Giải pháp hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa tại các ngân hàng thương mại

Rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa là một trong những chủ đề nóng được đề cập rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong năm vừa qua. Rủi ro xảy ra không những gây thiệt hại đến tài sản và con người của các ngân hàng thương mại (NHTM) mà còn làm cho uy tín của các NHTM suy giảm. Mục tiêu của bài viết này là đánh giá khái quát về thực trạng rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa tại các NHTM trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro cho các NHTM thời gian tới.

pdf8 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa tại các ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Giải pháp hạn chế . . . Kinh tế * TS. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi nhánh Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 0918350036. Email: thucq6nhno@yahoo.com GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG CHO VAY CẦM CỐ HÀNG HÓA TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Vũ Văn Thực* TÓM TẮT Rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa là một trong những chủ đề nóng được đề cập rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong năm vừa qua. Rủi ro xảy ra không những gây thiệt hại đến tài sản và con người của các ngân hàng thương mại (NHTM) mà còn làm cho uy tín của các NHTM suy giảm. Mục tiêu của bài viết này là đánh giá khái quát về thực trạng rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa tại các NHTM trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro cho các NHTM thời gian tới. Từ khóa: cầm cố hàng hóa, hạn chế rủi ro SOLUTION TO MINIMIZE RISKS FROM GOODS PLEDGE AT COMMERCIAL BANKS ABSTRACT Risks from goods pledge have made the headlines in the media during the past year. The risks not only cause damage to the commercial banks property and human resources but also undermine their good reputation. The article is intended to give an overview of the actual risks arising from goods mortgage at the commercial banks recently and suggest solutions to minimize the risks incurred by the banks for the time to come Keywords: Goods pledge, risk ministration 1. Đặt vấn đề: thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm tiền vay được các ngân hàng thương mại áp dụng từ khá lâu nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, cầm cố hàng hóa để đảm bảo nợ vay được các NHTM sử dụng một mặt đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, mặt khác để đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho các NHTM. Tại Việt Nam, thế chấp hàng hóa đã và đang được nhiều NHTM áp dụng, bên cạnh những mặt tích cực của nó thì cầm cố hàng hóa đã và đang nảy sinh ra nhiều vấn đề dẫn đến rủi ro 4Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät cho các NHTM, hậu quả là ngân hàng thiệt hại về vốn vay, uy tín bị suy giảm và đôi khi còn có cả thiệt hại về con người đối với các NHTM. Trong khuôn khổ bài báo này, tác giả trình bày khái quát về thực trạng rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa, phân tích nguyên nhân dẫn đến rủi ro, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho các NHTM khi nhận tài sản thế chấp là hàng hóa để đảm bảo nợ vay tại các NHTM. 2. Cơ sở lý luận về đảm bảo tiền vay Tín dụng ngân hàng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro và đảm bảo tiền vay được sử dụng như là một trong những cách thức nhằm gia tăng khả năng thu hồi nợ và giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các NHTM. Đảm bảo tiền vay trong hoạt động ngân hàng là việc bên vay vốn thế chấp hoặc cầm cố tài sản thuộc sở hữu của mình cho ngân hàng để đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay. Để đảm bảo tiền vay thực sự có hiệu quả, đòi hỏi: - Giá trị tài sản sử dụng làm đảm bảo phải lớn hơn nghĩa vụ cần được đảm bảo. - Tài sản dùng làm bảo đảm nợ vay phải tạo ra được ngân lưu (phải có giá trị và thị trường tiêu thụ). - Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền xử lý tài sản dùng đảm bảo tiền vay. [9] Theo qui định của pháp luật Việt Nam: đảm bảo tiền vay là việc các tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.[2] Hàng hóa trong bài viết này được hiểu là động sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng dùng để cầm cố đảm bảo nghĩa vụ nợ của khách hàng vay vốn tại các NHTM. 3. Thực trạng rủi ro trong cho vay thế chấp hàng hóa tại các NHTM trong thời gian qua Có khá nhiều rủi ro xảy ra đối với các NHTM trong cho vay thế chấp hàng hoá trong thời gian vừa qua. Để có cái nhìn tổng quát về thực trạng rủi ro trong cho vay thế chấp hàng hóa tại các NHTM trong thời gian qua, chúng ta có thể điểm lại một số vụ điển hình dưới đây: Tháng 11 năm 2013, tại một kho hàng thuộc địa bàn xã An Hồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã phát sinh một sự kiện là 7 ngân hàng cùng tranh chấp một kho hàng, doanh nghiệp vay là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh vật liệu xây dựng, tranh chấp xảy ra khi có ngân hàng đã phát hiện ra số lượng hàng hoá trong kho bị thiếu hụt và tài sản trong kho không đảm bảo được dư nợ vay cho ngân hàng. Được biết trước đó, doanh nghiệp này luôn để số lượng hàng hoá tồn kho lớn hơn số dư nợ vay tại ngân hàng (vốn vay chỉ chiếm từ 60%-70% giá trị tài sản bảo đảm). Tuy nhiên, khi gặp khó khăn của nền kinh tế vĩ mô, mặc dù trước đây doanh nghiệp thường có uy tín cao với các ngân hàng nhưng cuối cùng cũng lâm vào tình trạng vi phạm (Trần Minh Hải, 2013). Trước đó, ngân hàng Sacombank - Chi nhánh Thăng Long (Hà Nội) cũng đã gặp rất nhiều khó khăn khi xử lý khoản nợ xấu hơn 4,25 triệu USD (tương đương 88 tỷ đồng) mà ngân hàng này đã cho Công ty Cổ phần Thương mại nông sản Đức Lợi vay từ năm 2011. Được biết, khoản dư nợ trên Sacombank đã giải ngân cho Công ty Cổ phần Thương mại nông sản Đức Lợi vay để nhập khẩu hàng nghìn tấn đậu tương từ Mỹ, tài sản cầm cố cho khoản vay trên chính là các lô hàng đậu tương được nhập khẩu từ Mỹ. Tuy nhiên, với lượng hàng 6.078 tấn đậu tương đã nhập khẩu, doanh nghiệp chỉ chuyển một phần hàng hóa về kho do ngân hàng quản lý, phần hàng hoá còn lại doanh nghiệp đã 5Giải pháp hạn chế . . . không chuyển về kho do ngân hàng quản lý mà bán hết cho các đại lý và các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. Khi phát hiện hàng hóa không đảm bảo cho khoản nợ vay tại ngân hàng, ngân hàng này đã buộc phải xử lý để thu hồi nợ trước hạn. Tuy nhiên, ngoài một số bất động sản đã được thế chấp, chi nhánh ngân hàng này chỉ thu giữ được hơn 327 tấn đậu tương còn sót lại, có giá trị chỉ hơn 7,84 tỷ đồng (Thu Hằng, 2013). Mới đây, vào khoảng đầu tháng 6 năm 2013, Công ty TNHH Trường Ngân ở Bình Dương bị 7 ngân hàng bao vây, tìm cách thu hồi khoảng 3.000 tấn cà phê lưu kho để siết nợ, vụ việc này đã được dư luận đặc biệt quan tâm theo dõi và đây là chủ đề được bàn luận rất nhiều tại các NHTM trong thời gian qua. Cụ thể, Công ty TNHH Trường Ngân vay nợ của bảy ngân hàng: Quân đội (MB), Công thương (VietinBank), Quốc tế (VIB), Kỹ thương (Techcombank), Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank), Phương Đông (OCB) và Hàng hải (Maritime bank) với tổng số nợ lên tới 600 tỉ đồng. Tuy nhiên, số hàng hóa cầm cố trong kho của Công ty TNHH Trường Ngân chỉ có khoảng 3.000 tấn cà phê (trị giá khoảng 100 tỉ đồng). Vụ việc này cho đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm và với mong muốn làm sáng tỏ vụ việc, một số ngân hàng đã đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra vào cuộc để hỗ trợ điều tra xử lý theo qui định của pháp luật đối với chủ doanh nghiệp này (Thiên Cầm, 2013). Trước đó vào năm 2011, 5 ngân hàng trên địa bàn thành phố Cần Thơ, bao gồm: ABBank, Vietinbank, SeaBank, Eximbank và Nngân hàng Phát triển Việt Nam - chi nhánh Cần Thơ - Hậu Giang đã xảy ra “tranh chấp” kho hàng của Công ty chế biến thủy sản An Khang (Cần Thơ). Số tiền công ty này nợ 5 ngân hàng là 305 tỉ đồng, khi công ty có dấu hiệu không có khả năng thanh toán nợ đến hạn, các ngân hàng kiểm tra và phát hiện hàng hóa tồn kho luân chuyển bao gồm các sản phẩm cá tra fillet, chả cá sumiri đông lạnh, tổng cộng hơn 1.000 tấn mà công ty này dùng thế chấp để đảm bảo nợ vay chỉ còn là một kho hàng hoàn toàn rỗng. Nguyên nhân là do giữa lúc các ngân hàng đang tính chuyện cùng mở kho giải chấp hàng hóa thì trước đó đại diện của công ty này đã ký thỏa thuận giao toàn bộ 2 kho hàng đã dùng thế chấp để thanh toán nợ cho các hộ bán cá tra nguyên liệu mà công ty còn thiếu nợ, quy ra thành tiền là trên 29,4 tỉ đồng. Các hộ dân theo đó đã tự ý vào mở cửa kho lấy đi số lượng lớn hàng hóa và để lại các xác kho không, cuối cùng 5 ngân hàng cho vay chính là người bị thiệt hại lớn nhất [7]. Vài tháng trước đây, dư luận ở trong và ngoài ước đặc biệt xôn xao vụ ông Lâm Ngọc Khuân, nguyên chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Thực phẩm Phương Nam (Sóc Trăng), khi ông này “xuất ngoại”, bỏ lại một khoản nợ khổng lồ với số tiền hơn 1.500 tỉ đồng. Trong đó có khoảng 700 tỉ đồng liên quan đến các ngân hàng nhận tài sản thế chấp là hàng tồn kho nhưng trên thực tế là lượng hàng trong kho là rất ít, chỉ có vài chục tỉ đồng và lượng hàng này không chỉ thế chấp cho một ngân hàng mà còn ở nhiều ngân hàng khác nữa (Yên Trang, 2013). Vụ việc này xảy ra không những chỉ gây thiệt hại về tài sản cho các ngân hàng mà còn có hàng loạt cán bộ ngân hàng của các ngân hàng khác nhau bị cơ quan cảnh sát điều tra khởi tố với nhiều tội danh khác nhau. Trên đây chỉ là một số vụ điển hình trong cho vay thế chấp tài sản là hàng hóa dẫn đến rủi ro cho các NHTM mà các phương tiện báo chí đã đề cập, chắc chắn con số đã được công 6Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät bố trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa phản ánh được hết trên thực tế, con số thực có thể sẽ lớn hơn và phức tạp hơn rất nhiều. Hậu quả rủi ro xảy ra là ngân hàng thất thoát vốn, giảm lợi nhuận, mất cán bộ xảy ra và hơn nữa hình ảnh của ngân hàng sẽ xấu đi rất nhiều trong lòng công chúng. 4. Một số nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro trong cho vay thế chấp hàng hóa Thứ nhất, ngân hàng thương mại thẩm định không kỹ hoặc không chính xác tình hình tài chính và phương án kinh doanh của doanh nghiệp: nguyên nhân này là do cán bộ không đủ trình độ để thẩm định về tình hình tài chính và tính khả thi của phương án vay của doanh nghiệp hoặc cán bộ đủ trình độ nhưng cố tình thẩm định sai sự thật để cấu kết với khách hàng nhằm mục đích trục lợi cá nhân; ngoài ra còn có những nguyên nhân khác như cán bộ cẩu thả trong quá trình thẩm định, doanh nghiệp cung cấp thông tin sai sự thật Thứ hai, tài sản thế chấp không đủ điều kiện vay vốn: theo qui định của pháp luật, tài sản thế chấp phải là tài sản hợp pháp và không có tranh chấp, song khi cho vay ngân hàng đã không thẩm định kỹ đến yếu tố này dẫn đến khi xảy ra tranh chấp, ngân hàng mới biết là tài sản thế chấp không thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, do đó ngân hàng không có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay theo qui định của pháp luật. Thứ ba, thiếu kiểm tra giám sát chặt chẽ hàng hóa trước khi nhập kho; bảo vệ kho hàng còn khá lỏng lẻo dẫn đến khách hàng bán tài sản thế chấp mà ngân hàng không biết: một trong những nguyên nhân thường xảy ra dẫn đến rủi ro là do ngân hàng không kiểm soát chặt chẽ số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa khi nhập và xuất kho, dẫn đến khách hàng nhập kho không đủ số lượng hoặc hàng hóa nhập kho không đúng qui cách, chất lượng. Bên cạnh đó, khi xuất kho hàng hóa ngân hàng không kiểm soát được số lượng hàng hóa xuất ra và để cho khách hàng xuất kho số lượng hàng hóa trên thực tế lớn hơn giấy tờ sổ sách đối chiếu giữa ngân hàng và khách hàng. Thứ tư, không công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo tài sản thế chấp: do tài sản thế chấp không được công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo nên khi có tranh chấp xảy ra sẽ khó xác định hàng hóa thế chấp phải phân định như thế nào cho các bên nhận thế chấp tài sản, mặc dù pháp luật hiện hành qui định, đăng ký giao dịch đảm bảo làm cơ sở việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người nhận thế chấp tài sản, là cơ sở ưu tiên thứ tự thanh toán khi người vay không trả được nợ, qui định như vậy nhưng rất nhiều ngân hàng đã không thực hiện công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo đối với tài sản thế chấp, dẫn đến khi có tranh chấp xảy ra sẽ khó xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay. Thứ năm, sử dụng kho chung để giữ hàng hóa: một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho ngân hàng là sử dụng kho chung để chứa hàng hóa, khi khách hàng không trả được nợ thì các ngân hàng khó phân biệt là hàng hóa nào thuộc tài sản của mình, hàng hoá nào là của ngân hàng bạn, đặc biệt là những hàng hóa có cùng mẫu mã, chất lượng và chủng loại. Thứ sáu, chưa chú trọng đến việc mua bảo hiểm cho hàng hóa đang cầm cố: hàng hóa cầm cố có thể giảm giá, mất mát, cháy nổ, hư hỏngdẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tuy nhiên rất nhiều ngân hàng hiện nay chưa thực sự chú trọng đến việc mua bảo hiểm đối với hàng hóa cầm cố. Thứ bảy: ngân hàng nhận tài sản thế chấp 7Giải pháp hạn chế . . . kém khả năng thanh khoản hoặc không có khả năng thanh khoản: như chúng ta đã biết, theo quy định của pháp luật, ngân hàng và khách hàng được thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp theo nhiều phương thức khác nhau như: được xử lý theo phương thức do các bên đã thỏa thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đến thời điểm xử lý tài sản bảo đảm, khách hàng giao tài sản hoặc ngân hàng cùng khách hàng bán đấu giá tài sản nhưng tài sản không thể bán được do khả năng thanh khoản thấp, trong khi đó hàng tồn kho vẫn phải trả các chi phí khác như: lưu kho, bảo vệ, bảo hiểm hàng hóa ngoài ra, hàng hóa tồn kho lâu ngày sẽ hết hạn sử dụng hoặc bị giảm sút chất lượng sẽ dẫn đến rủi ro cho các NHTM. Trên đây là một số nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro trong cho vay thế chấp tài sản là hàng hóa tại các NHTM trong thời gian qua. 5. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố hàng hóa tại các NHTM Một là, thẩm định kỹ tình hình tài chính và phương án vay vốn của khách hàng: mục đích cho vay là thu hồi được nợ vay, không phải là bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay; tài sản thế chấp của khách hàng vay chỉ là tài sản bổ sung khi nguồn thu thứ nhất từ phương án xin vay là nguồn thu nợ chính không đảm bảo chắc chắn và khi đó tài sản thế chấp sẽ là nguồn thu thứ hai cho ngân hàng. Vì vậy, trước khi cho vay, NHTM nên thẩm định kỹ tình hình tài chính, uy tín của khách hàng và tính khả thi của phương án vay, chỉ những khách hàng có đủ điều kiện theo qui định của pháp luật và của ngân hàng, có phương án vay vốn khả thi thì các NHTM mới tiến hành thẩm định đến tài sản đảm bảo là hàng hóa. Hai là, xem xét kỹ về điều kiện tài sản thế chấp trước khi nhận làm tài sản đảm bảo cho khoản vay: theo qui định của pháp luật, không phải tài sản nào cũng được đem thế chấp để vay vốn ngân hàng mà chỉ những tài sản thỏa mãn những điều kiện sau thì mới đủ điều kiện để thế chấp vay vốn ngân hàng: thứ nhất tài sản phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm; thứ hai tài sản được phép giao dịch và không có tranh chấp, tức là tài sản được pháp luật cho phép mua, bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Bên cạnh đó, tài sản thế chấp phải là những tài sản có khả năng thanh khoản, tức là tài sản có thể chuyển nhượng hoặc mua, bán được dễ dàng; thứ ba bên bảo đảm mua bảo hiểm đối tài sản đem thế chấp mà pháp luật qui định phải được bảo hiểm. Như vậy, để tránh rủi ro khi nhận cầm cố hàng hóa, các NHTM cần xem xét kỹ đến các yếu tố trên, nếu hàng hóa không đủ điều kiện nêu trên thì nên từ chối nhận làm tài sản đảm bảo. Ba là, thẩm định và kiểm tra kỹ các yếu tố như quyền sở hữu, chất lượng và giá cả hàng hóa trước khi nhận thế chấp: để đảm bảo hàng hóa khi nhập kho đúng chất lượng, giá cả và là tài sản thuộc sở hữu của khách hàng, trước hết NHTM khi nhận cầm cố hàng hóa cần thẩm định kỹ xem tài sản thế chấp có thuộc quyền sở hữu của khách hàng không, để làm được điều đó, cán bộ ngân hàng phải kiểm tra, đối chiếu kỹ xem hợp đồng mua bán hàng hoá, hóa đơn giá trị gia tăng, tờ khai xuất nhập khẩu, kiểm định hàng hóađối với hàng hóa khách hàng đề nghị thế chấp, trên cơ sở đó ngân hàng thấy rõ được hàng hóa khách hàng dự định cầm cố có thuộc quyền sở hữu của khách hàng hay không. Sau khi đối chiếu xong, nếu hàng hóa đúng là sở hữu của khách hàng thì ngân hàng nên thẩm định thêm xem 8Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät chất lượng hàng hóa có đúng phẩm chất như khi khách hàng khai báo và giá cả hàng hóa có phù hợp với giá cả hàng hóa trên thị trường hiện tại. Trường hợp ngân hàng không có đủ khả năng để thẩm định các yếu tố trên thì nên thuê một công ty tư vấn độc lập có chuyên môn và chức năng để thẩm định, hợp đồng thuê phải ghi rõ quyền lợi và trách nhiệm đối với công ty tư vấn, nếu tư vấn sai phải bồi hoàn thiệt hại gây ra cho ngân hàng. Bốn là, cần thực hiện thủ tục công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo: mặc dù pháp luật hiện hành không qui định tất cả hàng hóa phải công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo. Tuy nhiên, nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, các NHTM cần công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo đối với toàn bộ tài sản thế chấp được thế chấp cho ngân hàng, đây là cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng; bởi vì khi có công chứng và đăng ký tài sản đảm bảo thì thứ tự ưu tiên thanh toán sẽ thuộc về ngân hàng, hàng nào đã đăng ký giao dịch đảm bảo (theo qui định của pháp luật hiện hành thì tổ chức, cá nhân nào đăng ký giao dịch đảm bảo trước sẽ được ưu tiên thanh toán trước và tổ chức, cá nhân nào có đăng ký giao dịch đảm bảo sẽ được ưu tiên thanh toán trước nếu các tổ chức, cá nhân khác không đăng ký giao dịch đảm bảo nếu có tranh chấp giữa các bên). Năm là, bảo vệ, kiểm tra, giám sát chặt chẽ khi nhập hoặc xuất kho hàng hoá: tài sản thế chấp trong kho nên được thuê đội ngũ bảo vệ chuyên nghiệp để bảo vệ kho hàng và lực lượng bảo vệ thường xuyên phải có số điện thoại của cơ quan công an để phối hợp ngăn chặn những trường hợp trộm cắp và tẩu tán hàng hoá đang cầm cố. Bên cạnh đó, khi nhập, xuất kho tài sản đảm bảo phải có mặt đủ các thành phần theo qui định trong hợp đồng đã ký kết giữa ngân hàng với khách hàng, ví dụ như: bảo vệ, thủ kho, cán bộ giám định hàng hóa; cán bộ tín dụng, trưởng phòng tín dụng (trưởng phòng khách hàng), đại diện ban giám đốc, về phía khách hàng phải có đầy đủ thành phần theo qui định trong hợp đồng thế chấp tài sản để cùng giám sát hàng hóa trước khi nhập hoặc xuất kho hàng hoá. Sáu là, trực tiếp ký hợp đồng với bên cho thuê kho để giữ sản cầm cố: từ những sự việc tranh chấp kho hàng trong thời gian qua cho thấy việc ký kết hợp đồng thuê kho ba bên hiện nay đã xảy ra nhiều tranh chấp mà bên cho thuê kho, ngân hàng và khách hàng chưa tìm ra tiếng nói chung, đặc biệt một kho hàng nhưng hàng hóa trong kho không phải chỉ có riêng một ngân hàng mà hàng hóa là của nhiều ngân hàng khác nhau dẫn đến các ngân hàng và người cho thuê kho khó quản lý hàng hóa đem thế chấp. Do đó, khi nhận cầm cố kho hàng, tốt nhất là các ngân hàng nên xem xét trực tiếp ký hợp đồng hai bên với bên cho thuê kho và trực tiếp trả tiền thuê để bảo đảm duy nhất một đầu mối quan hệ giữa ngân hàng và người cho thuê kho, từ đó sẽ giảm thiểu thiệt hại cho các ngân hàng. Bảy là, nghiên cứu thành lập các công ty con có chức năng quản lý và kinh doanh kho hàng: một giải pháp khác có thể đảm bảo chắc chắn hơn để quản lý hàng hóa đã cầm cố cho ngân hàng, đó là các NHTM nghiên nên cứu thành lập các công ty con độc lập với ngân hàng và đăng ký kinh doanh kho vận để kinh doanh kho vận, trên cơ sở đó thực hiện xây kho tại một số vùng trọng điểm có nhiều khu thương mại, công nghiệp, bến cảng (tùy vào mục tiêu và chiến lược của mỗi ngân hàng mà xây dựng địa điểm kho cho phù hợp) và chính các công ty con này là người trực tiếp giữ hàng hóa cầm cố của ngân hàng mình, có như 9Giải pháp hạn chế . . . vậy thì tài sản nhận thế chấp sẽ đảm bảo chắc chắn hơn. Tám là, nhà nước nghiên cứu và ban hành các văn bản cho phép các tổ chức đang kinh doanh kho vận để đứng ra làm trung gian gửi giữ hàng hóa: cơ quan
Tài liệu liên quan