Bài báo này nhằm mục tiêu nghiên cứu phản ứng của nhà đầu tư
nước ngoài (NĐTNN) thông qua khối lượng giao dịch cổ phiếu xung
quanh ngày thông báo chia tách cổ phiếu. Bằng phương pháp nghiên
cứu sự kiện, với dữ liệu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) có thông báo
chia tách cổ phiếu trong giai đoạn từ 2012 - 2015, kết quả nghiên
cứu cho thấy NĐTNN có quan tâm đến thông báo chia tách và thực
hiện các giao dịch mua, bán bất thường xung quanh ngày sự kiện.
Thêm vào đó, giao dịch mua, bán của NĐTNN được thực hiện với
quy mô khối lượng lớn hơn ở các ngày sau ngày thông báo so với
trước ngày thông báo.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 548 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài với thông báo chia tách cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 202- Tháng 3. 2019
Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài với
thông báo chia tách cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Võ Xuân Vinh
Đặng Bửu Kiếm
Ngày nhận: 18/03/2019 Ngày nhận bản sửa: 18/03/2019 Ngày duyệt đăng: 25/03/2019
Bài báo này nhằm mục tiêu nghiên cứu phản ứng của nhà đầu tư
nước ngoài (NĐTNN) thông qua khối lượng giao dịch cổ phiếu xung
quanh ngày thông báo chia tách cổ phiếu. Bằng phương pháp nghiên
cứu sự kiện, với dữ liệu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) có thông báo
chia tách cổ phiếu trong giai đoạn từ 2012 - 2015, kết quả nghiên
cứu cho thấy NĐTNN có quan tâm đến thông báo chia tách và thực
hiện các giao dịch mua, bán bất thường xung quanh ngày sự kiện.
Thêm vào đó, giao dịch mua, bán của NĐTNN được thực hiện với
quy mô khối lượng lớn hơn ở các ngày sau ngày thông báo so với
trước ngày thông báo.
Từ khóa: giao dịch nhà đầu tư nước ngoài, thông báo chia tách cổ
phiếu, nghiên cứu sự kiện.
1. Giới thiệu
hà đầu tư nước ngoài và giao
dịch của NĐTNN trên thị
trường chứng khoán (TTCK) ở
các nước mới nổi luôn thu hút
sự quan tâm của các nhà đầu tư
và các nhà phân tích tài chính. Đối với nhà đầu
tư quốc tế, các thị trường mới nổi được xem
là điểm đến có nhiều cơ hội đầu tư hơn trong
khi tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển
ngày càng thấp. Thêm vào đó, các nước mới nổi
ngày càng hấp dẫn và thể hiện những lợi thế về
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các chuẩn mực
trong kinh tế và tài chính được cải thiện dựa
trên những chính sách cải tổ kinh tế. Hơn nữa,
các nhà đầu tư quốc tế cũng chịu áp lực ngày
càng cao về việc tìm kiếm cơ hội đầu tư để đa
dạng hóa danh mục đầu tư.
Việt Nam là một trong những quốc gia nổi bậc
thuộc nhóm thị trường biên, mới nổi. Sự phát
triển của TTCK Việt Nam dường như có vai trò
đóng góp tích cực quan trọng của các NĐTNN.
Vai trò to lớn này thể hiện qua sự đóng góp của
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
57Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
các NĐTNN cho sự phát triển của các công ty
mà họ nắm giữ cổ phiếu (Batten & Vo, 2015).
Sự tham gia ngày càng sâu rộng của NĐTNN
được xem như là động lực cho sự phát triển của
TTCK Việt Nam. Bên cạnh đó, NĐTNN cũng
có ảnh hưởng lớn đến thị trường khi mà thông
tin về giao dịch của các NĐTNN được coi như
là một nguồn thông tin tham khảo quan trọng
cho các nhà đầu tư khác trong các quyết định
giao dịch. Do vậy, các chính sách gần đây của
Chính phủ hướng sự quan tâm đến NĐTNN và
từng bước cải cách chính sách, hoàn thiện thể
chế để phù hợp hơn trong bối cảnh hội nhập1.
Về mặt học thuật, giao dịch của các NĐTNN là
một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều học
giả. Trên thế giới, trong kho tàng học thuật đã
có rất nhiều nghiên cứu quan tâm xem xét về
chủ đề đầu tư của các NĐTNN được xuất bản
ở các tạp chí khoa học có uy tín. Trong những
năm gần đây, các chủ đề liên quan đến NĐTNN
đã bắt đầu được quan tâm nghiên cứu ở nhiều
khía cạnh hơn (Võ Xuân Vinh & Đặng Bửu
Kiếm, 2016, 2017a, 2017b). Tuy nhiên, sự đa
dạng chủ đề cần quan tâm nghiên cứu liên quan
đến các NĐTNN cũng như vai trò quan trọng
của các NĐTNN trên TTCK Việt Nam đòi hỏi
phải có nhiều nghiên cứu ở các khía cạnh khác
nhau để tạo ra sự hiểu biết tổng thể.
Các NĐTNN từ các nước phát triển đến các
nước mới nổi thông thường là những nhà đầu
tư tổ chức có kinh nghiệm và có quy mô vốn
lớn nên các giao dịch của họ thường được coi là
mang nhiều thông tin và có ảnh hưởng lớn đến
thị trường. Ở Việt Nam, thông tin giao dịch của
các NĐTNN cũng như thông tin về chia tách
cổ phiếu của các công ty niêm yết là những chủ
đề quan trọng trong thực tiễn. Phản ứng của thị
trường đối với thông báo chia tách cổ phiếu đã
được nhiều học giả nghiên cứu và cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu được xuất bản về
chủ đề này ở các tạp chí có uy tín. Ở Việt Nam,
phản ứng của thị trường khi doanh nghiệp công
bố thông tin chia tách cổ phiếu đã được xem xét
trong nghiên cứu của Võ Xuân Vinh và Phan
Thị Anh Thư (2014). Tuy nhiên, nghiên cứu
này mới chỉ dừng lại ở việc xem xét phản ứng
1 Có thể kể đến như chính sách nới “room” cho NĐTNN:
Nghị định 60/2015 thay thế Nghị định 58/2012 hướng dẫn
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/9/2015.
của thị trường nói chung thông qua thanh khoản
cổ phiếu và chưa phân tích đến hành vi giao
dịch của NĐTNN.
Để làm phong phú hơn chủ đề nghiên cứu và
lấp lỗ hổng trong kho tàng học thuật, bài báo
này bổ sung cho nghiên cứu trước bằng việc
xem xét cụ thể hơn phản ứng của các NĐTNN
đối với việc doanh nghiệp công bố thông tin
chia tách cổ phiếu. Nói cách khác, bài báo này
xem xét giao dịch của các NĐTNN đối với
thông báo chia tách cổ phiếu của các doanh
nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
Phần tiếp theo của bài báo sẽ trình bày rõ hơn
về vấn đề chia tách cổ phiếu và các cơ sở lý
thuyết giải thích cho sự thay đổi của khối lượng
giao dịch nói chung, hành vi giao dịch của
nhà đầu tư xung quanh thông báo chia tách cổ
phiếu. Thêm vào đó, phần tiếp theo cũng sẽ
lược khảo một số nghiên cứu trước liên quan
đến ảnh hưởng thông báo chia tách cổ phiếu
đến khối lượng giao dịch.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Lý thuyết về chia tách cổ phiếu
Về mặt lý thuyết, việc chia tách cổ phiếu được
coi là một kỹ thuật thông thường của các nhà
quản trị doanh nghiệp mà không làm thay đổi
giá trị doanh nghiệp vì khi công ty chia tách
cổ phiếu thì giá cổ phiếu cũng được điều chỉnh
theo tương ứng. Tuy vậy, chia tách cổ phiếu
làm cho số lượng cổ phiếu nhiều hơn và thị
giá của cổ phiếu sẽ thấp hơn nên thường được
kỳ vọng là giao dịch cổ phiếu sẽ sôi động
hơn (Elfakhani & Lung, 2003; Muscarella &
Vetsuypens, 1996).
2.2. Lý thuyết về khối lượng giao dịch
Trong nghiên cứu trước Võ Xuân Vinh và
Đặng Bửu Kiếm (2017a) đã trình bày chi tiết lý
thuyết về khối lượng giao dịch được phát triển
bởi Karpoff (1986). Lý thuyết này giải thích
cho sự thay đổi của khối lượng (phản ứng của
khối lượng giao dịch) khi thông tin công bố.
Khối lượng giao dịch có sự thay đổi là bởi các
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
nhà tạo lập thị trường hoặc những tác nhân đại
diện thị trường thường đưa ra các nhu cầu về
mức giá và ngẫu nhiên gặp những giao dịch
tiềm năng (Karpoff, 1986). Đồng thời, thông
tin ảnh hưởng đến khối lượng giao dịch dựa
trên các khác biệt trong cách đánh giá thông tin
và sự kỳ vọng thông tin là khác nhau giữa các
nhà đầu tư. Do vậy, khối lượng giao dịch luôn
có những biến động xung quanh ngày công bố
thông tin (Võ Xuân Vinh và Đặng Bửu Kiếm
2017a).
2.3. Một số các nghiên cứu trước
Copeland (1979) là một trong số những nghiên
cứu đầu tiên về tác động của chia tách cổ phiếu
đến khả năng thanh khoản của chứng khoán ở
trước và sau sự kiện. Kết quả nghiên cứu tìm
thấy bằng chứng khối lượng giao dịch suy giảm
sau ngày công bố nhưng chênh lệch giữa giá
hỏi mua và bán gia tăng. Sau đó, nhiều nghiên
cứu khác cũng được thực hiện để nghiên cứu
tác động của chia tách cổ phiếu đến giá và khối
lượng giao dịch. Chẳng hạn, Easley, O’hara,
and Saar (2001) nghiên cứu chia tách cổ phiếu
có tác động như thế nào đến hành vi giao dịch
của các nhà đầu tư với mẫu dữ liệu là các công
ty niêm yết trên sàn NYSE. Kết quả nghiên cứu
cho thấy rằng chia tách cổ phiếu thu hút các
nhà đầu tư và gia tăng lượng giao dịch trên thị
trường. Elfakhani and Lung (2003) nghiên cứu
hành vi của thị trường xung quanh thông tin
chia tách cổ phiếu tại thị trường Canada giai
đoạn 1977- 1993. Các tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu sự kiện và họ tìm thấy chỉ số
lợi nhuận bất thường tồn tại xung quanh ngày
sự kiện. Đặc biết khối lượng giao dịch và số
lượng các giao dịch gia tăng đáng kể, nói cách
khác thanh khoản cổ phiếu tăng tại ngày sự
kiện. Dhar, Goetzmann, and Zhu (2004) phân
tích hành vi giao dịch của các nhà đầu tư các
nhân và nhà đầu tư chuyên nghiệp xung quanh
sự kiện thông báo chia tách cổ phiếu tại thị
trường chứng khoán Mỹ giai đoạn 1991- 1996.
Nghiên cứu cho thấy sau sự kiện thông báo chia
tách, giao dịch của nhà đầu tư cá nhân tăng
đáng kể và điều này không xảy ra đối với nhà
đầu tư chuyên nghiệp, thậm chí là giảm giao
dịch. Tác giả cũng kết luận rằng, chia tách cổ
phiếu giúp thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới
và cải thiện thanh khoản cổ phiếu. Với mẫu
dữ liệu bao gồm 3.721 sự kiện tách cổ phiếu
của các công ty niêm yết trên sàn NYSE và
NASDAQ trong suốt 30 năm từ 1975- 2004,
Lin, Singh, and Yu (2009) cho thấy rằng việc
chia tách cổ phiếu có thể cải thiện tính thanh
khoản cổ phiếu với mức chi phí thấp thông qua
việc kích thích và gia tăng các giao dịch của
nhà đầu tư, đặc biệt đối với những cổ phiếu có
tính thanh khoản kém. Việc chia tách cổ phiếu
như là một giải pháp hữu hiệu để cải thiện
khả năng thanh khoản. Huang, Liano, and Pan
(2009) nghiên cứu thông tin hàm chứa trong
chia tách cổ phiếu với mẫu dữ liệu bao gồm
2.148 sự kiện chia tách của các công ty niêm
yết trên NYSE, AMEX và NASDAQ giai đoạn
1963- 1999. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc
chia tách cổ phiếu không giúp cải thiện hiệu
năng hoạt động của công ty trong dài hạn,
nhưng có tác động tích cực đến thanh khoản
của cổ phiếu trên thị trường. Tuy nhiên, Chen,
Nguyen, and Singal (2011) chỉ ra rằng chia
tách cổ phiếu không những cải thiện tính thanh
khoản cổ phiếu mà còn hàm chứa thông tin
tương lai. Huang, Liano, and Pan (2015) phân
tích tác động của chia tách cổ phiếu đến thanh
khoản của chứng khoán trên thị trường. Mẫu dữ
liệu bao gồm 6.463 thông báo chia tách trong
suốt 40 năm từ 1960- 2010 của các công ty
niêm yết trên sàn NYSE, AMEX và NASDAQ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thanh khoản cổ
phiếu tăng đáng kể xung quanh thời điểm thông
báo. Sau ngày thông báo, thanh khoản cổ phiếu
mặc dù giảm nhưng vẫn cao hơn trước thời
điểm thông báo. Đồng thời, các hiệu ứng của
thông tin làm thay đổi thanh khoản cổ phiếu
chỉ diễn ra trong ngắn hạn. Ở Việt Nam, Võ
Xuân Vinh và Phan Thị Anh Thư (2014) cũng
thực hiện phân tích những ảnh hưởng của thông
báo chia tách cổ phiếu đến giá và khối lượng
giao dịch thông qua việc xem xét lợi nhuận
bất thường và tính thanh khoản cổ phiếu xung
quanh ngày thông báo. Kết quả nghiên cứu của
các tác giả cho thấy giá cổ phiếu có sự thay
đổi bất thường ở các ngày xung quanh sự kiện
và thanh khoản cổ phiếu được cải thiện rõ sau
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
thông báo chia tách.
Tóm lại, xem xét ở góc thanh khoản, các kết
quả của đa số nghiên cứu trước đều cho thấy
chia tách cổ phiếu giúp cải thiện tính thanh
khoản cổ phiếu. Tuy nhiên, chưa có nghiên
cứu nào phân tích đến hành vi giao dịch của
các thành phần tham gia trên thị trường đối với
sự kiện chia tách cổ phiếu. Nghiên cứu này bổ
sung cho nghiên cứu trước bằng việc xem xét
cụ thể hơn phản ứng của NĐTNN- một thành
phần quan trọng trên thị trường Việt Nam, đối
với thông tin chia tách cổ phiếu.
3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu
sự kiện (event study) để xem xét phản ứng của
NĐTNN thể hiện qua khối lượng giao dịch mua
và bán bất thường với thông tin chia tách cổ
phiếu. Một số bước triển khai được thực hiện
bao gồm: (1) Xác định sự kiện nghiên cứu. Sự
kiện dùng trong nghiên cứu này là thời điểm
thông báo chia tách cổ phiếu, nói cách khác
là thời điểm thông báo cổ tức bằng cổ phiếu
của các công ty niêm yết trên HOSE. (2) Xác
định các khung thời gian, bao gồm: khung ước
lượng là 60 ngày [-65; -6]; khung sự kiện là 5
ngày [-5;5]. (3) Tính khối lượng giao dịch bất
thường, tham khảo các nghiên cứu của Gupta
& Misra (1988); Harris & Gurel (1986) và Võ
Xuân Vinh & Đặng Bửu Kiếm (2017), tác giả
tính toán khối lượng mua và khối lượng bán bất
thường của NĐTNN như sau:
Khối lượng mua bất thường của NĐTNN được
xác định như sau:
trong đó, MFV
bi
là khối lượng giao dịch mua
bình thường của NĐTNN đối với cổ phiếu i;
V
fbit
là khối lượng giao dịch mua của NĐTNN
đối với cổ phiếu i vào ngày t; V
mfbt
là tổng
khối lượng giao dịch mua toàn thị trường của
NĐTNN tại ngày t; AV
fbit
là chỉ số khối lượng
giao dịch mua bất thường của NĐTNN đối với
cổ phiếu i vào ngày t; AAV
fbt
là chỉ số khối
lượng giao dịch mua bất thường trung bình của
NĐTNN vào ngày t cho toàn bộ sự kiện trong
mẫu.
Khối lượng bán bất thường của NĐTNN được
xác định hoàn toàn tương tự như khối lượng
mua bất thường của NĐTNN.
(4) Kiểm định, nghiên cứu sử dụng phương
pháp kiểm định t test để kiểm tra các bất thường
trong khối lượng giao dịch.
3.2. Dữ liệu thu thập
Tác giả thu thập thông tin mua cổ phiếu quỹ
thông qua trang công bố thông tin của HOSE
tại www.hsx.vn giai đoạn từ 2012- 2015. Thời
điểm công bố thông tin chia tách là thời điểm
mà trên trang web của HOSE hiển thị thông
tin thông báo của doanh nghiệp. Nếu thời điểm
thông báo chia tách rơi vào các ngày nghỉ hoặc
thứ 7, chủ nhật hoặc sau 3 giờ chiều thì ngày
sự kiện được tính là ngày giao dịch tiếp theo.
Đồng thời, các sự kiện nếu không đáp ứng đủ
số ngày trong các khung dự báo thì sẽ bị loại
khỏi mẫu nghiên cứu. Sau khi thu thập các sự
kiện thỏa các tiêu chuẩn, mẫu gồm có 194 sự
kiện chia tách cổ phiếu từ 2012- 2015, cụ thể
được thống kê ở Bảng 1. Ngoài ra, các số liệu
thị trường về khối lượng giao dịch mua và bán
Bảng 1. Tổng hợp các sự kiện trong mẫu
nghiên cứu
Năm Số sự kiện
2012 40
2013 42
2014 46
2015 66
Tổng 194
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
của NĐTNN cũng được tác giả thu thập trên
www.hsx.vn.
4. Kết quả và thảo luận kết quả
Bảng 2 trình bày các kết quả về phản ứng của
NĐTNN với thông báo chia tách cổ phiếu
của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam (sàn
HOSE). Hành vi giao dịch của NĐTNN được
xem xét dựa trên các giao dịch mua và bán
xung quanh ngày sự kiện. Các kết quả ở Bảng
2 cho thấy cơ bản NĐTNN có thực hiện các
giao dịch mua và bán bất thường xung quanh
sự kiện chia tách cổ phiếu. Cụ thể, tồn tại khối
lượng giao dịch mua bất thường dương kể từ
ngày thông báo đến ngày thứ 4 sau ngày sự kiện
và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (AAV_fb[0]:
1,746; AAV_fb[1]: 1.26; AAV_fb[2]: 1.854;
AAV_fb[3]: 0,436; AAV_fb[4]: 1,684). Tồn
tại khối lượng giao dịch bán bất thường dương
ở các ngày trước (trừ ngày -3), trong và sau sự
kiện và tất cả đều có ý nghĩa thống kê ở mức
1% (AAV_fs[-5]: 2,538; AAV_fs[4]: 0,503;
AAV_fs[-2]: 0,616; AAV_fs[-1]: 0,839; AAV_
fs[0]: 1,665; AAV_fs[1]: 2,320; AAV_fs[2]:
2,777; AAV_fs[3]: 0,920; AAV_fs[4]: 3,873 và
AAV_fs[5]: 1,300).
Thêm vào đó, kết quả ở Bảng 2 cũng cho thấy
chỉ số khối lượng giao dịch mua và bán bất
thường của NĐTNN ở giai đoạn sau ngày sự
kiện đều lớn hơn so với giai đoạn trước khi sự
kiện công bố. Dựa vào các kết quả phân tích
trên có thể thấy rằng, NĐTNN có sự quan tâm
đến thông tin chia tách cổ phiếu của doanh
nghiệp, đồng thời họ cũng thực hiện các giao
dịch với quy mô khối lượng lớn hơn kể từ sau
ngày thông báo. Nói cách khác, thông tin chia
tách giúp cải thiện tính thanh khoản của cổ
phiếu và thu hút các giao dịch của NĐTNN.
Nếu Võ Xuân Vinh và Phan Thị Anh Thư
(2014) tìm thấy bằng chứng thanh khoản cổ
phiếu được cải thiện sau ngày thông báo chia
tách thì nghiên cứu này cho thấy NĐTNN là
một trong những tác nhân góp phần cải thiện
tính thanh khoản cổ phiếu.
5. Kết luận
Bài báo này nghiên cứu hành vi giao dịch của
NĐTNN đối với thông báo chia tách cổ phiếu.
Mẫu dữ liệu bao gồm 194 sự kiện chia tách cổ
phiếu từ 2012- 2015 của các doanh nghiệp niêm
yết trên HOSE. Nhóm tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu sự kiện. Kết quả nghiên cứu
cho thấy NĐTNN có quan tâm đến thông báo
chia tách và thực hiện các giao dịch mua, bán
bất thường xung quanh ngày sự kiện. Thêm vào
đó, giao dịch mua, bán của NĐTNN được thực
hiện với quy mô khối lượng lớn hơn ở các ngày
sau ngày thông báo so với trước ngày thông
báo. ■
Bảng 2. Phản ứng khối lượng giao dịch của
NĐTNN với thông báo chia tách
T AAV_fb T stat AAV_ fs T stat
-5 0,201 1,50 2,538 17,05***
-4 0,137 1,02 0,503 3,38***
-3 0,486 3,62*** 0,215 1,44
-2 0,202 1,50 0,616 4,14***
-1 0,111 0,82 0,839 5,63***
0 1,746 13,01*** 1,665 11,18***
1 1,260 9,38*** 2,320 15,58***
2 1,854 13,81*** 2,777 18,65***
3 0,436 3,25*** 0,920 6,18***
4 1,684 12,55*** 3,873 26,02***
5 0,031 0,23 1,300 8,73***
AAV_fb và AAV_fs là chỉ số khối lượng giao dịch
mua bất thường trung bình và chỉ số khối lượng giao
dịch bán bất thường trung bình của NĐTNN; *, **
và *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê là 10%,
5% và 1%.
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Lời cám ơn/Ghi nhận: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và công nghệ Quốc gia
(NAFOSTED) trong đề tài mã số 502.99-2015.27.
Tài liệu tham khảo
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
61Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
1. Batten, J. A., & Vo, X. V. (2015). Foreign ownership in emerging stock markets. Journal of Multinational Financial
Management, 32, 15-24.
2. Chen, H., Nguyen, H. H., & Singal, V. (2011). The information content of stock splits. Journal of Banking & Finance, 35(9),
2454-2467.
3. Copeland, T. E. (1979). Liquidity changes following stock splits. The Journal of Finance, 34(1), 115-141.
4. Dhar, R., Goetzmann, W. N., & Zhu, N. (2004). The impact of clientele changes: evidence from stock splits.
5. Easley, D., O’hara, M., & Saar, G. (2001). How stock splits affect trading: A microstructure approach. Journal of Financial
and Quantitative Analysis, 36(1), 25-51.
6. Elfakhani, S., & Lung, T. (2003). The effect of split announcements on Canadian stocks. Global Finance Journal, 14(2), 197-
216.
7. Huang, G.-C., Liano, K., & Pan, M.-S. (2009). The information content of stock splits. Journal of Empirical Finance, 16(4),
557-567.
8. Huang, G.-C., Liano, K., & Pan, M.-S. (2015). The effects of stock splits on stock liquidity. Journal of Economics and
Finance, 39(1), 119-135.
9. Karpoff, J. M. (1986). A theory of trading volume. The Journal of Finance, 41(5), 1069-1087.
10. Lin, J.-C., Singh, A. K., & Yu, W. (2009). Stock splits, trading continuity, and the cost of equity capital. Journal of Financial
Economics, 93(3), 474-489.
11. Muscarella, C. J., & Vetsuypens, M. R. (1996). Stock splits: Signaling or liquidity? The case of ADR ‘solo-splits’. Journal of
Financial Economics, 42(1), 3-26.
12. Võ Xuân Vinh, & Đặng Bửu Kiếm. (2016). Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài với thông báo chi trả cổ tức bằng tiền mặt.
Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, 121 (tháng 4. 2016), 11-17.
13. Võ Xuân Vinh, & Đặng Bửu Kiếm. (2017a). Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài với thông báo mua cổ phiếu quỹ. Tạp chí
Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, 185 (tháng 10. 2017), 9-15.
14. Võ Xuân Vinh, & Đặng Bửu Kiếm. (2017b). Tác động của thông báo phát hành thêm cổ phiếu đến khối lượng giao dịch-
nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, 187 (tháng 12. 2017), 41-48.
15. Võ Xuân Vinh, & Phan Thị Anh Thư. (2014). Lợi nhuận bất thường và tính thanh khoản của cổ phiếu đối với thông báo
chia tách cổ phiếu: Nghiên cứu thực nghiệm trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, 105, tháng
12/2014, 42-52.
Thông tin tác giả
Võ Xuân Vinh
Emai