Giới thiệu: Tổng phân tích nước tiểu (TPTNT) là một xét nghiệm thực hiện thường qui ở nhiều phòng
khám. Cấy nước tiểu định lượng là phương pháp chẩn đoán nhiễm khuẩn niệu đáng tin cậy. Tuy nhiên, xét
nghiệm này có một số bất lợi gồm chi phí cao, cần nhân lực đã qua đào tạo, sự không thuận tiện để lấy nước tiểu.
Mục tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, tiên đoán âm của TPTNT trong chẩn
đoán NKNKTC ở phụ nữ mang thai ba tháng đầu thai kỳ tại BVPSQTSG từ 1/2010 đến 6/2010.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh xét nghiệm TPTNT
với tiêu chuẩn vàng là cấy nước tiểu ở 281 phụ nữ mang thai khám tại Bệnh viện Phụ sản Quốc tế sài Gòn từ
1/2010 đến 6/2010.
Kết quả: 21 trường hợp (7,5%) được xác định có nhiễm khuẩn niệu có ý nghĩa dương tính với ≥ 105 khúm
vi khuẩn/ ml nước tiểu. Những vi sinh vật chính phân lập là Streptococcus spp.(57,2%), Proteus mirabilis
(19%), Klebsiella pneumoniae (14,3%), Escherichia coli (9,5%). Độ nhạy, độ đặc hiệu của TPTNT là 14,3% và
87,3%. Giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm là 8,3% và 92,7%.
Kết luận: TPTNT có độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán âm tốt, do vậy có thể giảm những trường hợp có kết quả
TPTNT âm tính được gửi đến phòng xét nghiệm để cấy.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị chẩn đoán của tổng phân tích nước tiểu trong chẩn đoán nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng ở thai phụ trong 3 tháng đầu thai kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 81
GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA TỔNG PHÂN TÍCH NƯỚC TIỂU
TRONG CHẨN ĐOÁN NHIỄM KHUẨN NIỆU KHÔNG TRIỆU CHỨNG
Ở THAI PHỤ TRONG 3 THÁNG ĐẦU THAI KỲ
Lê Triệu Hải*, Nguyễn Duy Tài**
TÓM TẮT
Giới thiệu: Tổng phân tích nước tiểu (TPTNT) là một xét nghiệm thực hiện thường qui ở nhiều phòng
khám. Cấy nước tiểu định lượng là phương pháp chẩn đoán nhiễm khuẩn niệu đáng tin cậy. Tuy nhiên, xét
nghiệm này có một số bất lợi gồm chi phí cao, cần nhân lực đã qua đào tạo, sự không thuận tiện để lấy nước tiểu.
Mục tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, tiên đoán âm của TPTNT trong chẩn
đoán NKNKTC ở phụ nữ mang thai ba tháng đầu thai kỳ tại BVPSQTSG từ 1/2010 đến 6/2010.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh xét nghiệm TPTNT
với tiêu chuẩn vàng là cấy nước tiểu ở 281 phụ nữ mang thai khám tại Bệnh viện Phụ sản Quốc tế sài Gòn từ
1/2010 đến 6/2010.
Kết quả: 21 trường hợp (7,5%) được xác định có nhiễm khuẩn niệu có ý nghĩa dương tính với ≥ 105 khúm
vi khuẩn/ ml nước tiểu. Những vi sinh vật chính phân lập là Streptococcus spp.(57,2%), Proteus mirabilis
(19%), Klebsiella pneumoniae (14,3%), Escherichia coli (9,5%). Độ nhạy, độ đặc hiệu của TPTNT là 14,3% và
87,3%. Giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm là 8,3% và 92,7%.
Kết luận: TPTNT có độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán âm tốt, do vậy có thể giảm những trường hợp có kết quả
TPTNT âm tính được gửi đến phòng xét nghiệm để cấy.
Từ khóa: Giá trị chẩn đoán, tổng phân tích nước tiểu, cấy nước tiểu, nhiễm trùng niệu không triệu chứng,
thai phụ.
ABSTRACT
DIAGNOSTIC VALUE OF URINALYSIS IN DIAGNOSTING ASYMPTOMATIC BACTERIURIA IN
PREGNANT WOMEN AT FIRST TRIMESTER
Le Trieu Hai, Nguyen Duy Tai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 81 - 87
Urinalysis is one of the most commonly used test in many clinics. The quantitative urine culture is mainly
used to confirm urinary tract infection. However, high cost, need for qualified personnel and inconvenience of
collecting clean-voided specimens are the among the main drawbacks.
Objectives: identify the sensitivity, specificity, positive predictive value and negative predictive value of
urinalysis in diagnosting asymptomatic bacteruria in pregnant women at first trimester.
Methods: In this study, we compared urinalysis with standard urine culture for 281 pregnant women at
SaiGon International OB & GYN Hospital between January 2010 and June 2010.
Results: Of 281 urine specimens evaluated, 21 cases (7.5%) were determined to have ≥ 105 CFU/ml by the
culture method. The main organisms were Streptococcus spp. (57.2%), Proteus mirabilis (19%), Klebsiella
pneumoniae (14.3%), Escherichia coli (9.5%). The sensitivity and specificity of urinalysis were 14.3% and
87.3%, respectively. The positive predictive value was low (8.3%) while the negative predictive value was very
high (92.7%).
* Bệnh viện phụ sản Quốc Tế ** Bộ môn Sản - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc : GS Nguyễn Duy Tài ĐT: 0903856439 Email: dr.nguyenduytai@yds.edu.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 82
Conclusions: These results suggest that the urinalysis is not a reasonable way for screening asymptomatic
bacteriuria in pregnant women. However, the specificity and the negative predictive value remained strong, so in
cases with normal urinalysis we should not routinely confirm by urine culture.
Keywords: Diagnostic value, urinalysis, asymptomatic bacteruria, pregnant women.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn niệu (NKN) là một bệnh lý
thường gặp tại các phòng khám, trong đó nhiễm
khuẩn niệu không triệu chứng (NKNKTC) trong
thai kỳ gặp phải 5-10%. Phụ nữ mang thai có
những thay đổi về giải phẫu và sinh lý tạo điều
kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển gây
nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Để hạn chế biến
chứng có thể xảy ra cho thai phụ và thai nhi cần
có chương trình tầm soát và điều trị NKNKTC ở
thai phụ hiệu quả. Năm 2007, trong một nghiên
cứu gộp 14 thử nghiệm lâm sàng của Smaill và
cs. đã cho thấy việc điều trị kháng sinh đối với
nhiễm khuẩn niệu khơng triệu chứng so với
không điều trị giúp làm giảm tần suất viêm đài
bể thận cấp (nguy cơ tương đối (RR) 0,23, KTC
95% 0,13- 0,41), giảm sanh trẻ nhẹ cân (RR 0,66,
KTC 95% 0,49- 0,89)(1).
Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ(1)
(HHSPKHK) có khuyến cáo về chiến lược tầm
soát tình trạng NKNKTC bằng cấy nước tiểu
giữa dòng trên các thai phụ ở lần khám thai đầu
tiên vào năm 2000. Tổ chức dịch vụ tiêm phòng
của Hoa Kỳ cũng khuyến cáo mẫu cấy nước tiểu
nên được thực hiện giữa tuần 12-16 của thai kỳ
hay ở lần khám thai đầu tiên (Khuyến cáo mức
độ A)(1). Tuy nhiên, việc tầm soát tình trạng
NKNKTC bằng cấy khuẩn niệu sẽ không hiệu
quả kinh tế khi tần suất lưu hành bệnh thấp. Bên
cạnh đây là một xét nghiệm khá phức tạp, đắt
tiền và tốn thời gian. Trong khi đó TPTNT là
một xét nghiệm nhanh rẻ tiền, đơn giản được
thực hiện thường qui ở nhiều phòng khám thai.
Hiện tại, có sự chênh lệch rất lớn giữa các kết
quả về giá trị của TPTNT trong tầm soát
NKNKTC. Có nghiên cứu cho rằng TPTNT giúp
loại trừ những trường hợp cấy khuẩn niệu âm
tính, từ đó làm giảm áp lực công việc cho phòng
xét nghiệm vi sinh. Nhưng cũng có nghiên cứu
cho rằng TPTNT với độ nhạy và độ đặc hiệu
không đủ cao để khuyến cáo là phương tiện tốt
trong tầm soát NKN. Sự khác biệt này có thể do
quần thể nghiên cứu với tác nhân gây bệnh và
phương thức thực hiện xét nghiệm này có phần
khác nhau. Tại Bệnh viện Phụ Sản Quốc Tế Sài
Gòn (BVPSQTSG) chưa có nghiên cứu về giá trị
chẩn đoán của TPTNT trong chẩn đoán NKN ở
phụ nữ mang thai ba tháng đầu thai kỳ. Cho
nên, việc xác định lại giá trị của xét nghiệm
TPTNT trong tiên đoán bệnh lý NKNKTC ở thai
phụ là quan trọng, nhất là ở tam cá nguyệt đầu.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với
câu hỏi nghiên cứu: “Giá trị của TPTNT trong
chẩn đoán NKNKTC ở thai phụ trong 3 tháng
đầu thai kỳ là như thế nào? ”
Mục tiêu chính
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên
đoán dương, tiên đoán âm của TPTNT trong
chẩn đoán NKNKTC ở phụ nữ mang thai ba
tháng đầu thai kỳ tại BVPSQTSG từ 1/2010 đến
6/2010.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Xét nghiệm chẩn đoán.
Đối tượng nghiên cứu
281 thai phụ 3 tháng đầu thai kỳ khám tại
BV Phụ Sản Quốc tế Sài Gòn từ 1-6/2010.
Tiêu chuẩn nhận vào
- Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu thai kỳ.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Có kèm theo một trong các bệnh lý dưới đây:
- Viêm âm đạo, âm hộ.
- Ra huyết âm đạo.
- Sử dụng kháng sinh trong vòng 1 tuần.
- Có triệu chứng nghi nhiễm trùng tiểu (tiểu
gắt, tiểu lắt nhắt, đau hông lưng).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 83
- Có tiền căn bệnh lý đường tiết niệu.
- Có bệnh lý cấp tính.
Cách thức tiến hành
Lấy mẫu thuận tiện, tuần tự thỏa tiêu chuẩn
của nghiên cứu. Lấy mẫu nước tiểu giữa dòng
để thực hiện TPTNT và cấy khuẩn niệu. Sử
dụng que nhúng của hãng Bayer đọc kết quả với
máy đọc tự động Clinintex 100, soi cặn lắng
nước tiểu tìm bạch cầu, hồng cầu, trụ niệu do 2
kỹ thuật viên xét nghiệm thực hiện (chỉ số
KAPPA = 96%).
Hình: Qua soi cặn lắng thấy trụ niệu (mũi tên
dài), bạch cầu (mũi tên đậm), hồng cầu (mũi tên
ngắn). Nguồn hình: Fairley KF, Birch DF (1982).
Hematuria: a simple method for dentifying
glomerular bleeding. Kidney Int 21:105.
Que nhúng nước tiểu: Thử nghiệm Nitrite
dựa trên tương tác của acid amin thơm
sulfanilamic với nitrite trong môi trường đệm
acid để tạo nên muối diazo. Muối diazo này bắt
cặp với hợp chất 3-hydroxy-1,2,3,4-tetra-
hydrobenz-(h)-quinoline tạo ra màu đỏ azo.
Bạch cầu giấy nhúng được báo cáo là âm tính,
vết, (+) hay ít, (++) hay trung bình, (+++) hay
nhiều. Bạch cầu giấy nhúng là dương tính nếu
(+) hay (++), (+++). Còn âm tính hay vết được
xem là âm tính theo khuyến cáo của Marquette
và cs. Soi cặn lắng nước tiểu: Lấy 10 ml nước
tiểu giữa dòng đem quay li tâm trong vòng 5
phút với tốc độ quay là 1500 vòng/phút. Sau đó
đổ bỏ hết phần nước tiểu ở trên chỉ giữ lại 1ml
nước tiểu bên dưới. Trộn đều phần nước tiểu
còn lại này, lấy ra 20μl (1 giọt) cho lên lam và soi
tươi dưới kính hiển vi ở quang trường 40.
Cấy khuẩn niệu do một chuyên gia vi sinh
thực hiện. NKNKTC là khi có sự hiện diện ít
nhất 105 khúm vi khuẩn/ ml nước tiểu dựa vào
tiêu chuẩn chẩn đoán của Kass với cách lấy nước
tiểu giữa dòng, nhưng không có các triệu chứng
của NKN như tiểu gắt, tiểu lắt nhắt, đau hông
lưng. Sau đó tiến hành định danh vi khuẩn.
Thu thập số liệu bằng phần mềm Excel 2003,
xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 10.
Vấn đề y đức
Tất cả đối tượng tham gia nghiên cứu được
miễn phí cấy trùng niệu. Việc lấy nước tiểu xét
nghiệm là một xét nghiệm thường qui trong
khám thai, không gây ảnh hưởng gì lên sức
khỏe thai phụ. Sau khi được giải thích về thông
tin nghiên cứu và sự tham gia của các thai phụ
là hoàn toàn tự nguyện. Khi phát hiện bệnh lý
bệnh nhân được điều trị chu đáo.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1- Đặc điểm của các đối tượng nghiên cứu.
Đặc điểm TB ± ĐLC Tối thiểu Tối đa
Tuổi mẹ 29 ± 4,7 19 45
Hb 11,7 ± 1,3 8,4 16
BMI 19,8 ± 2,2 15,4 27,8
Tuổi thai (tuần) 9 ± 2,3 5 12,5
Hb, hemoglobin; BMI, chỉ số khối cơ thể; TB,
trung bình; ĐLC, độ lệch chuẩn.
Nhận xét: Tuổi trung bình của các đối tượng
tham gia nghiên cứu là 29. Tuổi thai trung bình
là 9 tuần.
Bảng 2 - Các đặc điểm khác của đối tượng.
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)
Cư ngụ TP.HCM
Tỉnh
Tổng
212
69
281
75,4
24,6
100
Nghề Nội trợ
Trí thức
Nhân viên y tế
Buôn bán nhỏ
40
150
14
77
14,2
53,4
5
27,4
Tổng 281 100%
Trình độ Cấp 1 trở xuống
Cấp 2, 3
Cao đẳng, đại học
2
100
179
0,7
35,6
63,7
Tổng 281 100%
Nước sinh Nước giếng 34 12,1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 84
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)
hoạt Nước máy 247 87,9
Tổng 281 100 %
Giao hợp Không
Có
118
163
42
58
Tổng 281 100 %
Nhận xét: 75% đối tượng nghiên cứu sống
tại TP. HCM. Nghề nghiệp chủ yếu là trí thức
chiếm 53,4%. Đa số có trình độ cao đẳng, đại học
(63,7%). Hầu hết là sử dụng nước máy (87,9%).
Hơn phân nửa có giao hợp lúc mang thai. Đa số
có trình độ từ cao đẳng trở lên (63,7%).
Tỉ lệ NKNKTC ở thai phụ mang thai 3 tháng
đầu tại BVPSQTSG là 7,5%.
Bảng 3 – Phân lập tác nhân gây bệnh.
Kết quả cấy khuẩn niệu Số trường hợp Tỉ lệ (%)
Alpha. Hemolytic Strep.
Beta. Hemolytic Strep.
Escherichia Coli
Klebsieella pneumoniae
Proteus mirabilis
2
10
2
3
4
9,52
47,62
9,52
14,29
19,05
Tổng 21 100%
Tỉ lệ NKN với Beta. Hemolytic Streptococcus
tìm thấy trong nghiên cứu này khác với các
nghiên cứu trên thế giới. Escherichia Coli cũng
chiếm đa số 66,7% kết quả cấy dương tính
trong nghiên cứu của Abdullah A. A. tại Á Rập
(4). Sự hiện diện của E. coli chiếm đa số trong
những nghiên cứu này cũng có thể do hầu hết
NKN là hậu quả của vi khuẩn đường ruột đặc
biệt là E. coli, vi khuẩn thường trú ở vùng tầng
sinh môn, và sau đó xâm nhập vào niệu đạo và
tăng sinh và nhiễm trùng bàng quang, thận và
cấu trúc kế cận.
Một số yếu tố liên quan ảnh hưởng đến
NKNKTC trong 3 tháng đầu thai kỳ:
Bảng 4 - Phân bố tỉ lệ nhiễm khuẩn niệu theo tuổi.
Tuổi NKN
≤ 20 21 - 30 31 - 40 ≥ 41
Tổng số
(+) 0 (0%) 13 (6,74%) 8 (10,67%) 0 (0%) 21 (7,5%)
(-) 4 (100%) 180
(93,26%)
67 (89,33%) 9
(100%)
260
(92,5%)
Tổng
số
4
100%
193
100%
75
100%
9
100%
281
100%
Kiểm định chính xác Fischer P= 0,565.
Nhận xét: Tỉ lệ NKN cao nhất trong nhóm
tuổi 31-40 tuổi: 10,67%. Kế đó là nhóm tuổi 21-30
tuổi: 6,74%. Tuy nhiên sự khác biệt này không có
ý nghĩa về phương diện thống kê.
Bảng 5 - Phân bố tỉ lệ nhiễm khuẩn niệu theo chỉ số
khối cơ thể.
Dư cân NKN
Có Không
Tổng số
(+) 0 (0%) 21 (7,58%) 21 (7,47%)
(-) 4 (100%) 256 (92,42%) 260 (92,53%)
Tổng 4 (100%) 277 (100%) 281 (100%)
Kiểm định chính xác Fischer P=0,732.
Tỉ lệ NKN ở nhóm phụ nữ có chỉ số khối cơ
thể là dư cân là 0%, trong khi tỉ lệ này ở người
không dư cân là 7,58%. Tuy nhiên sự khác biệt
này không có ý nghĩa về phương diện thống kê.
Bảng 6 - Phân bố tỉ lệ nhiễm khuẩn niệu theo thiếu
máu.
Thiếu máu NKN
Có không
Tổng số
(+) 4 (5%) 1 (2,27%) 5 (4,03%)
(-) 76 (95%) 43 (97,73%) 119 (95,97%)
Tổng số 80 (100%) 44 (100%) 124 (100%)
Kiểm định chính xác Fischer P=0,416.
Tỉ lệ NKN cao ở nhóm thai phụ có thiếu
máu chiếm tỉ lệ là 5%, trong khi nhóm không
thiếu máu chỉ chiếm 2,27%. Tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa về phương diện thống
kê.
Bảng 7 - Giá trị của que nhúng nước tiểu
Tác giả n Độ
nhạy
Độ đặc
hiệu
McNair R. D. 2000(5) 528 47,2% 80,3%
Phạm Thủy Linh 2000(6) 100 76% 91%
Kutlay S. 2003(7) 406 38,7% 35,8%
Kacmaz B. 2006(8) 250 60% 99,2%
Juthani M. 2007(11) 101 100%
Kovavisarach E. 2008(9) 360 16,7% 99,4%
L.T.T. Phương 2008(10) 264 58,8% 81,7%
Chúng tôi 2010 281 11,1% 92,9%
Có một sự khác biệt khá lớn về độ nhạy của
que nhúng nước tiểu giữa các nghiên cứu. Với
cùng tiêu chuẩn chẩn đoán NKN là cấy trùng
niệu ở điểm cắt đoạn ≥ 105 khúm vi khuẩn trên 1
ml nước tiểu, sự khác biệt này có thể do nghiên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 85
cứu trên đối tượng khác nhau tại các cơ sở khác
nhau. Tác giả Lê Thị Thanh Phương nghiên cứu
trên 3 đối tượng gồm phụ nữ mang thai 12-16
tuần, đang điều trị dọa sanh non tại bệnh viện
Hùng Vương, bệnh nhân nam đến khám tại
bệnh viện Bình Dân(10). Còn trên nghiên cứu của
chúng tôi là trên đối tượng thai phụ mang thai 3
tháng đầu không có triệu chứng nghi ngờ NKN.
Độ nhạy của que nhúng nước tiểu trong nghiên
cứu của chúng tôi là 11,1%. Kết quả này tương
đồng với tác giả Kovavisarach E(9). Nhưng đây là
con số quá thấp so với các tác giả khác(5,6,7,8,11).
Theo y văn thời gian tồn lưu trong bàng quang
cần để vi khuẩn chuyển nitrate thành nitrite
thường là 4 giờ trở lên, vì vậy xét nghiệm này
thích hợp khi sử dụng mẫu nước tiểu đầu tiên
vào buổi sáng. Trong thực tế thực hành lâm sàng
điều này sẽ khó được tuân thủ đặc biệt là ở phụ
nữ mang thai. Hơn nữa, trong nhóm cấy trùng
niệu dương tính với ≥ 105 khúm vi khuẩn của
mẫu nghiên cứu của chúng tôi thì Beta.
Hemolytic Streptococcus chiếm đa số với tỉ lệ
47,6%. Đây là một loại vi khuẩn gram dương,
không có khả năng khử nitrate thành nitrite do
không có men nitrate reducrase. Khác với các
nghiên cứu trước đây Escherichia Coli chiếm đa
số nhưng lại chiếm tỉ lệ thấp (9,52%) trong mẫu
phân lập cấy trùng niệu dương tính của chúng
tôi. Vai trò của que nhúng có giá trị trong việc
phát hiện các tác nhân gây bệnh là vi khuẩn
gram âm, nhưng là có giá trị hạn chế đối với vi
khuẩn gram dương là cũng phù hợp với
nguyên lý của xét nghiệm này.
Bảng 8 - Giá trị của TPTNT so với tiêu chuẩn vàng
là cấy trùng niệu.
Cấy trùng
niệu (+)
Cấy trùng niệu
(-)
Tổng
TPTNT (+)
TPTNT (-)
Tổng
3
18
21
33
227
260
36
245
281
Nhận xét
- Độ nhạy= 14,3% (KTC 95% 3,05% - 36,3%).
- Độ đặc hiệu= 87,3% (KTC 95% 82,6% -
91,1%).
- GTTĐ (+)= 8,33% (KTC 95% 1,75% - 22,5%).
- GTTĐ (-)= 92,7% (KTC 95% 88,6% - 95,6%).
Mục đích của nghiên cứu này là xem sự tin
cậy của TPTNT bao gồm que nhúng nước tiểu
mười thông số kiểm tra nitrite và hoạt động của
men của bạch cầu, soi cặn lắng nước tiểu tìm
tiểu mủ, tiểu máu, vi khuẩn so với cấy nước tiểu
trong việc chẩn đoán NKNKTC ở phụ nữ mang
thai. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngay cả
khi phối hợp các kết quả xét nghiệm này với
nhau cũng không tăng độ nhạy lên đáng kể, tức
là cũng cho thấy que nhúng nước tiểu có thể có
giá trị tương đương soi cặn lắng nước tiểu tìm
tiểu mủ. Đã từng có khuyến cáo về những giới
hạn trong độ chính xác chẩn đoán của cả hai xét
nghiệm này nên được kết hợp trong việc quyết
định chẩn đoán y khoa. Còn theo kiến nghị của
tác giả Lê Thị Thanh Phương nếu nhiễm trùng
tiểu không có triệu chứng, có thể dùng đếm
bạch cầu để sàng lọc và hướng dẫn cấy vi sinh
để chẩn đoán(10). Tuy TPTNT thường được xem
là xét nghiệm tiện lợi, rẻ tiền, hiệu quả, nhưng
với độ nhạy của TPTNT này thấp hơn các
nghiên cứu trước đây và có lẽ không đủ để có
thể sử dụng trong tầm soát vì khả năng bỏ sót
bệnh cao. Xét nghiệm giúp nhận diện ra 14%
phụ nữ mang thai có NKNKTC nhưng điều này
tương ứng với việc bỏ sót 86% phụ nữ có NKN
không được phát hiện và điều trị kịp thời. Cho
nên phương pháp tầm soát mà bỏ sót 86%
NKNKTC khó có thể chấp nhận. Độ đặc hiệu
của TPTNT trong nghiên cứu của chúng tôi là
87,3% với GTTĐ (-) là 92,7% như vậy có thể
phần nào sử dụng giá trị này của xét nghiệm để
loại trừ khả năng NKN và hạn chế chỉ định cấy
trùng niệu cho những trường hợp không có tiểu
mủ cũng như TPTNT không nghi ngờ NKN.
Phù hợp với một số khuyến cáo trước đây cho
rằng việc tầm soát dương tính là một chỉ định
cho cấy nước tiểu. Tức là chỉ cấy khi xét nghiệm
tầm soát dương tính nhằm mục đích xác định
chẩn đoán, biết được loại vi khuẩn và làm kháng
sinh đồ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 86
Bảng 9 - Kết quả kháng sinh đồ.
Kết quả cấy trùng niệu Tên kháng sinh
Hemo Strep. ß. Hemo Strep. E. coli Kleb. pn Prote-us m.
S 1 10 2 3 0
Nitrofuratoin
R 1 0 0 0 4
S 2 9 1 3 3
Augmentin
R 0 1 1 0 1
S 2 10 2 3 3
Nettilmycin
R 0 0 0 0 1
S 2 7 2 1 3
Norfloxacin
R 0 3 0 2 1
S 2 10 0 1 1
Vancomycin
R 0 0 2 2 3
S, sensitive; R, resistant.
Nhận xét: Beta. Hemolytic Streptococcus còn
nhạy hoàn toàn với Nitrofuratoin, Nettilmycin
và nhạy cảm với Augmentin (90%). Norfloxacin
thuộc họ Quinolones không được sử dụng khi
mang thai.
Giới hạn của đề tài
Do thời gian nghiên cứu giới hạn, nên cỡ
mẫu của chúng tôi thu nhận được vào nghiên
cứu chỉ là 281 trường hợp là một con số khá
khiêm tốn để có thể đạt được tất cả mục tiêu
nghiên cứu. Và có lẽ kết quả trong nghiên cứu
của chúng tôi khi khảo sát ở dân số những phụ
nữ khám thai tại BVPSQTSG chỉ có tính đại diện
cho dân số mục tiêu. Để có tính khái quát cần có
nghiên cứu gộp gồm sự tham gia của nhiều cơ
sở y tế. Để đạt được điều này chúng tôi hy vọng
có những nghiên cứu tiếp theo với cỡ mẫu lớn
hơn cũng như việc khảo sát về hiệu quả của điều
trị, kế hoạch tầm soát hiệu quả và kết cục sau
cùng của thai kỳ liên quan đến NKN sẽ được
thực hiện trong tương lai.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ NKNKTC ở thai phụ 3 tháng đầu thai
kỳ tại BVPSQTSG là 7,5%. Tác nhân gây bệnh
chủ yếu là Beta. Hemolytic Streptococcus. Chưa ghi
nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
NKNKTC với tuổi mẹ, chỉ số khối cơ thể, tình
trạng thiếu máu, nước sinh hoạt, giao hợp trong
thai kỳ, tuổi thai.
TPTNT là một xét nghiệm nhanh, rẻ tiền, dễ
thực hiện tại nhiều phòng khám nhưng có độ
nhạy không đủ cao để tầm soát NKNKTC.
Ngoài ra, để chẩn đoán chính xác NKNKTC
chúng ta vẫn cần cấy nước tiểu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdullah AA and Al-Moslih Moslih MI (2005), Prevalence
of asymptomatic bacteriuria in pregnant women in
Sharjah, United Arab Emirates. East Mediterr Health J.
11(5-6): p. 1045-52.
2. Juthani-Mehta, Manisha M., et al. (2007), Role of dipstick
testing in the evaluation of urinary tract infection in
nursing home residents. Infect Control Hosp Epidemiol
28(7): p. 889-91.
3. Kacmaz B., et al.(2006), Evaluation of rapid urine screenin