Đổi mới tổ chức sản xuất và thúc đẩy nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong xây dựng NTM ở vùng Đông Nam Bộ

Đến nay, chặng đường 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM)giai đoạn 2010-2020 đã gần kết thúc.Mục tiêu của chương trình này nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, giúp các địa phương có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội dân chủ, ổn định, giàu bản sắc dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững; giảm nghèo bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Chương trình xây dựng NTM đã được triển khai chính thức trên phạm vi gần 9.000 xã của cả Việt Nam, bằng nguyên tắc phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư nông thôn. Theo kế hoạch, đến hết năm 2020, cả nước có trên 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới theo bộ tiêu chí quốc gia. TừQuyết định số 899, ngày 10/03/2013,của Thủ tướng Chính phủ vềviệc thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng, phê duyệt 6 đề án và 6 giải pháp thực hiện nhằm rà soát và hoàn thiện cơ chế chính sách, đổi mới và phát triển hình thức tổ chức và tăng cường công tác khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Đến ngày 17/4/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 508 về việc hỗ trợ cho ngành nông nghiệp để thực hiện nhanh tiến độ tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Suốt thời gian qua, bên cạnh các cơ chế, chính sách, hướng dẫn từ các Bộ ngành TW thì các tỉnh thành của vùng Đông Nam Bộ cũng đã chủ động ban hành nhiều văn bản, đề án, kế hoạch hành động nhằm triển khai thực hiện đổi mới tổ chức sản xuất nông nghiệp của địa phương. Do đó, nội dung chuyên đề này trước hết mô tả kết quả thực hiện tổng quát về Chương trình xây dựng NTM của vùng Đông Nam Bộ. Sau đó, tập trung phân tích những đổi mới tổ chức sản xuất nông nghiệp, thực trạng thúc đẩy ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao trong suốt thời gian xây dựng NTM. Từ đó, chuyên đề sẽ góp phần cung cấp thông tin, giúp các nhà hoạch định chính sách nhận diện vấn đề trọng tâm, nhằmrút ra bài học kinh nghiệm cho 10 năm thực hiện xây dựng NTM vừa qua, đồng thời định hướng chính sách cho chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTMgiai đoạn tiếp theo.

pdf40 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đổi mới tổ chức sản xuất và thúc đẩy nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong xây dựng NTM ở vùng Đông Nam Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
189 ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP HỒ CHÍ MINH ĐỔI MỚI TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ THÖC ĐẨY NÔNG NGHIỆP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRONG XÂY DỰNG NTM Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ 1. Đặt vấn đề Đến nay, chặng đường 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM)giai đoạn 2010-2020 đã gần kết thúc.Mục tiêu của chương trình này nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, giúp các địa phương có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội dân chủ, ổn định, giàu bản sắc dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững; giảm nghèo bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Chương trình xây dựng NTM đã được triển khai chính thức trên phạm vi gần 9.000 xã của cả Việt Nam, bằng nguyên tắc phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư nông thôn. Theo kế hoạch, đến hết năm 2020, cả nước có trên 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới theo bộ tiêu chí quốc gia. TừQuyết định số 899, ngày 10/03/2013,của Thủ tướng Chính phủ vềviệc thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng, phê duyệt 6 đề án và 6 giải pháp thực hiện nhằm rà soát và hoàn thiện cơ chế chính sách, đổi mới và phát triển hình thức tổ chức và tăng cường công tác khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Đến ngày 17/4/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 508 về việc hỗ trợ cho ngành nông nghiệp để thực hiện nhanh tiến độ tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Suốt thời gian qua, bên cạnh các cơ chế, chính sách, hướng dẫn từ các Bộ ngành TW thì các tỉnh thành của vùng Đông Nam Bộ cũng đã chủ động ban hành nhiều văn bản, đề án, kế hoạch hành động nhằm triển khai thực hiện đổi mới tổ chức sản xuất nông nghiệp của địa phương. Do đó, nội dung chuyên đề này trước hết mô tả kết quả thực hiện tổng quát về Chương trình xây dựng NTM của vùng Đông Nam Bộ. Sau đó, tập trung phân tích những đổi mới tổ chức sản xuất nông nghiệp, thực trạng thúc đẩy ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao trong suốt thời gian xây dựng NTM. Từ đó, chuyên đề sẽ góp phần cung cấp thông tin, giúp các nhà hoạch định chính sách nhận diện vấn đề trọng tâm, nhằmrút ra bài học kinh nghiệm cho 10 năm thực hiện xây dựng NTM vừa qua, đồng thời định hướng chính sách cho chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTMgiai đoạn tiếp theo. 2. Tổng quan về vùng Đông Nam Bộ Đông Nam Bộ là vùng đất tập trung nhiều khu đô thị, là đầu mối giao lưu quan trọng của các tỉnh phía nam với cả nước và quốc tế. Về vị trí địa lý, phía Tây Bắc của vùng Đông Nam Bộ giáp với nước Campuchia, đặc biệt có cửa khẩu lớn ở Tây Ninh tạo mối giao thương với các nước lân cận. Tương tự, phía Nam Tây Nam giáp với vựa lúa lớn của cả nước là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.Phía Đông Đông Nam giáp với biển Đông, nơi có tài nguyên hải sản, dầu mỏ, khí đốt và thuận lợi xây dựng các cảng biển vận chuyển hàng hóa. Cuối cùng, phía Bắc và Đông Bắc của vùng Đông 190 Nam Bộ giáp với tỉnh của vùng Tây nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ, vùng này có tài nguyên đất đai, rừng và khoáng sản. Bản 1. Diện tích sử dụn đất tại các tỉnh của vùn Đ n Nam Bộ (tính đến 31/12/2017) ĐVT: Nghìn ha Địa điểm (Tỉnh/thành/vùng) Tổng diện tích đất Đất sản xuất nông nghiệp Đất lâm nghiệp Đất chuyên dùng Đất ở 1.Bình Phước 687,68 445,71 172,78 46,41 6,53 2.Tây Ninh 440,13 270,64 71,95 24,23 9,13 3.Bình Dương 269,46 195,22 10,54 36,88 13,47 4.Đồng Nai 589,78 277,28 181,84 48,42 17,68 5.Bà Rịa - Vũng Tàu 198,10 105,16 33,79 33,12 7,13 6.TP.Hồ Chí Minh 209,54 66,00 35,68 34,49 28,17 Vùng Đông Nam Bộ 2.394,68 1.360,01 506,59 223,54 82,12 Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, 2018 Vùng Đông Nam Bộ có 6 đơn vị tỉnh thành, gồm tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Theo tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 31/12/2017, toàn vùng Đông Nam Bộ có 5 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận, 8 thị xã, 40 huyện, 374 phường, 33 thị trấn và 465 xã. Đông Nam Bộ nằm trên vùng bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến Đồng bằng sông Cửu Long.Địa hình thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp đô thị và giao thông vận tải.Về hiện trạng sử dụng đất, theo số liệu tổng hợp từ niên giám thống kê 2018 của các tỉnh, tính đến ngày 31/12/2017, vùng Đông Nam Bộ có diện tích tự nhiên 2.394,68 nghìn ha chiếm gần 7% tổng diện tích đất cả nước. Trong phạm vi của vùng Đông Nam Bộ, đất dành cho sản xuất nông nghiệp là 1.361,01 nghìn ha (chiếm 56,8%), đất lâm nghiệp là 506,59 nghìn ha (chiếm 21,2%), đất chuyên dùng là 223,54 nghìn ha (chiếm 9,4%) và đất ở là 82,12 nghìn ha (chiếm 3,4%).Trong vùng Đông Nam Bộ, tỉnh Bình Phước và Đồng Nai có diện tích đất tự nhiên, đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất chuyên dùng lớn nhất vùng. Ngược lại, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Mính là hai địa phương có diện tích đất tự nhiên và đất sản xuất nông nghiệp nhỏ nhất khu vực. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đô thị lớn nên diện tích đất ở là 28,17 nghìn ha, cao nhất khu vực Đông Nam Bộ, chiếm tỷ lệ 13,4% diện tích toàn thành phố. 191 Bảng 2. Khí hậu và dân số của vùng Đông Nam Bộ (Số liệu thống kê năm 2017) Tỉnh/thành/ vùng Nhiệt độ bình quân năm (oC) Số giờ nắng (giờ) Lượng mưa (mm) Độ ẩm không khí (%) Dân số trung bình (nghìn người) Mật độ dân số (người/km2) 1.Bình Phước 27,20 2.434 2.537 77,70 969 141 2.Tây Ninh 28,10 2.415 2.140 80,00 1.126 279 3.Bình Dương 27,83 2.206 2.454 88,83 2.071 769 4.Đồng Nai 26,30 2.164 2.263 83,00 3.027 513 5.Bà Rịa - Vũng Tàu 27,97 2.571 1.738 78,33 1.102 556 6.TP.Hồ Chí Minh 28,50 2.073 2.738 74,00 8.643 4.126 Vùng Đông Nam Bộ 27,65 2.311 2.312 80,31 16.938 707 Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, 2018 Vùng Đông Nam Bộ có khí hậu cận xích đạo, tổng lượng bức xạ cao và ổn định, nhiệt độ cao đều quanh năm với mức bình quân là 27,65oC, số giờ nắng là 2.311 giờ/năm, độ ẩm không khí là 80,31% và lượng mưa 2.312 mm/năm. Điểm hạn chế trong chế độ mưa là lượng mưa phân bố không đều trong năm, các tháng mùa mưa thường có những cơn mưa tập trung, cường độ lớn gây xói mòn, rửa trôi và bạc màu đất ở những vùng có địa hình cao và gây ngập úng ở vùng có địa hình thấp. Ngược lại, vào mùa khô, nguồn nước khan hiếm, gây hạn hán, nếu nơi nào không có thủy lợi thì sẽ thiếu nước sản xuất nông nghiệp. Tính đến ngày 31/12/2017, dân số toàn vùng Đông Nam Bộ gần 16,94 triệu người. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là nơi đông dân nhất với số lượng là 8,64 triệu người, chiếm 51% tổng dân số cả vùng Đông Nam Bộ. Tiếp theo, tỉnh Đồng Nai có dân số là 3,03triệu người (chiếm 18% tổng dân số cả vùng), tỉnh Bình Dương là 2,07 triệu người (chiếm 12% tổng dân số cả vùng), riêng tỉnh Bình Phước thì có số lượng dân số ít nhất, chỉ chiếm khoảng 6% dân số cả vùng. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đô thị lớn của cả nước nên mật độ dân số lên đến 4.126 người/km2.Mật độ dân số của thành phố Hồ Chí Minh cao hơn từ 5 - 8 lần so với các tỉnh Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và Đồng Nai, cao hơn 15 lần so với Tây Ninh và cao hơn 29 lần so với tỉnh Bình Phước. Năm 2002, vùng Đông Nam Bộ có thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành là 667 nghìn đồng/người/năm. Nếu lấy năm 2002 làm gốc, đến năm 2012, chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người này của vùng Đông Nam Bộ tăng gần 5 lần và đến năm 2016 thì tăng gấp 7 lần. Nhìn chung, giai đoạn 2002-2016, thu nhập bình quân đầu người của vùng Đông Nam Bộ cao hơn 1,6 lần nếu so với cả nước. Vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, cụ thể năm 2002 là 8,2%, năm 2012 là 1,3% và đến hết năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 0,6%. Nếu so sánh với cả nước thì vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn gần 5 lần. 192 Bảng 3. Thu nhập đầu ngƣời và tỷ lệ hộ nghèo vùng Đông Nam Bộ (Số liệu tính đến 31/12/2017) Tiêu chí Năm 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016 1.Thu nhập (Nghìn đ/người) +Cả nước 356 484 636 995 1.387 2.000 2.637 3.098 +Đông Nam Bộ 667 893 1.146 1.773 2.304 3.173 4.125 4.662 2.Tỷ lệ hộ ngh o (%) +Cả nước 28,9 18,1 15,5 13,4 14,2 11,1 8,4 5,8 +Đông Nam Bộ 8,2 4,6 3,1 2,5 2,3 1,3 1,0 0,6 Nguồn: Tổng cục thống kê Bảng 4. Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá hiện hành tại vùng Đông Nam Bộ, năm 2017 Tiêu chí Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP Nông, lâm, thủy sản Công nghiệp và XD Dịch vụ Thuế SP trừ trợ cấp SP a. GRDP (tỷ đồng) 1.Bình Phước 51.405 13.417 18.513 17.866 1.609 2.Tây Ninh 64.043 15.967 24.239 21.249 2.588 3.Bình Dương 247.989 9.293 158.188 58.513 21.995 4.Đồng Nai 279.646 24.793 166.854 63.408 24.591 5.Bà Rịa - Vũng Tàu 274.845 14.161 204.830 38.115 17.739 6.TP.Hồ Chí Minh 1.060.618 8.589 262.772 618.773 170.534 Đông Nam Bộ 1.978.547 86.220 835.396 817.924 239.056 b.Cơ cấu giá trị (%) 1.Bình Phước 100 26,10 36,01 34,75 3,13 2.Tây Ninh 100 24,93 37,85 33,18 4,04 3.Bình Dương 100 3,75 63,79 23,59 8,87 4.Đồng Nai 100 8,87 59,67 22,67 8,79 5.Bà Rịa - Vũng Tàu 100 5,15 74,53 13,87 6,45 6.TP.Hồ Chí Minh 100 0,81 24,78 58,34 16,08 Đông Nam Bộ 100 4,36 42,22 41,34 12,08 Nguồn: Niên giám thống kê 193 Tính đến 31/12/2017, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP31) của cả năm 2017 của vùng Đông Nam Bộ là 1.987.330 tỷ đồng. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất, chiếm 54% tổng giá trị của cả vùng; thấp nhất là tỉnh Bình Phước và Tây Ninh, lần lượt chiếm tỷ lệ 2,6% và 3,2% tổng giá trị vùng Đông Nam Bộ. Xét về cơ cấu giá trị tổng sản phẩm, vùng Đông Nam Bộ có sự đóng góp chủ yếu từ ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ, chiếm tỷ lệ trên 83,5%. Riêng lĩnh vực nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đô thị nên đóng góp của nông, lâm, ngư nghiệp chỉ 0,81% tổng sản phẩm toàn thành. Còn tỉnh Bình Phước và Tây Ninh, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp đóng góp khoảng ¼ tổng sản phẩm trên địa bàn. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của các tỉnh vùng Đông Nam Bộ phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp và trung tâm thương mại đô thị. Ngay cả tỉnh Đồng Nai có ngành nông nghiệp phát triển hàng đầu của cả nước thì tỷ lệ đóng góp của ngành này cũng chỉ 8,87% tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh. Một khía cạnh khác, nếu tính GRDP theo giá so sánh 2010 thì tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP năm 2017 của tỉnh Bình Dương tăng 9,15% so với năm 2016, tỉnh Đồng Nai 7,65%, tỉnh Tây Ninh là 7,91%, thành phố Hồ Chí Minh là 8,25% và Bình Phước là 8,14%. Riêng tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thì tăng trưởng âm 4,02 (do sự sụt giảm giá trị tổng sản phẩm công nghiệp và xây dựng). 3. Tổng quan về chính sách và thể chế xây dựng NTM tại Việt Nam và vùng Đông Nam Bộ Theo nghiên cứu của Bùi Quang Dũng và cộng sự (2015), Nghị quyết 26 tại Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gọi tắt là Nghị quyết 26) ngày 5 tháng 8 năm 2008 được xem là khởi đầu cho Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình hình thành tư tưởng xây dựng nông thôn mới đã có manh nha ở nhiều cuộc họp và văn bản chính sách trước đó.Nghị quyết số 41-NQ/TW năm 1981, tư tưởng về nông thôn mới là cải tạo quan hệ sản xuất cũ, đem quan hệ sản xuất mới vào nông thôn kết hợp với nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân. Giai đoạn này, nông thôn mới tuy được nhắc tới nhưng còn chung chung, chưa rõ về nội hàm khái niệm. Các năm tiếp theo, thuật ngữ về nông thôn mới rất ít được nhắc đến, thậm chí ngay cả đại hội đổi mới 1986, cụm từ nông thôn mới cũng không thấy xuất hiện trong các văn kiện. Đến năm 1988, nghị quyết 10-NQ/TW (khoán 10) đã có đề cập đến xây dựng nông thôn mới. Từ 2001-2005, Ban kinh tế Trung ương và Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo, thí điểm phát triển nông thôn cho 18 xã điểm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa và dân chủ hóa. Từ năm 2006-2009, Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo, thí điểm xây dựng nông thôn mới cho 19 thôn bản dựa theo Nghị quyết 26. Giai đoạn 2009-2011, thí điểm cho 11 xã điểm xây dựng nông thôn mới thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo bộ tiêu chí NTM (QĐ 491/QĐ-TTg). Từ năm 2010-2020, đây là giai đoạn triển khai chính thức xây dựng nông thôn, triển khai trên phạm vi toàn quốc. Ở giai đoạn đầu khi triển khai chính thức, việc xây dựng NTM dựa theo Bộ tiêu chí của Quyết định số 800/QĐ-TTg. Đến tháng 8/2016, Quyết định số 1600/QĐ-TTg được Thủ tướng phê duyệt, theo đó cả 31 GRDP (Gross Regional Domestic Product): Tổng cục Thống kê hướng dẫn và khái niệm như sau: GRDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của tất cả các đơn vị thường trú trong nền kinh tế của tỉnh trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm); chỉ tiêu này phản ánh các mối quan hệ trong quá trình sản xuất, phân phối thu nhập, sử dụng cuối cùng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế địa phương. 194 nước áp dụng theo Bộ tiêu chí mới, thay thế cho Bộ tiêu chí cũ của Quyết định số 800/QĐ-TTg. Các chính sách dành cho chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn của Việt Nam là thật sự rõ nhưng lại rất nhiều. Về thể chế bộ máy thực hiện, Việt Nam đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng NTM các cấp, từ Trung ương đến tỉnh thành, cấp huyện và cấp xã. Dưới cấp xã, có Ban phát triển NTM thôn/ấp và sự tham gia của cộng đồng. Riêng vùng Đông Nam Bộ, từ khi có chỉ đạo từ Trung ương, các tỉnh/thành trong vùng đã ban hành nhiều văn bản thực hiện xây dựng NTM. Cụ thể ở thành phố Hồ Chí Minh, chỉ trong giai đoạn 2010-2015, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành 3 Nghị quyết Đảng bộ nhằm đưa chương trình xây dựng NTM là 1 trong 18 chỉ tiêu chủ yếu của thành phố, 1 chỉ thị, 2 chương trình, 6 quyết định và 3 văn bản kết luận liên quan đến nông thôn mới. Hội đồng nhân dân thành phố HCM đã ban hành 2 nghị quyết. Chủ tịch và phó chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành trên 40 quyết định. Ngoài ra, có trên 37 công văn, thông báo và kế hoạch do thành ủy và UBND thành phố ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện xây dựng nông thôn mới. Giai đoạn từ 2016-2020, thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản liên quan, trong đó đáng chú ý đó là Quyết định 6183/QĐ-UBND về phê duyệt đề án nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn và Quyết định 5039/QĐ-UBND về việc bố sung bộ tiêu chí theo đặc thù vùng nông thôn thành phố Hồ Chí Minh. Ở Đồng Nai, theo báo cáo tổng kết 5 năm NTM, giai đoạn 2010-2015, tỉnh đã ban thành 55 văn bản về cơ chế chính sách, trên 300 văn bản chỉ đạo và điều hành. Theo đó, tỉnh đã xây dựng bộ tiêu chí nông thôn mới có 59 chỉ tiêu dành riêng cho Đồng Nai (so với TW có 39 chỉ tiêu), và đồng thời tỉnh cũng đã ban hành bộ tiêu chí nâng cao để các xã đạt chuẩn nông thôn mới làm cơ sở trong việc tiếp tục thúc đẩy phong trào xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, tỉnh Đồng Nai còn tổ chức thực hiện việc soạn thảo và biên tập nhiều chuyên đề tập huấn và đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn mới. Đến giai đoạn 2016-2020, tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số 2962, Quyết định số 4466, Kế hoạch số 4358, để triển khai thực hiện NTM. Ngoài ra, tỉnh Đồng Nai còn ban hành nhiều nghị quyết, văn bản hướng dẫn cho chương trình mục tiêu quốc gia này. Tương tự, trong các báo cáo tổng kết liên quan đến NTM của các tỉnh còn lại như Tây Ninh, Bình Dương Bà Rịa Vũng Tàu và Bình Phước, nhiều văn bản, các chính sách và thể chế cho việc xây dựng nông thôn mới đã được các địa phương này ban hành. Do đó, chuyên đề này không liệt kê chi tiết các cơ chế chính sách cụ thể. Nếu có sự khác biệt đó chính là các cơ chế chính sách đặc thù, ví dụ như thành phố Hồ Chí Minh có những cơ chế đặc thù, tiên phong trong cách mạng công nghiệp 4.0. Trong quá trình thực hiện, Ban chỉ đạo nông thôn mới của các tỉnh thành vùng Đông Nam Bộ đã có sự phân công, quy định rõ trách nhiệm, duy trì các cuộc họp định kỳ cũng như đột xuất, tổ chức phối hợp nhiệm vụ với các Sở, Ban ngành và với địa phương. Ngoài ra, tất cả các tỉnh thành đều huy động cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng NTM, tuyên truyền và vận động người dân tham gia. 4. Đánh giá kết quảthực hiện Chƣơng trình MTQG xây dựng NTM ở vùng Đông Nam Bộ 4.1 Kết quả thực hiện ây dựn NTM, iai đoạn 2010-2018 Xây dựng NTM, giai đoạn 2010-2020, là một chương trình phát triển nông thôn toàn diện, tác động đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau ở khu vực nông thôn, được triển khai trên phạm vi toàn quốc, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. 195 Sau gần 10 năm triển khai, chương trình đã mang lại những chuyển biến mạnh mẽ diện mạo nông thôn, phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân ở khu vực nông thôn.Đến thời điểm thực hiện chuyên đề này, ngoại trừ tỉnh Bình Dương chưa tập hợp xong số liệu thống kê kết quả xây dựng NTM, thì đã có 5/6 tỉnh thành còn lại của vùng Đông Nam Bộ đã hoàn tất sơ bộ các số liệu tổng kết NTM mới32. Kết quả được trình bày ở bảng 5 bên dưới được tính đến thời điểm 31/12/2017. Hình 1.Tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM tại các tỉnh thành vùng Đông Nam Bộ, (31/12/2018) Nguồn: Tổng hợp số liệu của VPĐPNTM các tỉnh Đông Nam Bộ Tỉnh Bình Phước có 90 xã thực hiện xây dựng nông thôn mới, số tiêu chí đạt chuẩn bình quân xã là 14,5, số xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt cả 19 tiêu chí) là 35 xã, 100% số xã đạt được tiêu chí số 1 “Quy hoạch” và tiêu chí số 8 “Thông tin truyền thông”, trong khi đó, tiêu chí 2 “Giao thông và tiêu chí 5 “Trường học” thì chỉ có 36/90 xã đạt được, chiếm tỷ lệ 40% tổng số xã thực hiện xây dựng nông thôn mới. Các tỉnh còn lại của vùng Đông Nam Bộ có thể được giải thích tương tự, tuy nhiên có điểm đặc biệt xếp hạng nhất là tỉnh Đồng Nai, 133/133 xã ở tỉnh Đồng Nai đã đạt chuẩn nông thôn mới; tiếp đến xếp hạng nhì là thành phố Hồ Chí Minh, vì thành phố này chỉ còn 2/56 xã là chưa đạt chuẩn. Bảng 5. Kết quả thực hiện xây dựng NTM vùng Đông Nam Bộ (31/12/2018) Chỉ tiêu ĐVT Bình Phước Tây Ninh Đồng Nai BRVT TP. HCM 1.Tổng số xã Xã 90 80 133 45 56 2.Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân/xã Tiêu chí 14,5 14,9 19 15,7 18,9 3.Số xã đạt theo số lượng tiêu chí - Số xã đạt 19 tiêu chí (đạt chuẩn NTM) Xã 35 36 133 27 54 - Số xã đạt 15-18 tiêu chí Xã -na- 8 0 4 2 32 Nhóm thực hiện chuyên đề, Đại học Nông Lâm Tp.HCM, đã liên lạc với VPĐPNTM tỉnh Bình Dương vào thời điểm tháng 04 – 05/2019. Các số liệu tổng kết thực hiện NTM tại tỉnh Bình Dương đang còn trong giai đoạn tập hợp, chưa hoàn thành xong. Vì vậy, thông tin tổng kết của tỉnh này còn khuyết, nên chuyên đề chưa phản ánh đầy đủ tất cả 6 tỉnh thành của vùng Đông Nam Bộ. 39% 45% 60% 96% 100% 71% Bình Phước (35/90 xã) Tây Ninh (36/80 xã) BRVT (27/45 xã) HCM (54/56 xã) Đồng Nai (133/133 xã) Vùng Đông Nam Bộ (Không kể Bình Dương) 196 - Số xã đạt 10-14 tiêu chí Xã -na- 29 0 5 0 - Số xã đạt 5-9 tiêu chí Xã -na- 7 0 9 0 - Số xã đạt dưới 5 tiêu chí Xã -na- 0 0 0 0 4.Số xã đạt theo từng tiêu chí - Tiêu chí 1: Quy hoạch Xã 90 80 133 45 56 - Tiêu chí 2: Giao thông Xã 36 42 133 30 56 - Tiêu chí 3: Thủy lợi Xã 89 74 133 40 56 - Tiêu chí 4: Điện Xã 76 80 133 33 56 - Tiêu chí 5: Trường học Xã 36 42 133 38 56 - Tiêu chí 6: Cơ sở vật chất văn hóa Xã 56 42 133 30 56 - Tiêu chí 7: CSHT thương mại nông thôn Xã 79 69 133 39 56 - Tiêu chí 8: Thông tin và truyền thông Xã 90 80 133 42 56 - Tiêu chí 9: Nhà ở dân cư Xã 60 73 133 38 54 - Tiêu chí 10: Thu nhập Xã 61 66 133 32 56 - Tiêu chí 11: Hộ nghèo Xã 70 65 133 37 56 - Tiêu chí 12: Lao độn