Động cơ phạm tội của kẻ phạm tội

Trong những năm gần đây, chỉ tính riêng ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều vụ án lớn như ”Năm Cam”, “Khánh Trắng”, “Lã Thị Kim Oanh”, hay gần nhất là vụ cá độ bóng đá ”PMU 18” năm qua gây xôn xao dư luận, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, đời sống xã hội, nền chính trị, bộ máy chính quyền quốc gia Cùng với nền kinh tế thị trường và sự toàn cầu hoá về mọi măt đời sống xã hội, tình hình tội phạm ở Việt Nam và trên thế giới ngày càng gia tăng phức tạp. Đặc biệt một vấn đề đáng quan tâm hơn và lo ngại là sự tham gia vao việc phạm tội do trẻ vị thành niên thực hiên không ngừng tăng, tính chất và mức độ phạm tội cũng rất nghiêm trọng như tham gia vào việc buôn bán ma túy, hay giết người, cướp của, mại dâm, hút, chích Tội phạm vị thành niên hiện nay đang cảnh báo cho các gia đình, cho các bậc cha mẹ và cộng đồng xã hội về vấn đề giáo dục, nuôi dưỡng và chăm lo các em Tình trạng trên luôn đặt ra câu hỏi: Tội phạm bắt nguồn từ đâu? tại sao lại gia tăng? động cơ nào – nguyên nhân thúc đẩy con người phạm tội mà không sợ sự trừng phạt của pháp luật, của xã hội loại người? Nghiên cứu động cơ phạm tội là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong cả công tác phòng chống cũng như việc bắt, xét xử tội phạm. Cụ thể hơn khi làm rõ đựơc động cơ phạm tội thì giúp ta hiểu rõ: - Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. - Dự báo được khả năng tái phạm tội của tội phạm. - Xác đinh được khung hình phạt hoặc tăng nặng hoặc giảm nhẹ tội - Trong quá trình truy bắt, giúp cán bộ điều tra, truy bắt định hướng được hành động, vạch kế hoạch và tránh được phần nào rủi ro, nguy hiểm Và vì thế tôi quyết định chọn đề tài “Động cơ phạm tội của kẻ phạm tội” làm đề tài niên luận của mình.

doc27 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2169 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Động cơ phạm tội của kẻ phạm tội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài niên luận này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ từ rất nhiều phía. Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các Thầy Cô, Chi uỷ Khoa tâm lý học đã truyền đạt tri thức trong suốt thời gian tôi học tập nghiên cứu tại Khoa. Đặc biệt tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới Thầy giáo - PGS. TS Nguyễn Hồi Loan - người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành bản niên luận này. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, những người đã cùng tôi thực hiện bản niên luận và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Trong niên luận của tôi chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sói và hạn chế vì vậy tôi mong nhận được sự đóng góp của Thầy Cô, gia đình cùng toàn thể các bạn sinh viên. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày 16 tháng 01 năm 2007 Sinh viên thực hiện Ngô Thị Thuận Mục lục Mục lục Phần I: Những vấn đề chung I. Lí do chọn đề tài II. Đối tượng nghiên cứu III. Mục đích nghiên cứu IV. Nhiệm vụ nghiên cứu Phần II: Nghiên cứu nội dung I. Hệ thống các khái niệm 1. 1. Khái niệm động cơ 1. 2. Khái niệm 1. 3. Kẻ phạm tội hay người phạm tội 1. 4. Động cơ phạm tội 1. 5. Mối quan hệ giữa động cơ phạm tội, tội phạm và kẻ phạm tội II. Một số vấn đề về động cơ phạm tội 2. 1. Nguồn gốc và sự hình thành động cơ phạm tội – Khuynh hướng chống xã hội 2. 2. Phân loại động cơ phạm tội 2. 3. Các động cơ phạm tội của tội phạm kinh tế (ở Việt Nam) III. Quan điểm đúng đắn về động cơ phạm tội Tài liệu tham khảo Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. Lí do chọn đề tài: Trong những năm gần đây, chỉ tính riêng ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều vụ án lớn như ”Năm Cam”, “Khánh Trắng”, “Lã Thị Kim Oanh”,… hay gần nhất là vụ cá độ bóng đá ”PMU 18” năm qua gây xôn xao dư luận, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, đời sống xã hội, nền chính trị, bộ máy chính quyền quốc gia… Cùng với nền kinh tế thị trường và sự toàn cầu hoá về mọi măt đời sống xã hội, tình hình tội phạm ở Việt Nam và trên thế giới ngày càng gia tăng phức tạp. Đặc biệt một vấn đề đáng quan tâm hơn và lo ngại là sự tham gia vao việc phạm tội do trẻ vị thành niên thực hiên không ngừng tăng, tính chất và mức độ phạm tội cũng rất nghiêm trọng như tham gia vào việc buôn bán ma túy, hay giết người, cướp của, mại dâm, hút, chích…Tội phạm vị thành niên hiện nay đang cảnh báo cho các gia đình, cho các bậc cha mẹ và cộng đồng xã hội về vấn đề giáo dục, nuôi dưỡng và chăm lo các em… Tình trạng trên luôn đặt ra câu hỏi: Tội phạm bắt nguồn từ đâu? tại sao lại gia tăng? động cơ nào – nguyên nhân thúc đẩy con người phạm tội mà không sợ sự trừng phạt của pháp luật, của xã hội loại người? Nghiên cứu động cơ phạm tội là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong cả công tác phòng chống cũng như việc bắt, xét xử tội phạm. Cụ thể hơn khi làm rõ đựơc động cơ phạm tội thì giúp ta hiểu rõ: - Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. - Dự báo được khả năng tái phạm tội của tội phạm. - Xác đinh được khung hình phạt hoặc tăng nặng hoặc giảm nhẹ tội - Trong quá trình truy bắt, giúp cán bộ điều tra, truy bắt định hướng được hành động, vạch kế hoạch và tránh được phần nào rủi ro, nguy hiểm… Và vì thế tôi quyết định chọn đề tài “Động cơ phạm tội của kẻ phạm tội” làm đề tài niên luận của mình. II. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là động cơ phạm tội của người thực hiện hành vi phạm tội. III. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu động cơ phạm tội của tội phạm nhằm phát hiên ra ngườn gốc hay là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của kẻ phạm tội. Động cơ (nguyên nhân) ấy do đâu, việc hình thành động cơ như thế nào? Thông qua đó giúp cho công tác phòng chống, ngăn ngừa tội phạm, giải thích được chính xác hành vi phạm tội để giúp toà án đinh tội đúng mức giúp cho quá trình truy bắt tội phạm dễ dàng hơn. IV. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ cảu đề tài này là chỉ dừng lại ở mặt lý luận nên cân làm được những vấn đề: - Hệ thống khái niệm về động cơ và những khái niệm liên quan. - Chỉ ra được nguồn gốc của động cơ phạm tội. - Phân loại động cơ phạm tội. - Nêu được quá trình hình thành ( yếu tố cấu thành) động cơ phạm tội. Đi sâu phân tích một động cơ phạm tội cụ thể. Phần II: NGHIÊN CỨU NỘI DUNG I. Hệ thống các khái niệm 1. 1. Khái niệm động cơ: Đã có rất nhiều các quan niệm khác nhau về động cơ thông qua các lý thuyết của các tác giả khác nhau. Việc nghiên cứu về động cơ liên quan đến nhiều mặt của dời sống con người mà được thể hiện trong hoạt động như lao động, ứng xử trong các mối quan hệ, trong các hoạt động chủ đậo của con người … Cách tiếp cận mang tính nhân văn với động cơ của Maslow, ông đưa ra một hệ thứ bạcc những nhu cầu được sắp xếp từ các nhu cầu sinh tồn cơ bản nhất đến những nhu cầu mang tính người hơn như các nhu cầu mang tính nhận thức, xã hội, thẩm mỹ…Những động cơ đặ biệt của con người đã được nhận diện bằng các kỹ thuật phóng chiếu trong đó các đối tượng phóng chiếu những nhu cầu của mình lên các bức tranh. Như vậy theo maslow thì động cơ được hiểu như là nhu cầu, động cơ cũng mang tính thứ bậc, có cả động cơ thuần tuý sinh học và động cơ mang tính văn hoá - xã hội – tính người… Theo Leonchive ( nhà TLH Xô Viết) khi bàn tới cấu trúc của hoật đông ông cho rằng: Cấu trúc vĩ mô của hoạt động bao gồm 6 thành tố, 3 thành tố là hoạt động – hành động – thao tác thuộc về phái chủ thể, chúng tạo nên nội dung đối tượng của hoạt động. Điều này có nghĩa rằng động cơ chỉ xuất hiện trong hoạt động và nó nằm trong bản thân của khách thể hoạt động. Cũng theo ông, hoạt động luôn hướng vào động cơ ( nằm trong đối tượng), đó là mục đích chung, mục đích cúoi cùng của hoạt động. Mục đích chung là động cơ) được cụ thể bằng những mục đích cụ thể, mục đích bộ phận mà từng hoạt động hướng vào. (Tâm lý học đại cương tr 48). Vd: Nột tổ đuổi thú, tổ khác bắt thú, sau đó làm thức ăn, quần áo… cả 2 tổ làm công việc đó để cuối cùng có thức ăn, áo mặc, tức là chiếm đựơc cái cụ thể hoá nhu cầu của họ - đó chính là động cơ hoạt động của họ. Động cơ đó quy định cái mà những người đi săn trực tiếp hướng hoạt đọng của mình vào. động cơ, mục đích được xem là đối tượng bên ngoài chứa đựng trong bản thân chúng khả năng đáp ứng, làm thoả mãn nhu cầu. ” Không phải nhu cầu, không phải sự trải nghiệm của nhu cầu ấy là động cơ của hoạt động, mà động cơ là một cái khách quan mà trong đo nhu cầu tìm thấy bản thân mình trong những điều kiện nhất định” ( Leonchive) Như đã trình bày, ta thấy rằng khi nói đến động cơ là phải xét đến hoạt động. Động cơ là tiền đề, điều kiện đầy đủ nhất của hoạt động. Không có động cơ sẽ không có hoạt động của con người. Động cơ đóng vai trò thúc đẩy, duy trì hoạt động, động cơ là mục đích cuối cùng của hoạt động, nó nằm ở bên ngoài, thuộc về khách thể ( đối tượng) của hoạt động tội phạm. 1. 2. Khái niệm tội phạm Tội phạm là một khái niệm do bộ luật hình sự quy định, nó mang tính lịch sử văn hoá, gia cấp… sẽ không hiểu được bản chất, tính chất và nguyên nhân tội phạm nến như bỏ qua bản chất giai cấp và bản chất xã hội của tội phạm. Trong xã hội nguyên thuỷ không có tội phạm không có pháp luật. ”Trong một bộ lạc – Anghen viết- vẫn còn chưa có sự khác biệt nào giữa quyền và nghĩa vụ. Tội phạm và các hành vi phạm pháp khác chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp tức có sự phân chia quyền lực, sự mâu thuẫn về lợi ích mà đặt lên hàng đầu là lợi ích về kinh tế. Tất nhiên trước khi phát sinh giai cấp, trong xẫ hội cũng xảy ra những vi phạm phong tục, song các vi phạm này không có tính quần chúng rộng rãi và không cần phải lập ra những cơ quan đặc biệt để đấu tranh với các vi phạm đó. Các cơ quan đặc biệt như Toà án, công an, kiểm sát chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước. Tội phạm và các vi phạm pháp luật bắt đầu bị kiềm chế bởi pháp luật và những ai vi phạm pháp luật phải chịu thu nhập theo pháp luật. “Đặc điểm giai cấp của các hiện tượng này được lưu truyền đến ngày nay. Trong xã hội tư bản các van bản pháp luật phản ánh quyền lợi của giai cấp bóc lột – giai cấp tư sản. Chúng là chỗ dụă cho sự bất công xã hội: sự bóc lột người, sự bất bình đẳng của công dân về quyền lợi, tài sản, xã hội, chủng tộc, dân tộc. pháp luật tư sản coi những người lao động đấu tranh về quyền lợi của mình, vì nền dân chủ xã hội là những kẻ phạm tội, vi phạm pháp luật (Theo Nguyễn Xuân Yêm – tr 22 – Tội phạm học hiện đại và phòng chống tội phạm). Còn ở chế độ XHCN, nhà nước là của dân, do dân lập ra và hoạt động vì dân. Pháp luật được lập ra để bảo vệ quyền lợi của nhân dân về mọi mặt kinh tế – xã hội, tinh thần. Pháp luật phản ánh quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Vụ vi phạm pháp luật và tội phạm chỉ khi động chạm, gây thiệt hại về quyền lợi cho nhân dân. Rõ ràng tội phạm và sự vi phạm pháp luật mang tính tiêu cực, nguy hiểm cho xã hội. Nó có tính xã hội, chống lại xã hội Sự phạm tội nói chung được xem như là một nhân tố cản trở sự vận động và phát triển xã hội. Không thể loại trừ chúng bằng một biện pháp nào đó và trong một thời gian ngắn. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về tội phạm trên cơ sở những góc độ nghiên cứu khác nhau. Theo tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm: Tội phạm - đó là hành vi của con người có nhận thức. Người gây ra chúng phải đạt đến một đọ tuổi nhất định (thường là 16, nhưng trong một số trường hợp là 14 tuổi). Tội phạm gây ra những thiệt hại cho quyền lợi của cá nhân và xã hội, gây thiệt hại cho toàn thể xã hội XHCN. Sự thiệt hại này có thể là thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần. Hậu quả pháp luật của tội phạm là hình phạt được xác định rõ với rừng loại tội phạm trong bộ luật hình sự. Như vậy, Tội phạm ở các thời kỳ lịch sử khác nhau, chế độ khác nhau đều được xem là biểu hiện xấu của tinh thần, là hành vi có ý thức và ngoan cố chống lại pháp luật đi ngược lại với hệ thống giá xã hội và chống lại xã hội. Tội phạm là biểu hiện của sự điều chỉnh xã hội không điển hình. 1. 3. Kẻ phạm tội hay người phạm tội. Nói đến động cơ phạm tội, tội phạm (hay hành vi phạm tội) phải đề cập đến kẻ phạm tội (hay người phạm tội) bởi họ là người trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Hơn nữa tội phạm là hành vi có ý thức, có ý chí nhằm chống lại xã hội thì không thể có ở động vật mà chỉ có ở con người. Theo tâm lý học pháp lý của tác giả Nguyễn Hôì Loan và Đặng Thanh Nga” Người phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự đạt đọ tuổi luật định đã thực hiên hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi la tội phạm” (trang 54 tâm lý học pháp lý). Mà người có năng lực hành vi theo quy định luật hình sự Việt Nam là người trong đọ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ( 16 tuổi trở lên). người phạm tội có thể phạm tội riêng lẻ hoặc thực hiện phạm tội cùng đồng phạm - cá nhân, nhóm - đã có hành vi chuẩn bị phạm tội chưa đạt (đối với tội cố ý) hoặc đã hoàn thành tội phạm cụ thể. Khi nói đến kẻ phạm tội, không thể không nhắc đến nhân cách của họ. Bởi tự thân hành vi phạm tội không nói lên nguyên nhân phạm tội. Ta biết rằng kẻ phạm tội chỉ là nột lực lượng rất nhỏ trong xã hội đã gây ra tội phạm. Việc gây ra tội phạm có phải chỉ từ bản thân đẻ phạm tội hay không? Có nhiều quan niệm ngoài Macxit cho rằng việc gây ra hành vi phạm tội thuộc về yếu tố bẩm sinh (kẻ phạm tội bẩm sinh), hành vi phạm tội là hành vi có tính vô thức bẩm sinh như trí tuệ không bình thường hoặc biểu hiện bản năng đối với sự phạm tội. Song chúng ta thấy rằng mỗi cá nhân không đối lập với điều kiện xã hội mà cá nhân đang sống. Cá nhân tồn tại và phát triển trong xã hội ấy. ”Cá nhân - đó là con người trong một tổng thể các phẩm cách xã hội hình thành ở những dạng khác nhau của hoạt động con người và các quan hệ giữa họ”. (Theo Nguyễn Xuân Yêm – Tội phạm học và phòng chống tội phạm – trang 141). Rõ ràng nhân cách con người, phẩm chất con người chỉ hình thành thông qua các hoạt động và trong mối quan hệ của họ với người khác với nhóm xã hội. Nhân cách không phải là bẩm sinh, nó đựơc hình thành trong quá trình giáo dục, học tập, làm việc, quan hệ với mọi người chung quanh. Tội phạm học Macxit theo đó mà khẳng định rằng: kẻ phạm tội, dẫu là phạm tội nguy hiểm nhất – cũng là một con người. Kẻ phạm tội được các nhà Bác học tư sản xem xét như một cá nhân không toàn vẹn về mặt sinh học, liên quan với những gì bảo thủ nhất, với sự không kiềm chế được của lý trí, với tính kế thừa cái xấu, sự phá huỷ các tuyến nội tiết,,, sự giải thích này thiếu tính khoa học và phủ nhận hoàn toàn yếu tố xã hội. Tất nhiên những yếu tố sinh học, cấu tạo khí chất ( loại thàn kinh) cảu mỗi cá nhân có sự khác biệt và ảnh hưởng nhất định, là tiền đè cho sự phát triển của con người, hình thành nhân cách. Song sự giáo dục, học tập rèn luyện trong môi trường sống vẫn chiếm vị trí hàng đầu. Điều này cho thấy có thể cải tạo giáo dục kẻ phạm tội. Sự hình thành nhân cách cá nhân xảy ra trong nhiều môi trường khác nhau, mỗi môi trương đóng một vai trò nhất định như môi trường gia đình là môi trường đầu tiên, quan trọng nhất sau đó là môi trường nhà trường, tập thể lao động, xã hội cũng như quan hệ giữa mọi người với nhau…ở mỗi cá nhân là khác nhau. Các nhà tội phạm học khi nghiên cứu về các yếu tố không thuận lợi (cản trở) sự hình thành nhân cách tích cực đã chỉ ra: 1. Trong môi trường gia đình: có hoàn cảnh không bình thường, xích mích bên trong, sự ích kỷ, tham lam của bố mẹ, bố mẹ không làm tròn vai trò, trách nhiệm của mình, giáo dục con cái không đúng, li hôn… bố mẹ phạm tội, là gương xấu cho con cái… 2. Ở nhà trường: Tách rời việc dạy học và giáo dục, quản lý lỏng lẻo, kỷ luật không nghiêm, thiếu sự quan tâm, không biết sáng tạo và đọc lập, không tổe chức và sắp xếp thời gian hợp lý nghỉ ngơi… 3. Trong tập thể sản xuất: Kỷ luật lao động lỏng lẻo, say rượu, tiêu cực trong tổ chức, thiêu sót trong hoạt động hành chính, sự bất công về quyền lợi, thưởng phạt… 4. Môi trường là xã, xóm làng - Gần gũi nhất: Các hành vi đạo đức của làng xóm, tập thể, đặc biệt trong các ký túc xá, xóm trọ, quản lý lỏng lẻo, không sát sao lơi là công tác giáo dục,… Mặt khác là thiếu sót hoặc qua không trừng phạt cũng làm cho sự tái phạm và vi phạm tăng lên. Ngoài ra những ảnh hưởng không thuận lợi từ môi trường đến nhân cách kẻ phạm tội còn do chính sự nhận thức, đánh giá năng lực của bản thân chính kẻ phạm tội. Sự đánh giá năng không đúng về mình, chức vụ, quyền hạn… bị nhầm lẫn, tính toán so bì, tị nạnh nới người khác cũng là điểm phát sinh hành vi xấu. Những kẻ phạm tội hậu hết đều có thái độ thờ ơ với lao động, trốn tránh lao động, không có mục đích sống rõ ràng, kiết biết kiểm tra hành động của mình, ít đòi hỏi quyền lợi về tinh thần, độc ác, tham lam, ích kỷ…Bên cạnh những thói xấu ấy họ cũng có một ssó điểm tốt như tình yêu gia đình, cha mẹ, ham học tập, yêu lao động…Việc phát huy mặt tích cực, đẩy lùi tiêu cực là một trong những phương cách hữu hiệu đưa người lầm lạc trở về với cuộc sống, với lao động hữu ích. Kẻ phạm tội là những kẻ có khuynh hướng (hay mục đích chống xã hội, Khuynh hướng chống xã hội này có thể coi là tâm lý các nhân và sự ích kỷ. Tâm lý này dựa trên cơ sở là quyền lợi các nhân và được thể hiện dưới 3 dạng: Hám lợi Bạo lực Bị động xã hội Như vậy khi tác động đến những người phạm tội, biện pháp cơ bản là giáo dục cho họ những đức tính tốt, lòng kính trọng pháp luật và cá nhân mỗi người cũng như các quyền lợi của nhà nước và xã hội. Trong quán trình giáo dục và cải tạo các cá nhân này những yếu tố thuộc về cá nhân như sự thông minh, tình cảm chỉ đóng vai trò thứ yếu… Qua sự trình bày trên phần nào cho ta thấy được sự hình thành cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách kẻ phạm tội ; thấy được những khía cạnh như động cơ phạm tội của đề tài. Song vấn đề động cơ phạm tội là gì, nó có mối quan hệ như thế nào trong hệ thống các khái niệm này. Trước hết tìm hiểu động cơ tội phạm sẽ hé mở cho chung ta biết rại sao có tội phạm, nguồn gốc, yếu tố quyết định đưa một người – cá nhân đến việc thực hiện hành vi phạm tội. 1. 4. Động cơ phạm tội: Như đã đề cập đến động cơ ơt phần đầu (1. 1), ta hiểu rằng động cơ là yếu tố thúc đẩy, đóng vai trò là đích cuối cùng của hoạt động, giúp duy trì hoạt động trong suốt quá trình chiếm lĩnh đối tượng. Động cơ được hình thành trên cơ sở nhu cầu của con người, khi nhu cầu của con người đã được nhận thức đầy đủ và có khả năng thực hiện thì nó trở thành động cơ. Nói đến động cơ và hoạt động cũng không thể bỏ qua hành vi của con người. Hành vi là những biểu hiện của con người ra bên ngoài ra thế giới khách quan dưới hình thức cụ thể hoá nhằm đạt đựơc những mục đích có chủ định và mong muốn. Quá trình thực hiện tội phạm cũng là một hoạt động của kẻ phạm tội mà ở đó động cơ thúc đẩy được gọi là động cơ phạm tội. Động cơ phạm tội theo tâm lý học pháp lý là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp cố ý phạm tội thì bao giờ hành vi của người phạm tội cũng được thúc đẩy bởi động cơ phạm tội, chỉ những trường hợp phạm do vô ý, cẩu thả hay quá tự tin mới không có động cơ phạm tội thúc đẩy. Hành vi phạm tội ở đây được hiểu là mặt khách quan và chủ quan thoả mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Trong mặt khách quan của tội phạm hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản. Không thể nói đến hậu quả của tội phạm cũng như những biểu hiện khách quan khác như công cụ, phương tiện phạm tội, địa điểm, thời gian... khi không có hành vie khách quan. những biểu hiên về mặt chủ quan là lỗi, mục đích, động cơ phạm tội luôn gắn với hành vi khách quan, Hành vi phạm tội được biểu hiện là hành vi có lỗi, là thể thống nhất giữa hnàh vi khách quan (gây hại) và mặt chủ quan (có lỗi). Việc thực hiện các hành vi phạm tội này trở thành tội phạm. Như vậy, động cơ có phạm tội thuộc mặt chủ quan của hành vi, thúc đẩy hoạt động pham tội đạt mục đích. Có quan điểm giả thích theo hướng sinh vật học cho rằng động cơ phạm tội nằm trong cấu tạo thể chất của cá nhân. Theo đó những giả thích của họ đã đặt một sự liên hệ giữa hành vi tội phạm với khuynh hướng chông xã hội của cá nhân với kiểu hình thù thể xác. Họ dùng những đặc điểm cơ thể để báo hiệu cho những hành vi phạm tội đã, đang và sẽ xảy ra. Theo quan điểm của các nhà Tâm lý học, sinh học cho rằng nguyên nhân (hay động cơ tội phạm) nằm ngay trong sự xã hội hoá đầu tiên bị khiếm khuyết của đứa trẻ. Bởi vậy mà động cơ chống đội xã hội mang tính bẩm sinh không được kiểm soát của chủ thể hành vi. Có vẻ như ở cả 2 quan điểm trên đồng nhất các loại cá nhân” thích nghĩ sai”, “làm sai” với những khuyêt tật và những đặc tính bệnh lý thúc đẩy hành vi phạm tội. Việc dẫn đến hành vi phạm tội nằm ngoài sự kiểm soát của chủ thể hành vi, trong những gen đặc biêt, trong cá tính thiếu sót hoặc bất cứ cài gì đó và động cơ cá nhân tách rời yếu tố xã hội. Trong cuốn “Tội phạm học hiện đại và phòng chống tội phạm tác giả Nguyễn Xuân Yêm cho rằng: Việc kết hợp những quan điểm chống xã hội của một người với ảnh hưởng của tình huống cuộc sống được tiếp nhận một cách chủ quan dẫn đến chỗ hình thành động cơ và mục đích tội phạm cụ thể. Trong ý thức của con người tình huống được xem như là một lý do, nghĩa là một nguyên nhân bên ngoài, còn động cơ là kích thích bên trong…Động cơ có thể đi trước lý do…đóng vai trò thúc đẩy trực tiếp để gây ra tội phạm” (trang 165). Có nghĩa rằng lý do là tình huống cụ thể của cuộc sống, là nguyên nhân bên ngoài, còn động cơ là nguyên nhân bên trong hay được hiểu chính là quan điểm chống xã hội. Ta cần thấy rằng, cũng như đã đề cập tới trong phần viết trên, qua điểm chông xã hội ( động cơ - lý do – nguyên nhân bên trong) được hình thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của cá nhân, chịu sự ảnh hưởng và tác động trực tiếp từ môi trường, mà môi trường này là môi trường không thuận lợi. Cá nhân nào cũng tồn tại và phát triển trong nhiều môi trường, cá nhân kẻ phạm tội lớn lên trong môi trường thường có những đặc điểm sau: - Môi trường gia đình: Là nguyên nhân quan trọng góp phần hun đúc nhân cách lệch lạc của con người ngay từ tuổi ấu thơ hay thờ