Lịch sử công tác xã hội học đường/trường học ở Mỹ
Lịch sử công tác xã hội học đường ở Mỹ bắt đầu từ hơn 100 năm trước. Đầu
thập niên 1900, tại 3 thành phố lớn của Mỹ là Hathfod, Boston và New York, nhân
viên phúc lợi xã hội của các cơ quan trong cộng đồng địa phương đã bắt đầu đến
thăm trường học để hỗ trợ cho những trẻ em cần bảo hộ ở địa phương. Những nhân2
viên này được gọi là ‘giáo viên thăm hỏi’ (visiting teacher) và đó chính là mô hình
tiền thân để ngày nay nhân viên công tác xã hội học đường được công nhận là nhân
lực chuyên môn hoạt động bên trong nhà trường. Trong 100 năm qua công tác xã
hội học đường ở Mỹ đã, đang và sẽ không ngừng biến đổi theo hoàn cảnh xã hội và
môi trường giáo dục
77 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 2335 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Công tác xã hội trường học: Vấn đề cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CÔNG TÁC XÃ HỘI TRƯỜNG HỌC: VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1.Lịch sử hình thành công tác xã hội trong trường học
Theo các tài liệu đã được công bố năm 1871 Vương quốc Anh là nước đầu
tiên trên thế giới triển khai các dịch vụ công tác xã hội vào trong hệ thống các
trường học, trong đó các nhân viên công tác xã hội học đường có nhiệm vụ giúp đỡ
học sinh vượt qua những khó khăn về tâm lý xã hội, giúp các em học sinh phát huy
tối đa tiềm năng và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập. Sau đó là các trường
học tại New York, Boston và Hartfort vào năm 1906 trong nỗ lực hỗ trợ chương
trình xóa mù chữ trong các gia đình ở Mỹ. Tiếp đó là sự phát triển công tác xã hội
học đường ở Thụy Điển năm 1950, các nước Canada, Autralia vào những năm
1940, các nước châu Âu như Phần Lan, Đức vào những năm 1960, New Zeland,
Singgapore, Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kong) vào thập kỉ 70, cho đến những
năm 80 và 90 tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ, Ả Rập Xê ut
Như vậy, công tác xã hội trong trường học đã xuất hiện từ rất sớm, bắt đầu ở
các nước phương Tây có nền an sinh xã hội phát triển rồi lan rộng sang các nước
châu Á, châu Úc.
Tuy nhiên, đến nay, ngành công tác xã hội học đường phát triển hơn cả vẫn
là ở Mỹ, mô hình công tác xã hội học đường ở Mỹ có thể gọi là nền móng vững
chắc để phát triển ngành công tác xã hội học đường nói chung. Trong khuôn khổ
cuốn sách này, chúng tôi sẽ giới thiệu về lịch sử hình thành công tác xã hội học
đường ở Mỹ, để bạn đọc có cái nhìn tổng quan hơn về công tác xã hội học đường.
a) Lịch sử công tác xã hội học đường/trường học ở Mỹ
Lịch sử công tác xã hội học đường ở Mỹ bắt đầu từ hơn 100 năm trước. Đầu
thập niên 1900, tại 3 thành phố lớn của Mỹ là Hathfod, Boston và New York, nhân
viên phúc lợi xã hội của các cơ quan trong cộng đồng địa phương đã bắt đầu đến
thăm trường học để hỗ trợ cho những trẻ em cần bảo hộ ở địa phương. Những nhân
2
viên này được gọi là ‘giáo viên thăm hỏi’ (visiting teacher) và đó chính là mô hình
tiền thân để ngày nay nhân viên công tác xã hội học đường được công nhận là nhân
lực chuyên môn hoạt động bên trong nhà trường. Trong 100 năm qua công tác xã
hội học đường ở Mỹ đã, đang và sẽ không ngừng biến đổi theo hoàn cảnh xã hội và
môi trường giáo dục.
Thời kỳ giáo viên thăm hỏi (Nửa đầu thập niên 1900~ thập niên 1930)
Nửa đầu thập niên 1900 nhân viên công tác xã hội thuộc các cơ quan xã hội
địa phương ở 3 thành phố của Mỹ là Hathfod, Boston và New York đã thăm hỏi
các trường học ở địa phương với tư cách là giáo viên thăm hỏi. Công việc của giáo
viên thăm hỏi ở đây chủ yếu hỗ trợ các em học sinh cần bảo hộ để các em thích
nghi với trường học và nâng cao thành tích học tập, cung cấp dịch vụ liên kết giữa
cộng đồng địa phương-trường học-gia đình và hỗ trợ để trường học có thể thực
hiện chính sách giáo dục theo sự biến đổi của môi trường xã hội.
Năm 1913 lần đầu tiên Sở giáo dục New York đã tuyển dụng giáo viên thăm
hỏi vào vị trí giáo viên chính thức và điều này là tiền đề để nhân viên công tác xã
hội trong trường học được công nhận là nhân lực chuyên môn của chế độ trường
học. Năm 1919 Hiệp hội giáo viên thăm hỏi Mỹ (National Association of Visiting
Teachers) được thành lập.
Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn đưa nhân viên công tác xã hội vào học
đường, Mỹ nhận thấy có sự thay đổi tích cực với các vấn đề trong trường học và
nhân viên công tác xã hội đã được tuyển dụng vào vị trí chính thức trong trường
học, không còn là cán bộ chuyên trách đứng ngoài hệ thống nhà trường. Vai trò
quan trọng nhất của nhân viên công tác xã hội trường học thời kỳ này là liên kết
cộng đồng địa phương-trường học-gia đình và hỗ trợ để trường học thực hiện chính
sách giáo dục tùy theo sự biến đổi của môi trường xã hội và điều chỉnh chính sách
trường học có ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em.
Thời kỳ chuyên môn hóa (Thập niên 1940~ nửa đầu thập niên 1980)
3
Từ nửa sau thập niên 1920, xã hội Mỹ quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe tinh
thần.Chính từ ảnh hưởng đó, vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trường
học cũng bắt đầu thay đổi. Vai trò người liên kết giữa cộng đồng xã hội - trường
học - gia đình như lúc ban đầu đã chuyển dần thành vai trò của chuyên gia sức
khỏe tinh thần và nhấn mạnh phòng ngừa và điều trị sức khỏe tinh thần.
Nhân viên phúc lợi xã hội dần dần được công nhận là nhân lực chuyên môn
trong chế độ học đường thì tên gọi của giáo viên thăm hỏi cũng được đổi thành
nhân viên Công tác xã hội học đường,và vào năm 1945 Hiệp hội giáo viên thăm
hỏi Mỹ (National Association of Visiting Teachers) đổi tên thành Hiệp hội nhân
viên CTXHHĐ Mỹ (National Association of School Social Workers).
Trong thời gian này, nhân viên công tác xã hội học đường quan tâm chủ yếu
đến sức khỏe tinh thần của học sinh. Tuy nhiên trong thập niên 1960 diễn ra cuộc
vận động nhân quyền có bàn về các vấn đề bất bình đẳng cơ hội giáo dục trên toàn
xã hội, sự thiếu hi vọng của giáo viên với trẻ em thuộc giai cấp thu nhập thấp và sự
xa lánh từ nhà trường của phụ huynh học sinh. Vì những lý do đó, Nhân viên công
tác xã hội học đường đã hỗ trợ để tái cơ cấu chức năng của nhà trường một lần nữa
và nhấn mạnh sự can thiệp tích cực vào môi trường xã hội gây ảnh hưởng lên
trường học và học sinh.
Trong thời điểm đó, Luật giáo dục trẻ em khuyết tật (Education for All
Handicapped Children Act) thông qua năm 1975 đã đưa ra căn cứ hợp pháp chứng
minh học sinh khuyết tật được xem là đối tượng dịch vụ chủ yếu của nhân viên
công tác xã hội học đường.
Thời kì dịch vụ tổng hợp liên kết trường học (Nửa sau thập niên 1980 đến nay)
Từ sau thập niên 1980 ở Mỹ đặt ra câu hỏi về chất lượng giáo dục nhà
trường và các cuộc vận động cải cách giáo dục được triển khai từ đó. Như vậy,
ngoài chức năng giáo dục, trường học còn được hiểu là hệ thống xã hội cung cấp
các dịch vụ phúc lợi phổ quát và được hiểu là trung tâm liên kết và cung cấp các
4
dịch vụ y tế xã hội đa dạng cần thiết cho học sinh. Từ nhu cầu đó dịch vụ liên kết
trường học (school- linked services) được ra đời và xem như là mô hình mới của
công tác xã hội học đường. Trong mô hình này, nhân viên công tác xã hội học
đường được nhấn mạnh ở vai trò người quản lý tình huống cụ thể không chỉ cung
cấp trực tiếp các dịch vụ công tác xã hội học đường cho học sinh mà con liên kết
và quản lý các nguồn lực đa dạng trong cộng đồng địa phương. Và Nhân viên công
tác xã hội học đường được nhấn mạnh hơn ở vai trò liên kết và điểu chỉnh gia đình,
trường học và cộng đồng địa phương.
Học sinh khuyết tật vẫn là đối tượng dịch vụ chủ yếu của nhân viên công tác
xã hội học đường và nhân viên công tác xã hội học đường thực hiện vai trò tích
cực hơn nữa khi can thiệp giai đoạn đầu với trẻ em khuyết tật.
Ngoài ra, do nhu cầu đa dạng của dân số học sinh cũng như đói nghèo, lạm
dụng thuốc và bạo lực tăng lên nên tính cần thiết của việc nhân viên công tác xã
hội học đường phải can thiệp tích cực vào các dịch vụ giải quyết triệt để đói nghèo,
lạm dụng chất độc hại và bạo lực được nhấn mạnh hơn. (Allen-Meares et al.,
2000).
Tiêu chuẩn công tác xã hội học đường của Hiệp hội nhân viên công tác
xã hội Mỹ năm 2002.
1.Nhân viên CTXHHĐ tuân thủ giá trị và luân lý của nghề chuyên môn CTXH và làm
theo chỉ dẫn luân lý của hiệp hội nhân viên CTXH Mỹ khi đưa ra quyết định mang
tính luân lý.
2. Nhân viên CTXHHĐ phải chú ý đến thứ tự trước sau của trách nhiệm khi thực hiện
trách nhiệm và vai trò được giao để tổ chức thời gian, năng lượng và nhiệm vụ.
3. Nhân viên CTXHHĐ tư vấn để nhân viên các cơ quan xã hội địa phương, thành
viên Ủy ban điều hành nhà trường và các đại biểu của cộng đồng địa phương có thể
hiểu rõ và ứng dụng hiệu quả hơn các dịch vụ CTXHHĐ.
5
4. Nhân viên CTXHHĐ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho học sinh và gia đình học sinh
giúp họ hiểu tính đa dạng của văn hóa.
5. Mở rộng các dịch vụ CTXHHĐ theo hướng tham gia tối đa nhằm nâng cao năng lực cá
nhân của học sinh và giúp học sinh tự lên kế hoạch học tập cho mình.
6. Nhân viên CTXHHĐ củng cố khả năng để học sinh và gia đình học sinh có thể sử
dụng hiệu quả các nguồn lực chính thức và phi chính thức trong cộng đồng địa phương.
7.Nhân viên CTXHHĐ tuân thủ các điều lệ bảo hộ cuộc sống riêng và giữ bí mật.
8. Nhân viên CTXHHĐ ủng hộ học sinh và gia đình học sinh có hoàn cảnh đa dạng.
9.Nhân viên CTXHHĐ làm việc với tư cách vừa là người lãnh đạo vừa là thành viên
của nhóm đa chuyên môn, hợp lực để huy động các nguồn lực trong cộng đồng địa
phương và các cơ quan giáo dục thuộc địa phương có tác dụng đáp ứng nhu cầu của
học sinh và gia đình học sinh.
10.Nhân viên CTXHHĐ xây dựng và cung cấp các chương trình tập huấn và giáo dục
phù hợp với mục đích và sứ mệnh của giáo dục.
11.Nhân viên CTXHHĐ bảo quản tài liệu chính xác liên quan đến kế hoạch, điều
hành và đánh giá các dịch vụ CTXHHĐ.
12.Nhân viên CTXHHĐ cung cấp thông tin hỗ trợ trực tiếp khi thực hiện kế hoạch can
thiệp các hành vi có vấn đề và giải quyết nhu cầu của từng cá nhân học sinh.
13. Nhân viên CTXHHĐ cụ thể hóa các kế hoạch đánh giá có ích cho việc triển khai
và thi hành can thiệp trên cơ sở hoàn cảnh và nâng cao năng lực học tập.
14.Nhân viên CTXHHĐ với tư cách là người trung gian biến đối hệ thống, xây dựng
các dịch vụ mà họ có thể xác định và thúc đẩy các nhu cầu mà các cơ quan giáo dục
địa phương và cộng đồng địa phương không thể nắm bắt.
15.Nhân viên CTXHHĐ được tập huấn các chiến lược hòa giải hay giải quyết mâu
thuẫn và áp dụng nó giúp học sinh có thể giải quyết những xung đột mang tính phi
sản xuất bên trong trường học hay cộng đồng địa phương, và phát triển quan hệ
6
mang tính sản xuất.
16. Nhân viên CTXHHĐ tuân theo quy định thực hành của Hiệp hội nhân viên CTXH Mỹ.
17. Nhân viên CTXHHĐ lĩnh hội và hiểu biết các tri thức chuyên môn về CTXHĐ.
18.Nhân viên CTXHHĐ hiểu bối cảnh gây ảnh hưởng đến học tập của học sinh và có
kinh nghiệm rộng lớn.
19. Nhân viên CTXHHĐ biết và hiểu tổ chức và cơ cấu của các cơ quan giáo dục địa phương.
20.Nhân viên CTXHHĐ biết và hiểu lực ảnh hưởng lẫn nhau giữa gia đình, nhà
trường và cộng đồng địa phương.
21.Nhân viên CTXHHĐ duy trì và bồi dưỡng các kỹ năng cần thiết cho điều tra mang
tính hệ thống.
22.Nhân viên CTXHHĐ hiểu trách nhiệm và mối quan hệ với quản lý gây ảnh hưởng
đến học sinh.
23.Nhân viên CTXHHĐ chọn lựa và áp dụng phương pháp ngăn ngừa và can thiệp có
tính khả năng cao hoặc được kiểm chứng thực tế bằng việc nâng cao kinh nghiệm
giáo dục cho học sinh.
24. Nhân viên CTXHHĐ đánh giá thực hành và thông báo các phát hiện đó cho người
tham gia, cơ quan giáo dục địa phương, cộng đồng địa phương và nhóm chuyên gia.
25.Nhân viên CTXHHĐ có kỹ năng liên hiệp các đơn vị địa phương, vùng , quốc gia
hỗ trợ cho học sinh thành công.
26.Nhân viên CTXHHĐ phát huy sự hợp tác với người cung cấp dịch vụ y tế tinh thần
và y tế cộng đồng địa phương, và giúp đỡ để học sinh dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ
này.
27. Nhân viên CTXHHĐ với tư cách là chuyên gia có trách nhiệm liên tục nghiên cứu
phương án phát triển tuân theo tiêu chuẩn và điều kiện của bộ chủ quản về giáo dục
chuyên môn liên tục của Hiệp hội CTXH Mỹ.
28.Nhân viên CTXHHĐ góp phần vào sự phát triển của nghề chuyên môn thông qua
7
giáo dục và hướng dẫn thanh tra nơi làm việc CTXHHĐ.
29.Bộ giáo dục hay các cơ quan của bộ chủ quản có trách nhiệm công nhận các
nguồn lực liên quan đến giáo dục quy định việc thực hành CTXHHĐ.
30.Bộ giáo dục hay các cơ quan của bộ chủ quản có trách nhiệm công nhận các nguồn lực
liên quan đến giáo dục phải tuyển dụng nhân viên CTXHHĐ đúng chuyên môn và có kinh
nghiệm vào vị trí chuyên gia CTXHHĐ của cơ quan dưới bộ chủ quản.
31. Nhân viên CTXHHĐ đúng chuyên môn được cơ quan giáo dục địa phương tuyển
dụng phải cung cấp các dịch vụ CTXHHĐ.
32.Cơ quan giáo dục địa phương phải tuyển dụng nhân viên CTXHHĐ có tiêu chuẩn
tư cách cao nhất.
33. Nhân viên CTXH trong nhà trường được gọi là ‘nhân viên CTXHHĐ’.
34.Lương và thưởng của nhân viên CTXHHĐ phải tuân thủ đúng theo giáo dục, trách
nhiệm và kinh nghiệm của họ, và bình đẳng với các chuyên gia có tư cách tương ứng
được cơ quan giáo dục địa phương tuyển dụng.
35.Cơ cấu hành chính của cơ quan giáo dục địa phương đưa ra mục tiêu tương lai
phù hợp của CTXHHĐ.
36.Cơ cấu hành chính của cơ quan giáo dục địa phương đưa ra chính sách rõ ràng về
nguồn gốc và trách nhiệm cho các chương trình CTXHHĐ.
37.Cơ quan giáo dục địa phương cung cấp môi trường làm việc chuyên môn để nhân
viên CTXHHĐ có thể thực hiện các dịch vụ một cách hiệu quả.
38.Cơ quan giáo dục địa phương tạo cơ hội cho nhân viên CTXHHĐ tham gia vào
các hoạt động phát triển chuyên môn có ích cho việc thực hành CTXHHĐ.
39.Mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ của dịch vụ CTXHHĐ phải rõ ràng nhưng cũng phải
liên quan trực tiếp đến sứ mệnh và quá trình đào tạo của cơ quan giáo dục địa phương.
40. Cơ quan giáo dục địa phương hỗ trợ để nhân viên CTXHHĐ có thể hợp tác với
người cung cấp các dịch vụ xã hội, y tế tinh thần và y tế cộng đồng địa phương liên quan
8
đến trường học nhằm tìm ra kế hoạch cho sự thành công về giáo dục của học sinh.
41. Phải đánh giá liên tục tất cả các chương trình của dịch vụ CTXHHĐ để phán
đoán liệu nó có góp phần vào sự thành công giáo dục học sinh.
42.Cơ quan giáo dục địa phương giải thích và hiểu tỷ lệ học sinh so với nhân viên
CTXHHĐ để đưa ra số lượng công việc phù hợp.
b) Lịch sử Công tác xã hội trường học ở Việt Nam
Công tác xã hội được coi là ngành khoa học khá mới ở Việt Nam, do vậy
công tác xã hội trường học được hình thành và phát triển dần dần với sự tác động
của ngành khoa học này đến các lĩnh vực của đời sống xã hội và với các đối tượng
khác nhau, tuy nhiên, ở Việt Nam, công tác xã hội trường học được phát triển hơn
cả ở miền Nam. Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở đào tạo về công tác
xã hội tiên phong trong cả nước khi mở mã ngành đào tạo công tác xã hội học
đường. Trong quá trình hình thành, để thúc đẩy sự phát triển của công tác xã hội
học đường trường Đại học Mở đã triển khai dự án thí điểm công tác xã hội học
đường tại hai trường Chu Văn An (Quận1) và Hưng Phú (Quận 8) từ năm 1999-
2001. Tại mỗi trường học này, có một nữ nhân viên công tác xã hội làm việc
thường xuyên với học sinh để giải quyết các vấn đề liên quan đến học hành, tình
cảm, tâm sinh lý, mối quan hệ thầy cô, vấn đề gia đình. Các em học sinh ở các
trường học này có thể đến các trung tâm công tác xã hội đặt trong trường gặp nhân
viên công tác xã hội để tìm kiếm sự giúp đỡ - các nhân viên công tác xã hội sẽ sử
dụng kiến thức, kĩ năng, phương pháp công tác xã hội phù hợp để giải quyết vấn đề
của học sinh đạt hiệu quả. Có thể thấy rằng từ những ngày đầu triển khai, mặc dù
nguồn nhân lực còn hạn chế, đối tượng mà nhân viên công tác xã hội tiếp cận trong
trường học chỉ là học sinh nhưng kết quả của dự án thí điểm công tác xã hội học
đường đã được đánh giá thành công, đã cải thiện được mối quan hệ giữa học sinh
với học sinh, học sinh với thầy cô giáo và các vấn đề cá nhân của học sinh.
9
Từ thành công của dự án thí điểm trên, tổ chức SCS (tổ chức cứu trợ trẻ em
Thụy Điển) đã phối hợp với ngành dân số gia đình và trẻ em thành phố Hồ Chí
Minh xây dựng 8 điểm tư vấn học đường tại 8 trường thuộc các quận 3,8,10, Tân
Bình và Gò Vấp và đã cũng đã mang lại hiệu quả rõ nét trong công tác xã hội học
đường hiện nay.
Và đến thời điểm này, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong
việc quan tâm đẩy mạnh mô hình tư vấn học đường. Các trường và các tổ chức
tham vấn học đường coi mô hình này như là biện pháp giúp học sinh hạ nhiệt
những vấn đề thuộc khuôn khổ tâm lý chứ chưa thực sự là công tác xã hội.
Ở các địa phương khác trong cả nước cũng thực hiện mô hình này ở trường
dưới hình thức có các trung tâm tư vấn học đường hay tham vấn học đường.Có thể
thấy rằng so với mạng lưới công tác xã hội thế giới, đặc biệt là nhìn từ mô hình
công tác xã hội Mỹ, chúng ta có thể nhận ra mô hình của Việt Nam chưa thật sự là
công tác xã hội trong trường học – Bởi chúng ta chỉ mới chú trọng mảng tư vấn
hay tham vấn học đường. Trong khi đó nhân viên công tác xã hội học đường là
những người được huấn luyện đặc biệt để giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ
em, học sinh và gia đình cũng như các thầy cô giáo của các em ở trong trường học.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, khi công tác xã hội là ngành mới
đang được quan tâm và phát triển, đã có hơn 40 trường Đại học – Cao đẳng trong
cả nước được mở mã ngành đào tạo Công tác xã hội – có thể thấy rõ rằng đội ngũ
nhân viên công tác xã hội đang được bổ sung và lớn mạnh, mạng lưới công tác xã
hội chuyên nghiệp đang hình thành trên khắp cả nước. Và thiết nghĩ, để nghề công
tác xã hội trong trường học được phát triển hơn đòi hỏi dự quan tâm của các nhà
quản lý ở các Bộ, ngành để đưa vào chiến lược phát triển giáo dục của nước nhà.
2. Khái niệm công tác xã hội trong trường học
Công tác xã hội được ra đời bắt nguồn từ các hoạt động chăm sóc nhân đạo,
hoạt động từ thiện, sự trợ giúp xã hội, dần dần chuyển từ các hoạt động nghiệp dư
10
thành các hoạt động chuyên nghiệp trên cơ sở được đào tạo một cách khoa
học.Hiện nay, công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ
giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và
tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách,
nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và
phòng ngừa các vấn đề xã hội đảm bảo an sinh xã hội.
Công tác xã hội hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như y tế, trẻ em,
người cao tuổi, người tàn tật, người nghèo, gia đình và trường học Trong mỗi
một lĩnh vực khác nhau, công tác xã hội đều có cách thức tiếp cận, kĩ năng làm
việc khác nhau cho từng đối tượng cần được giúp đỡ.
Công tác xã hội trong trường học hay còn gọi là công tác xã hội học đường
là một lĩnh vực trong công tác xã hội được thực hành trong trường học để giúp đỡ
học sinh, giáo viên hay cán bộ quản lý nhà trường tăng cường hoặc phục hồi năng
lực thực hiện chức năng xã hội của họ và tạo ra những điều kiện thích hợp nhằm
đạt được những mục tiêu trong dạy và học.
Công tác xã hội trong trường học là một lĩnh vực được thực hành thông qua
việc Nhân viên công tác xã hội vận dụng kiến thức, kĩ năng, nguyên tắc, phương
pháp của chuyên biệt của ngành làm việc cụ thể với các đối tượng trong trường
học.
Như vậy, đối tượng được xác định cụ thể trong trường học là học sinh, giáo
viên, cán bộ quản lý trong nhà trường và phụ huynh học sinh. Có thể thấy rằng các
đối tượng trong trường học là khác nhau, mỗi thân chủ là một cá thể riêng biệt với
những vấn đề khác nhau. Chính vì vậy đòi hỏi Nhân viên công tác xã hội cần mềm
dẻo, linh hoạt trong việc áp dụng các kiến thức, kĩ năng khi thực hiện hoạt động
can thiệp và trợ giúp.
Mục đích chính của việc trợ giúp là tăng cường hoặc phục hồi chức năng xã
hội và tạo những điều kiện thích hợp trong việc dạy và học. Như vậy, dù hoạt động
11
trợ giúp của Nhân viên công tác xã hội đối với đối tượng nào thì cũng đi đến đích
cuối cùng là tạo môi trường giáo dục thuận lợi nhất cho học sinh. Cố nhiên có thể
thấy rằng dù hoạt động trợ giúp đó là gì nhân viên công tác xã hội cũng cần kết nối
các đối tượng kể trên để hỗ trợ nhau giải quyết những vấn đề liên quan trong
trường học.
3. Vai trò của CTXH trong trường học
Trong quá trình phát triển của CTXHTH trên thế giới và đặc biệt là trong
các đại hội quốc tế lần thứ nhất vào năm 1999 và lần thứ hai vào năm 2003, vai trò
của công tác xã hội học đường đã dần được củng cố và khẳng định, cụ thể là sự tác
động vào 4 đối tượng ở học đường là học sinh, phụ huynh, thầy cô giáo và các cán
bộ quản lý giáo dục
Với học sinh
- Giúp giải quyết những căng thẳng và khủng hoảng thần kinh
-