Mục đích: Nghiên cứu gây tê thần kinh cánh tay để phẫu thuật vùng cánh, cẳng hay bàn tay và giảm đau sau
mổ.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng. Từ tháng 3/2012 đến tháng 7/ 2013, chúng tôi đã
tiến hành gây tê thần kinh cánh tay để phẫu thuật vùng cánh, cẳng hay bàn tay và giảm đau sau mổ cho 30 bệnh
nhân dưới hướng dẫn của máy kích thích thần kinh cơ. Theo dõi: mạch, huyết áp, SpO2, nhịp thở trước, trong và sau
thủ thuật.
Kết quả: Đạt yêu cầu để phẫu thuật: 100%. Cần tiền mê bằng Midazolam: 56,6%, bằng Propofol: 3,3%. Có
cảm giác đau khi khoan xương hay rạch da: 3,3%. Mạch nhanh: 20% (từ 100 đến 120l/p), tăng huyết áp: 6,6%
(dưới 150/90mmHg). Không ghi nhận các tác dụng phụ, tai biến và các biến chứng quan trọng.
Kết luận: Gây tê đám rối thần kinh cánh tay là một trong những phương pháp vô cảm có thể sử dụng để phẫu
thuật vùng chi trên một cách hiệu quả. Bên cạnh đó phương pháp vô cảm này còn có thể được áp dụng để giảm đau
sau mổ trong một thời gian khá dài (khoảng 4 ‐8 giờ/liều bolus). Kỹ thuật thực hiện tương đối đơn giản và ít tốn
kém hơn so với gây mê toàn thân.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của máy kích thích thần kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 72
GÂY TÊ ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY
DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA MÁY KÍCH THÍCH THẦN KINH
Nguyễn Văn Chinh*, Nguyễn Thị Tuyết Nhung**
TÓM TẮT
Mục đích: Nghiên cứu gây tê thần kinh cánh tay để phẫu thuật vùng cánh, cẳng hay bàn tay và giảm đau sau
mổ.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng. Từ tháng 3/2012 đến tháng 7/ 2013, chúng tôi đã
tiến hành gây tê thần kinh cánh tay để phẫu thuật vùng cánh, cẳng hay bàn tay và giảm đau sau mổ cho 30 bệnh
nhân dưới hướng dẫn của máy kích thích thần kinh cơ. Theo dõi: mạch, huyết áp, SpO2, nhịp thở trước, trong và sau
thủ thuật.
Kết quả: Đạt yêu cầu để phẫu thuật: 100%. Cần tiền mê bằng Midazolam: 56,6%, bằng Propofol: 3,3%. Có
cảm giác đau khi khoan xương hay rạch da: 3,3%. Mạch nhanh: 20% (từ 100 đến 120l/p), tăng huyết áp: 6,6%
(dưới 150/90mmHg). Không ghi nhận các tác dụng phụ, tai biến và các biến chứng quan trọng.
Kết luận: Gây tê đám rối thần kinh cánh tay là một trong những phương pháp vô cảm có thể sử dụng để phẫu
thuật vùng chi trên một cách hiệu quả. Bên cạnh đó phương pháp vô cảm này còn có thể được áp dụng để giảm đau
sau mổ trong một thời gian khá dài (khoảng 4 ‐8 giờ/liều bolus). Kỹ thuật thực hiện tương đối đơn giản và ít tốn
kém hơn so với gây mê toàn thân.
Từ khóa: Gây tê đám rối thần kinh cánh tay, máy kích thích thần kinh cơ.
ABSTRACT
BRACHIAL PLEXUS BLOCK VIA PERIPHERAL NERVE STIMULATOR
Nguyen Van Chinh, Nguyen Thi Tuyet Nhung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 72 ‐ 76
Purpose: This study is performed to anesthezied during surgery and pain relief after surgery.
Methods: Prospective study, from March 2012 to July 2013, 30 patients had brachial plexus block via
peripheral nerve stimulator for hand, forearm surgery and pain relief after surgery. Pulse, blood presure,SpO2,
resspiratory rate of patients were monitored right before and after analgesis injection.
Results: Anesthetize to surgery: 100%. Need to inject Midazolam: 56.6%, Propofol: 3.3%. Little pain when
drill bone or cut skin: 3.3%. Increase pulse: 20% (from 100 to 120p/m), hypertension: 3.3% (under 150/95mmHg).
Side‐effects, accidents and complications were not noted.
Conclusions: Brachial plexus block are one of technique anesthesia that we can use to surgery for the hand or
forearm. Beside, we can use it to pain relief for that patients after surgery for a longtime (about 4 – 8 hours/bolus).
That technique is easier to do and less expenditure than general anesthesia.
Keyword: Brachial plexus block, peripheral nerve stimulator.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 73
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây tê đám rối thần kinh cánh tay để phẫu
thuật và giảm đau sau mổ cho vùng tay từ trên
khớp vai cho đến ngón tay là một trong những
phương pháp vô cảm đã được áp dụng khá rộng
rãi trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói
riêng. Tuy nhiên để đạt được kết quả tốt của
phương pháp gây tê đám rối thần kinh cánh tay
là thể tích thuốc tê phải đủ lớn và thuốc tê phải
được tiêm vào trong bao thần kinh. Do đó, việc
phải đưa được thuốc tê vào trong bao thần kinh
là một thách thức không nhỏ đối với người thực
hiện gây tê cho bệnh nhân và việc xác định bao
thần kinh chủ yếu dựa vào lâm sàng, dựa vào
các mốc giải phẫu cho nên đòi hỏi người gây tê
phải dạn dày kinh nghiệm và đôi khi tỷ lệ thành
công không cao (6).
Vào năm 1980 máy kích thích thần kinh
ngoại biên ra đời đã tạo được một bước tiến bộ
khá lớn để giúp kỹ thuật gây tê thuận lợi, hiệu
quả và an toàn hơn. Hơn nũa, đối với nền y học
hiện đại ngày nay, thì việc gây tê dưới hướng
dẫn của máy kích thích thần kinh ngoại biên đã
chứng minh được đây là một phương pháp vô
cảm có hiệu quả cao, tránh được những biến
chứng của gây mê toàn thân và giảm chi phí
điều trị cho bệnh nhân(2).
Tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương chúng tôi
bước đầu áp dụng kỹ thuật gây tê đám rối thần
kinh cánh tay dưới hướng dẫn của máy kích
thích thần kinh ngoại biên để phẫu thuật cho 30
bệnh nhân có vùng phẫu thuật từ trên khớp vai
đến ngón tay và cũng bước đầu sử dụng
phương pháp vô cảm này để giảm đau cho bệnh
nhân sau mổ. Đây chính là lý do chính để chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này.
Ngoài ra chúng tôi cũng muốn so sánh lợi
ích thu được và chi phí phải bỏ ra giữa hai
phương pháp vô cảm là gây mê toàn thân đối
với gây tê đám rối thần kinh cánh tay để phẫu
thuật qua đó khẳng định những ưu điểm của
phương pháp gây tê đám rối thần kinh cánh tay
để phẫu thuật và giảm đau sau mổ cho bệnh
nhân tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Chúng
tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu nghiên cứu.
Đánh giá hiệu quả giảm đau trong và sau mổ của
kỹ thuật gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới
hướng dẫn của máy kích thích thần kinh ngoại biên.
Xác định tỷ lệ các tai biến, biến chứng trong quá
trình thực hiện.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, can thiệp lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật từ
trên khớp vai đến ngón tay tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương, thời gian từ 03/ 2012 đến
07/ 2013.
Kỹ thuật chọn mẫu
Tiêu chuẩn nhận
Gây tê theo đường nách thường áp dụng
cho các cuộc mổ từ khuỷu tay đến bàn tay có
gây tê thêm dây thần kinh cơ bì và bì cánh tay.
Gây tê theo đường liên cơ thang thường áp
dụng cho các cuộc mổ vùng vai, cánh tay.
Các bệnh nhân đồng ý chấp thuận đuợc gây
tê để phẫu thuật.
Các bệnh nhân không có chống chỉ định của
gây tê đám rối thần kinh cánh tay để phẫu thuật.
Tiêu chuẩn loại
Có tổn thương thần kinh ngoại vi hoặc trung
ương của chi trên từ trước.
Nhiễm trùng tại chỗ chọc kim.
Rối loạn đông máu và điều trị bằng các
thuốc chống đông.
* Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Văn Chinh ‐ ĐT: 0903885497 ‐ Email: chinhnghiem2006@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 74
Các bệnh nhân có rối loạn dẫn truyền nhĩ
thất hoặc loạn nhịp tim là chống chỉ định
tương đối.
Các bệnh nhân có suy gan thì nên tránh
dùng các thuốc tê nhóm ester. Các bệnh nhân có
tiền sử đái porphyric hoặc sốt cao ác tính nên
tránh dùng thuốc tê nhóm amid.
Trường hợp bệnh nhân đã có sử hoặc đang
bị tràn khí màng phổi, hoặc bị cắt phổi bên đối
diện, hoặc bệnh nhân có suy hô hấp nặng không
gây tê trên đòn.
Các trường hợp bệnh nhân không hợp tác
với thầy thuốc cũng không nên tiến hành gây tê
đám rối thần kinh cánh tay.
Phương tiện và trang thiết bị
Phương tiện theo dõi và hồi sức: nguồn
dưỡng khí, ống nghe tim phổi, máy đo HA động
mạch, nhiệt độ, kim luồn 20G, 18G máy
monitor theo dõi: Mạch, huyết áp, điện tâm đồ,
đo độ bão hòa oxy (pulse oximeter),
Phương tiện thực hiện kỹ thuật: Máy kích
thích thần kinh cơ, kim tê đồng bộ, bộ gây tê vô
khuẩn theo quy định
Thuốc và dịch truyền: Lidocaine 2% 2ml,
Bupivacain (Marcain) 0,5%, 20ml,
Adrenaline1mg/1ml, Fentanyl 100 mcg (2ml).
Thuốc sát trùng, cấp cứu, dịch truyền:
Phương thức tiến hành
Chọn bệnh theo yêu cầu tiêu chuẩn nhận và
tiêu chuẩn loại.
Thăm khám và chuẩn bị bệnh nhân như một
cuộc gây mê bình thường: thăm khám tiền mê,
đặc biệt vùng gây tê, các chức năng vận động
kiểm tra các xét nghiệm thường qui, các yếu tố
đông máu, điện tâm đồ
Đánh giá, phân loại nguy cơ theo ASA, kiểm
tra những chỉ định và chống chỉ định của gây tê.
Giải thích cho bệnh nhân về kỹ thuật gây tê
đám rối thần kinh cánh tay để phẫu thuật.
Kiểm tra các xét nghiệm tiền phẫu, đánh giá
và phân loại bệnh theo ASA.
Lập đường truyền tĩnh mạch, gắn monitor
theo dõi sinh hiệu, cho bệnh nhân thở oxy 5l/p
qua mask. Chuẩn bị đầy đủ các trang thiết bị,
dụng cụ cần thiết để thực hiện kỹ thuật vô cảm
trên.
Đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại biên
bằng kim luồn 20G hay 18G, dung dịch NaCl
0,9% hay Lactate Ringer.
Gắn monitor theo dõi sinh hiệu, cho BN thở
oxy 2‐3 lít/ phút.
Người thực hiện rửa tay, mang găng, sát
trùng vùng chọc bằng Betadin, trải khăn lỗ.
Thực hiện phương pháp gây tê đám rối thần
kinh cánh tay ngã nách dưới hướng dẫn của
máy kích thích thần kinh cơ.
Thuốc sử dụng: lidocain 1%, Marcain 0,5%
10ml.
Theo dõi dấu sinh tồn của BN trước, trong
và sau khi thực hiện thủ thuật, xử lý những rối
loạn khi cần.
Thu thập và xử lý số liệu
Dữ liệu nghiên cứu: Tuổi, giới, cân nặng,
bệnh kèm theo, đặc điểm của phương pháp CSE,
tình trạng huyết động trước trong và sau thực
hiện gây tê. Thang điểm đau, mức độ phong bế
vận động sau mổ, các tác dụng không mong
muốn... Tất cả các số liệu đều được ghi lại trong
phiếu theo dõi nghiên cứu và nhập vào máy vi
tính. Quản lý và xử lý tất cả các số liệu theo
chương trình SPSS 13.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 03/ 2012 đến 07/ 2013 tại Bệnh Viện
Nguyễn Tri Phương TPHCM, chúng tôi đã tiến
hành thực hiện và theo dõi 30 trường hợp. Kết
quả thu thập và phân tích như sau:
Bảng 1: Đặc điểm chung.
Đặc điểm chung Trung bình ± độ lệch chuẩn
Tuổi bệnh nhân 36,14 ± 2,41
Cân nặng (kg) 55,12 ± 4,65
Chiều cao (cm) 153,04 ± 10,05
Giới tính: Nam/Nữ 21/09
N 30
Bảng 2: Bệnh kèm theo.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 75
Bệnh kèm theo Số TH Tỷ lệ %
Cao huyết áp 3 10,0
Suy thận mãn 1 3,3
Tiểu đường 2 6,6
Bệnh khác 1 3,3
Kết quả điều trị
Thời gian mổ trung bình: 1 giờ.
Thời gian nằm lại hồi sức ngoại: 2 giờ.
Liều thuốc
Tê đám rối thần kinh cánh tay ngã nách:
20ml Lidocain 1% + 0,1mg Adrenalin 1/400.000,
10ml Marcain 0,5% + 0,05mg Adrenalin.
Tê đám rối thần kinh cánh tay ngã liên cơ
thang: 20ml Lidocain 1% + Adrenalin 1/400.000,
10ml Marcain 0,5% + 0,05mg Adrenalin.
Tê thần kinh giữa: 5ml Lidocain 2%.
Tê thần kinh trụ: 3ml Lidocain 2%.
Chi phí giữa gây tê đám rối thần kinh cánh
tay và gây mê toàn thân
Chi phí gây mê toàn thân (trung bình):
685.000 đồng (đ).
Midazolam: 1 ống = 17.000 đ.
Fentanyl: 2 ống = 11.000 đ.
Diprivan: 1 ống = 125.000 đ.
Esmeron: 1 ống = 55.000 đ.
Sevoran: 30ml = 390.000 đ.
Ống nội khí quản: 1 ống = 48.000 đ.
Lọc khuẩn: 1 cái = 34.000 đ.
Canula: 1 cái = 5.000 đ.
Chi phí gây tê đám rối thần kinh cánh tay
ngã liên cơ thang, ngã nách: 165.000 đồng.
Lidocain 2% 2ml: 10 ống = 6.000 đ.
Marcain 0,5% 20ml: 1 ống = 44.000 đ.
Adrenalin 1mg: 1 ống = 5.000 đ.
Kim tê: 1 cây = 110.000 đ.
Chi phí gây tê thần kinh giữa, thần kinh trụ:
113.000 đ.
Lidocain 2% 2ml: 5 ống = 3.000 đ.
Kim tê: 1 cây = 110.000 đ.
Kỹ thuật vô cảm để phẫu thuật
30/30 trường hợp đạt tiêu chuẩn vô cảm để
phẫu thuật: 100%.
17/30 trường hợp cần thêm 2mg
Midazolam/IV để tiền mê, an thần, giảm lo âu
căng thẳng: 56,6%.
1/30 trường hợp cần cho bệnh ngủ bằng
Propofol: 3,3%.
1 trường hợp có đau khi khoang xương:
3,3%.
1 trường hợp đau khi rạch da, cần tê tại chỗ
bằng lidocain 2%: 3,3%.
Thời gian giảm đau sau mổ dựa theo thang
điểm VAS
15/30 trường hợp có cảm giác đau sau 5 giờ
kể từ lúc sau khi gây tê: 50%.
13/30 trường hợp có cảm giác đau sau 3 giờ
kể từ lúc sau khi gây tê: 43,3%.
2/10 trường hợp có cảm giác đau sau 2 giờ kể
từ lúc sau khi gây tê: 6,6%
Biến chứng
6/30 trường hợp chiếm 20% có mạch nhanh
thoáng qua từ 100 – 120l/p.
2/30 trường hợp chiếm 6,6% có tăng huyết
áp nhẹ (dưới 150/95mmHg).
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Kích thích thần kinh ngoại vi, thay thế kỹ
thuật tìm dị cảm trước đây, là một kỹ thuật an
toàn, đáng tin cậy để thực hiện hầu hết các loại
gây tê ngoại vi. Tuy nhiên, máy kích thích thần
kinh không thể thay thế được kiến thức về giải
phẫu học và các thầy thuốc không bao giờ được
dùng thiết bị này để “săn tìm” dây thần kinh(7).
Nhận xét về liều lượng thuốc tê sử dụng:
trong nghiên cứu của chúng tôi: Tê đám rối thần
kinh cánh tay ngã nách: 20ml Lidocain 1% +
Adrenalin 1/400.000, 10ml Marcain 0,5% + 0,05mg
Adrenalin. Tê đám rối thần kinh cánh tay ngã liên
cơ thang: 20ml Lidocain 1% + Adrenalin
1/400.000, 10ml Marcain 0,5% + 0,05mg
Adrenalin. So với các nghiên cứu của các tác giả
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 76
khác thì nghiên cứu của chúng tôi sử dụng liều
lượng thấp hơn, như nghiên cứu của Huỳnh
Công Tâm sử dụng 24ml Lidocain 1% với 10ml
Bupivacaine 0,25%(4), hay nghiên cứu của
Gadsden J. sử dụng 30ml Bupivacaine 0,5%(3).
30/30 trường hợp đạt tiêu chuẩn vô cảm để
phẫu thuật: 100% điều này phù hợp theo kết quả
nghiên cứu của Klein (100%)(5) và của Denny
(95%)(1). Tuy nhiên, muốn có được tỷ lệ này thì
người thực hiện phải có kinh nghiệm, quen thao
tác và nhất là chấp nhận kết quả thấp trong giai
đoạn đầu, điều này cũng được Denny ghi nhận,
theo nghiên cứu của Denny thì tỷ lệ thành công
giai đoạn đầu chỉ 50%(1).
Áp dụng phương pháp gây tê dưới hướng
dẫn của máy kích thích thần kinh cơ cũng giúp
chúng ta bớt đi phần lớn chi phí điều trị đồng
thời cũng giảm bớt thời gian phải lưu lại phòng
hồi sức ngoại giúp giảm tải cho khoa GMHS nói
riêng và cho bệnh viện nói chung(8).
Bệnh nhân cũng được giảm đau kéo dài sau
mổ, giảm bớt các loại thuốc giảm đau khác đồng
nghĩa giảm bớt tác dụng phụ, an toàn hơn cho
người bệnh.
Tất cả các trường hợp đều được theo dõi sát
các thông số huyết động, chúng tôi ghi nhận
6/30 trường hợp mạch nhanh thoáng qua từ 100
– 120l/p, 2/30 trường hợp có tăng huyết áp nhẹ
(dưới 150/95mmHg) sau đó ổn định. Có lẽ trong
thời gian đầu khi tiến hành gây tê bệnh nhân lo
lắng, hồi hộp trong môi trường phòng mổ, gây
tê tại chổ cũng làm bệnh nhân đauNhưng so
với nghiên cứu của tác giả khác như Trần Viết
Vinh(9), Klein(5) thì không khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Tuy nhiên, lượng bệnh nhân được áp dụng
kỹ thuật trên còn ít do chưa được trang bị trang
thiết bị nên bước đầu chúng tôi chỉ áp dụng trên
số ít bệnh nhân với kim tê được tài trợ bởi công
ty B.Braun nên chỉ ghi nhận những kết quả
thuận lợi ban đầu như trên. Chúng tôi sẽ tiếp tục
áp dụng kỹ thuật trên ngày càng rộng rãi hơn
nhằm đánh giá chính xác hiệu quả cũng như các
hạn chế của nó để khắc phục trong tương lai.
KẾT LUẬN
Kết quả cho thấy đây là kỹ thuật an toàn,
hiệu quả và không có những tai biến, biến
chứng quan trọng. Hơn nữa, hiệu quả giảm đau
liên tục trong và sau mổ của kỹ thuật gây tê giúp
cho bệnh nhân vận động sớm sau mổ, thực hiện
tốt các bài tập vật lý trị liệu, hạn chế các tai biến
về hô hấp, tuần hoàn ở bệnh nhân so với
phương pháp gây mê toàn diện. Do đó, đề tài
nên được ứng dụng rộng rãi cho các bệnh viện
có phẫu thuật chi trên. Chúng tôi khuyến cáo
khi áp dụng phương pháp này phải chuẩn bị
đầy đủ nhân lực, trang thiết bị nhất là phải có
quy trình và phác đồ thống nhất với các bộ phận
liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Denny NM, Barber N, Slidown DJ. (2003). “Evaluation of an
insulated Tuohy needle system for the placement of
interscalene brachial plexus catheter”, Anesthesia, 58, pp. 554 –
557.
2. Finucane BT, Tsui BCH, (2008). “Managing Adverse Outcomes
during Regional Anesthesia”, Anesthesiology, Volume 1 (49),
pp. 1053 – 1080, Medical Books, McGraw – Hill, USA.
3. Gadsden J, Hadzic A, Gandhi K et al (2011). “The effect of
mixing 1,5% mepivacaine and bupivacaine on duration of
analgesia and latency of block onset in ultrasound – guided
interscalene block”. Anesthesia and Analgesia,, Volume 112 (2),
pp. 471 – 476.
4. Huỳnh Công Tâm, Phạm Thiều Trung, Huỳnh Thị Bích Thủy
(2010). “Hiệu quả gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới
hướng dẫn của siêu âm tại bệnh viện đa khoa thành phố Cần
Thơ năm 2009 ‐ 2010”. Y học thực hành, 744, tr 154 – 156.
5. Klein SM, Grant AS, Greengrass AR et al (2000). “Interscalene
brachial plexus block with a continuous catheter insertion
system and a disposable infusion pump”. Anesthesia and
Analgesia, 91, pp. 1473 – 1478.
6. Lê Văn Chung, Nguyễn Văn Chừng (2008), “Gây tê ngoài
màng cứng và gây tê tủy sống phối hợp trong phẫu thuật
chỉnh hình chi dưới”. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 12 (1), tr. 78 ‐
83.
7. Nguyễn Thị Phương Dung, Nguyễn Văn Chừng (2010). “Đánh
giá hiệu quả của gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng
cứng trong phẫu thuật chi dưới”. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 14
(1), tr. 211 ‐ 216.
8. Raff M (2006). “Continuous spinal and epidural anesthesia”.
Anesthesia and orthopaedic surgery. (30), pp. 371 – 384, Medical
Books, McGraw – Hill, USA.
9. Trần Viết Vinh (2007). “Gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới
xương đòn bằng lidocaine”, Luận án chuyên khoa cấp II, Gây mê
hồi sức, Đại Học Y Dược TPHCM, tr. 55 – 65.
Ngày nhận bài 29/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 04/09/2013.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 77
Ngày bài báo được đăng: 18/10/2013