát triển được đặt ra trong các đồ án quy
hoạch cấp trên (quy hoạch chung (QHC), quy hoạch phân khu
(QHPK)) thường ít khi phù hợp với các dự án do các chủ đầu tư đề
xuất, cho thấy khả năng tiếp cận thị trường của đồ án QHĐT hiện
nay bị hạn chế rất cơ bản. Từ đó dẫn đến thực trạng là, để đáp
ứng và thu hút các dự án đầu tư, chính quyền địa phương thường
xuyên phải tiến hành điều chỉnh cục bộ các quy hoạch cấp trên
liên quan (QHC, QHPK) theo một quy trình phức tạp và mất nhiều
thời gian, điều này làm ảnh hưởng lớn đến cơ hội đầu tư và chi phí
chung của doanh nghiệp.
Trước đây, toàn bộ công tác lập QHĐT là thẩm quyền của các cơ
quan nhà nước và chính quyền đô thị. Ngày nay, chính quyền đô
thị chỉ tiến hành lập các quy hoạch chung và quy hoạch phân khu;
các quy hoạch chi tiết (1/500) được phân cấp cho các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, một thực tế đang diễn ra hiện nay là các nhà đầu
tư mong muốn được tham gia sâu hơn vào công tác lập các đồ án
QHĐT, cụ thể là trong việc lập các đồ án cấp cao hơn như QHC
và QHPK, thông qua các hình thức tài trợ kinh phí tổ chức, nghiên
cứu lập đồ án Điều này cho phép cập nhật sớm các nhu cầu
của thị trường và nhà đầu tư ngay trong quá trình nghiên cứu định
hướng của các QHĐT cấp vĩ mô, để hạn chế việc phải điều chỉnh
cục bộ sau này. Tuy nhiên, khung pháp lý cho các hoạt động này
còn chưa rõ ràng khiến cho việc thực hiện bị hạn chế. Thực tế này
một lần nữa cho thấy vai trò đang ngày một rõ ràng hơn của khối tư
nhân trong công tác lập QHĐT và đầu tư PTĐT hiện nay.
Những biến chuyển lớn đó, đặt ra yêu cầu phải đổi mới hệ thống
QHĐT và phương pháp luận quy hoạch hiện tại theo hướng gọn
nhẹ và linh hoạt hơn về quy trình và sản phẩm để đáp ứng các yêu
cầu của nhà đầu tư và thực tiễn phát triển; QHĐT phải chuyển đổi
từ một công cụ phân bổ các nguồn lực theo kế hoạch sang công cụ
PGS.TS.KTS. Lưu đức cườnG* - ThS. KTS. nGuyễn Thành hưnG**
và các cộng sự
Diễn đàn
11SË 100 . 2019
kêu gọi, thu hút các nguồn lực đầu tư phát
triển cho toàn bộ đô thị.
Mặt khác, trong xu thế cải cách hành chính
mạnh mẽ và kiểm soát hiệu quả đầu tư
công hiện nay, Luật Quy hoạch đã ra đời
năm 2017 và đề ra các yêu cầu đổi mới
căn bản cho công tác quy hoạch nói chung
và QHĐT nói riêng, như: Đảm bảo tính liên
tục, tinh gọn của hệ thống quy hoạch, trong
đó quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn
là một trong năm loại hình thuộc hệ thống
quy hoạch quốc gia; Thay đổi phương pháp
quy hoạch đô thị tích hợp các quy hoạch
ngành, lĩnh vực và quy hoạch tổng thể KT-
XH để đảm bảo quản lý, phát triển đồng
bộ; Thống nhất quy định sử dụng đất trong
lĩnh vực tài nguyên môi trường và sử dụng
đất trong quy hoạch đô thị. Ở cấp độ đô thị,
sau khi Luật Quy hoạch có hiệu lực, các
quy hoạch chuyên ngành và quy hoạch
sản phẩm không còn tồn tại, quy hoạch
đô thị trở thành quy hoạch duy nhất dẫn
hướng toàn bộ quá trình phát triển đô thị
cho các thành phố, thị xã, thị trấn. Do vậy,
một yêu cầu tất yếu đề ra là QHĐT phải
được điều chỉnh nội dung để trở thành một
quy hoạch mang tính tổng thể, tích hợp đa
ngành để đủ khả năng định hướng toàn
bộ các mặt phát triển của đô thị. Điều này
đem lại vai trò và vị thế được khẳng định và
nâng cao nhưng đồng thời cũng tạo ra sức
ép phải đổi mới, nâng tầm về mặt nội dung
và chất lượng của QHĐT.
Nhận diện và định hướng đổi mới
một số vấn đề tồn tại trong quy
hoạch và phát triển đô thị hiện nay
Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và
quản lý PTĐT là cả một quá trình với sự
khởi đầu từ đổi mới tư duy nhận thức đến
thay đổi về quy trình, phương pháp và
thể chế thực hiện. Tuy nhiên, để tạo sự
chuyển biến rõ nét, cần ưu tiên tập trung
nghiên cứu đổi mới mười một nhóm vấn
đề thực tiễn đang tạo ra các rào cản trong
quy hoạch và quản lý phát triển đô thị hiện
nay: 1) Quy trình và phương pháp QHĐT;
2) Tính tích hợp trong QHĐT; 3) Cơ sở dữ
liệu đô thị trong quy hoạch-quản lý PTĐT;
4)Kiểm soát phân vùng phát triển; 5) Hệ
thống chỉ tiêu quy hoạch; 6) Kiểm soát
phát triển không gian cao tầng; 7) Quy
hoạch và quản lý phát triển tại khu vực
ven đô; 8) Bảo vệ môi trường và ứng phó
với BĐKH trong QHĐT; 9) Nguồn lực tài
chính trong quy hoạch và PTĐT; 10) Điều
chỉnh quy hoạch và 11) Công tác đào tạo
ngành QHĐT.
1. Quy trình và phương pháp lập
quy hoạch đô thị
Các vấn đề tồn tại
q Về Quy trình quy hoạch
Quy trình QHĐT theo tầng bậc ba bước
hiện nay, gồm: QHC, QHPK và quy hoạch
chi tiết, được cho là còn phức tạp, gây tốn
kém về thời gian và kinh phí lập để phủ kín
quy hoạch. Việc điều chỉnh một quy hoạch
cũng rất phức tạp do phải điều chỉnh đồng
bộ toàn bộ các quy hoạch liên quan.
Bên cạnh đó, quy trình thực hiện một đồ án
QHĐT cũng tồn tại nhiều vấn đề bất cập:
l Quy trình thực hiện để có được giấy phép
đầu tư dự án còn quá dài. Từ lập QHC,
QHPK, quy hoạch chi tiết đến thiết kế đô
thị, lập dự án, thiết kế kỹ thuật, thiết kế
thi công... nên làm mất cơ hội đầu tư. Cần
nghiên cứu rút ngắn quy trình hoặc có
hướng dẫn làm song song các bước.
l Quy trình lập và phê duyệt là rõ ràng
và tạo cơ sở để đồ án quy hoạch đạt chất
lượng tốt và tính khả thi cao, phù hợp với
nhu cầu mục đích sử dụng của cộng đồng.
Tuy nhiên việc thực hiện 02 lần lấy ý kiến
cộng đồng (Bước nhiệm vụ thiết kế và lập
quy hoạch) là rườm rà. Nên rút gọn chỉ tổ
chức lấy ý kiến cộng đồng ở bước lập quy
hoạch nhằm rút ngắn thời gian thực hiện.
l Bất cập trong việc xin ý kiến cộng đồng.
Chưa rõ đối tượng xin ý kiến, hình thức xin ý
kiến. Nên giới hạn đối tượng xin ý kiến ở các
loại QHĐT khác nhau. Thời gian xin ý kiến từ
30-45 ngày đối với QHC là dài. Chỉ nên lấy ý
kiến đến mức độ QHPK. Việc lấy ý kiến cộng
đồng ở giai đoạn lập nhiệm vụ quy hoạch
còn kém hiệu quả, do ở giai đoạn này chưa
có nội dung cụ thể để dân góp ý được. Đối
với các dự án xây dựng mới hoàn toàn trên
các khu đất chuyển đổi từ đất nông nghiệp
chưa có hướng dẫn cụ thể lấy ý kiến cộng
đồng là những đối tượng nào.
l Quy hoạch chi tiết 1/500 không nhất thiết
phải lập nhiệm vụ quy hoạch.
l Quy định các chỉ tiêu quá cứng trong nội
dung lập nhiệm vụ quy hoạch làm bó cứng
nội dung lập quy hoạch.
l Đối với quy hoạch thị trấn, đô thị loại 5
nên lập QHPK thay vì QHC như hiện nay.
l Quy hoạch khu công nghiệp không nhất
thiết phải lập quy hoạch chi tiết 1/500.
l Trong Quy trình lập QHĐT, QHPK khó áp
dụng vào quản lý xây dựng theo quy hoạch
mà phải lập quy hoạch chi tiết 1/500. Hơn
nữa trong đồ án QHC cũng có phân khu nên
không nhất thiết phải lập QHPK mà nên tích
hợp luôn vào đồ án QHC, sau đó lập quy
hoạch chi tiết.
l Trong quy trình QHĐT còn thiếu nội dung
về quy hoạch cây xanh và chiếu sáng cảnh
quan đô thị.
l Điều chỉnh nhiều lần (do đánh giá hiện
trạng chưa tốt, các ý tưởng đưa ra thiếu tính
thực tế, có nhiều thay đổi về kinh tế xã hội...),
mỗi lần điều chỉnh lại làm lại quy trình từ đầu
dẫn đến mất nhiều thời gian và kinh phí. Nên
nghiên cứu xây dựng quy trình điều chỉnh
quy hoạch cho hiệu quả.
q Về Phương pháp lập quy hoạch:
l Phương pháp lập quy hoạch của Việt
Nam còn nhiều khác biệt với phương pháp
lập quy hoạch của các nước trong khu vực,
chủ yếu tính toán quy mô theo sức chứa nên
đã lạc hậu.
l Tính tích hợp với các loại hình quy hoạch
ngành khác còn hạn chế. Việc sử dụng kết
quả của các quy hoạch ngành khác vào
QHĐT còn hạn chế.
l Thiếu các công cụ trong việc đánh giá hiện
trạng và dự báo phát triển.Thiếu tính chiến
lược và toàn diện trong nghiên cứu.
l Tình trạng thường xuyên tại các đô thị Việt
Nam là các loại quy hoạch ngành được thực
hiện song song, do đó việc cập nhật và lồng
ghép trong các loại quy hoạch chưa được
thống nhất. Ví dụ như Quy hoạch sử dụng
đất được lập trên cơ sở Luật Đất đai, QHĐT
được lập trên cơ sở Luật Quy hoạch đô thị
và Luật Xây dựng, dẫn đến các định hướng
chung của 02 loại quy hoạch này thường có
mâu thuẫn (Ví dụ: Quy hoạch đô thị định
hướng 01 tuyến đường, bố trí quỹ đất công
cộng chẳng hạn... Quy hoạch sử dụng đất lại
không định hướng là đất công cộng, hay xác
định mục đích khác...).
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
SË 100 . 201912
l Phương pháp lập quy hoạch mang nhiều
cảm tính, làm theo chủ trương, chỉ đạo,
thiếu công cụ lập quy hoạch mang tính
khoa học, logic.
l Việc lập quy hoạch chỉ đơn thuần về
không gian, sử dụng đất, chưa nghiên cứu
những tác động đến đời sống xã hội nhất là
tầng lớp thu thập thấp. Vì vậy, trong phương
pháp lập quy hoạch cần có đánh giá tác
động xã hội khi đồ án đi vào thực tiễn.
l Kinh tế đô thị chưa được nghiên cứu, tính
toán trong đồ án QHĐT.
l Dự báo phát triển và cấu trúc đô thị là những
nội dung quan trọng của đồ án. Hiện nay việc
dự báo chưa tốt, cấu trúc đô thị chưa được
nghiên cứu sâu. Cần có những hướng dẫn về
kỹ năng, kiến thức về dự báo.
l Các đồ án QHĐT hiện nay được lập còn
thiếu công tác điều tra xã hội học, nhất là
đồ án QHC.
l Việc quy định chặt số người trong khu
vực (thành phố) nhưng chưa kiểm soát chặt
được vấn đề này và trở thành bài toán khó
khăn trong QHĐT. Hàng loạt các vấn đề
liên quan đến dân số cần giải quyết như tắc
đường, cải tạo chung cư cũ, quá tải hạ tầng
xã hội cần một phương pháp mới về lập
quy hoạch mà không phụ thuộc quá nhiều
vào sự biến động của dân số đô thị.
l Vấn đề dự báo thường khác so với thực tế.
Các dữ liệu, số liệu dùng trong nghiên cứu cần
được tổng hợp, phân tích mang tính khoa học.
Việc xác định nguồn lực còn hạn chế, thiếu
luận cứ để xây dựng tài chính quy hoạch.
Định hướng đổi mới
q Rút ngắn quy trình lập quy hoạch:
Quy trình các bước linh hoạt theo từng đô thị:
Thực hiện phương pháp lồng ghép, căn cứ
vào vấn đề cần giải quyết của từng đô thị, yêu
cầu của mỗi đô thị để xây dựng quy trình các
bước lập quy hoạch để giải quyết vấn đề đặt
ra. Như vậy, quy trình các bước triển khai lập
quy hoạch sẽ khác nhau theo từng đô thị gắn
với phương pháp triển khai của đơn vị tư vấn
được lựa chọn. Quy định pháp luật cần quy
định các bước chính phải thực hiện và quy
trình thẩm định cuối cùng đối với sản phẩm
quy hoạch cuối cùng của đồ án để đảm bảo
chất lượng chung.
Quy trình các bước mở và bổ sung để tạo
điều kiện tham gia đầy đủ của các bên liên
quan như: tham vấn chuyên gia, lấy ý kiến
cộng đồng. Quy trình quy hoạch có sự tham
gia sẽ giúp cho việc lựa chọn giải pháp quy
hoạch phù hợp với cộng đồng, nâng cao
khả năng giám sát quy hoạch.
Quy trình lập và thực hiện quy hoạch phù
hợp với bối cảnh xã hội và thể chế, chính
quyền đô thị theo từng giai đoạn. Đổi mới
phương pháp luận QHĐT cần phải dựa trên
hệ thống pháp luật hiện hành, tính khả thi
và đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên
quan, hệ thống thể chế hiện có để đảm
bảo khả thi trong áp dụng quy hoạch và là
cơ sở quan trọng để thực hiện quy hoạch.
l Đối với QHC đô thị: Các đô thị đặc biệt:
Giữ nguyên quy trình cũ; Các đô thị từ loại
I trở xuống: Lồng ghép nội dung QHPK
vào QHC.
l Đối với QHPK: QHPK được lập cho các
khu vực đã được xác định trong QHC,
nhưng có thể không bắt buộc áp dụng với
mọi đô thị và không bắt buộc với mọi khu
vực trong đô thị. Đối với các khu vực hiện
hữu tương đối ổn định về hệ thống đường
giao thông, các khu vực tương đối biệt lập
hoặc các khu vực đã có hoặc đã được định
hướng tương đối rõ về các kết nối về hạ
tầng kỹ thuật, cũng như không gian phát
triển và QHC đã có các định hướng đủ rõ
để quản lý phát triển các khu vực đó thì
có thể triển khai ngay quy hoạch chi tiết.
Nhiệm vụ QHPK cần phân tích rõ lý do và
sự cần thiết lập quy hoạch.
Nếu triển khai ngay quy hoạch chi tiết, thì
trong nội dung quy hoạch cần phân tích và
có các giải pháp đảm bảo sự kết nối của Khu
vực lập quy hoạch chi tiết với các khu vực lân
cận về hạ tầng, cảnh quan - sinh thái, không
gian Nếu trong quá trình xét duyệt quy
hoạch chi tiết, xét thấy các kết nối này không
đủ mạch lạc và không đảm bảo cơ sở pháp lý,
thì cần nghiên cứu bổ sung QHPK bao trùm
lên và mở rộng hơn so với khu vực lập quy
hoạch chi tiết và phê duyệt đồng thời QHPK
và quy hoạch chi tiết, hoặc phê duyệt QHPK
trước, rồi nghiên cứu quy hoạch chi tiết sâu
hơn, sau đó phê duyệt quy hoạch chi tiết.
q Đổi mới nội dung quy hoạch:
l Nội dung QHC đô thị được đề xuất đổi
mới theo hướng quy hoạch tổng thể cấu trúc
chiến lược, trong đó tích hợp các nội dung
trước đây được lập quy hoạch riêng, như:
các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (bao
gồm các ngành: nông - lâm - ngư nghiệp,
du lịch, công nghiệp - TTCN, dịch vụ), định
hướng phát triển giao thông, sử dụng đất,
tài nguyên, môi trường, hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội. Nội dung QHPK được tích hợp
vào QHC đối với các đô thị từ loại I trở xuống.
l QHPK: Thể hiện rõ khung hạ tầng chính
đô thị bao gồm: Khung giao thông chính và
các công trình hạ tầng đầu mối
l Quy hoạch chi tiết có thể lồng ghép nội
dung Thiết kế đô thị.
q Đổi mới sản phẩm QHĐT:
Sản phẩm quy hoạch được bổ sung, điều
chỉnh để phù hợp với quy trình quy hoạch đổi
Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện và các nội dung và sản phẩm chính của QHC đổi mới như sau:
13SË 100 . 2019
mới (tích hợp QHC và QHPK) và nội dung
hợp nhất, đa ngành (Lồng ghép các nội dung
các quy hoạch ngành, lĩnh vực khác):
2. Tính tích hợp trong QHĐT
Các vấn đề tồn tại:
Hệ thống quy hoạch ở Việt Nam trước
năm 2017 gồm ba nhóm:
l Nhóm I: Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội, gồm: (i) Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ; (ii)
Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; (iii)
Quy hoạch sản phẩm.
l Nhóm II: Quy hoạch xây dựng, gồm: (i)
Quy hoạch xây dựng vùng, (ii) Quy hoạch
xây dựng các khu chức năng đặc thù, (iii)
QHĐT, (iv) Quy hoạch xây dựng nông thôn.
l Nhóm III: Quy hoạch sử dụng đất đai, tài
nguyên khoáng sản và quy hoạch bảo vệ
môi trường.
Hệ thống Quy hoạch quốc gia được quy
định tại Điều 5 Luật Quy hoạch 2017 gồm:
1. Quy hoạch cấp quốc gia, gồm: Quy
hoạch tổng thể quốc gia; Quy hoạch không
gian biển quốc gia; Quy hoạch sử dụng đất
quốc gia; Quy hoạch ngành quốc gia;
2. Quy hoạch vùng;
3. Quy hoạch tỉnh;
4. Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn;
5. Quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt.
(1) Hệ thống quy hoạch quốc gia trước năm
2017 còn mang tính phân lập, thiếu sự phối
hợp hài hòa và sự lồng ghép khách quan
giữa các loại quy hoạch nên không phát huy
được tính khá thi, hiệu quả và tác dụng.
(2) Hệ thống quy hoạch quốc gia được thiết
lập theo Luật Quy hoạch 2017 là tiền đề để
xây dựng cơ chế phối hợp giữa các loại quy
hoạch, tạo điều kiện để đổi mới thể chế
QHĐT dựa trên cơ chế phối hợp, lồng ghép
với các loại quy hoạch lãnh thổ và ngành.
(3) Luật Quy hoạch ra đời đã quy định hủy
bỏ quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội và hệ
thống các quy hoạch ngành cấp vùng và
tỉnh, giữ lại và có điều chỉnh hệ thống quy
hoạch ngành cấp quốc gia gồm 39 ngành.
Đây là cơ hội để Nghiên cứu đổi mới công
tác lập QHĐT, trong đó việc tích hợp đa
ngành sẽ bao gồm: (1) QHĐT đảm nhận
nhiệm vụ của quy hoạch tổng thể kinh tế -
xã hội, quy hoạch sử dụng đất và các quy
hoạch ngành cấp địa phương và (2) QHĐT
cụ thể hóa quy hoạch ngành quốc gia theo
quy trình đổi mới, đảm bảo đánh giá được
tổng hợp nhu cầu của các ngành, xác định
được yếu tố nổi trội và lĩnh vực ưu tiên, tạo
được cơ chế tham gia đa ngành để cùng
nhau xây dựng mục tiêu, tầm nhìn, ý tưởng
chung cũng như cam kết thực hiện của các
bên liên quan.
Định hướng đổi mới
Các nguyên tắc phối hợp, lồng ghép giữa
quy hoạch đô thị và quy hoạch ngành
Cập nhật xu hướng phát triển công tác quy
hoạch của thế giới trong nền kinh tế thị
trường theo xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.
Tạo được sự đồng thuận cao.
Phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt
Nam trong thời kỳ chuyển đổi từ một