“Phân tích, hiểu theo nghĩa chung nhất là sự chia nhỏ sự vật và hiện tượng
trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó”.
Phân tích kinh tế có thể được hiểu chung nhất là phân nhỏ (chia nhỏ) các sự
vật, các hiện tượng kinh tế. Hiện tượng kinh tế được hiểu các hiện tượng kinh tế gắn
liền với xã hội nên các công cụ phân tích của nó khác với các công cụ khi nghiên
cứu, phân tích các hiện tượng tự nhiên. Các công cụ phân tích ở đây là các “khái
niệm trừu tượng”, đó là hệ thống các tiêu chí, tri thức, các phương pháp Ví dụ
như muốn đánh giá hiệu quả và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phải sử dụng các chỉ tiêu phản ánh về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
như chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu doanh số bán hàng, chỉ tiêu giá trị sản xuất
Phân tích kinh tế trong phạm vi doanh nghiệp được gọi là phân tích hoạt
động kinh doanh. “Phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình nghiên cứu để đánh
giá toàn bộ quá trình và kết quả của hoạt động kinh doanh; các nguồn tiềm năng cần
khai thác ở doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề ra các phương án và giải pháp để nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”.
Trước đây, trong điều kiện sản xuất kinh doanh đơn giản và với quy mô nhỏ,
yêu cầu thông tin cho nhà quản trị chưa nhiều và chưa phức tạp, công việc phân tích
thường được tiến hành giản đơn, có thể thấy ngay trong công tác hạch toán. Khi sản
xuất kinh doanh càng phát triển thì nhu cầu thông tin cho nhà quản trị càng nhiều,
đa dạng và phức tạp. Phân tích hoạt động kinh doanh hình thành và phát triển như
một môn khoa học độc lập, để đáp ứng nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị.
24 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 404 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh - Nguyễn Thị Phương Hảo (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TRƢỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA KINH TẾ
BÀI GIẢNG
MÔN:PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH
(Dùng cho đào tạo tín chỉ - Bậc Cao đẳng)
Lưu hành nội bộ
Ngƣời biên soạn: Th.S Nguyễn Thị Phƣơng Hảo
2
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH
1.1. Khái niệm, đối tƣợng của phân tích hoạt động kinh doanh
1.1.1. Khái niệm phân tích hoạt động kinh doanh
“Phân tích, hiểu theo nghĩa chung nhất là sự chia nhỏ sự vật và hiện tượng
trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó”.
Phân tích kinh tế có thể được hiểu chung nhất là phân nhỏ (chia nhỏ) các sự
vật, các hiện tượng kinh tế. Hiện tượng kinh tế được hiểu các hiện tượng kinh tế gắn
liền với xã hội nên các công cụ phân tích của nó khác với các công cụ khi nghiên
cứu, phân tích các hiện tượng tự nhiên. Các công cụ phân tích ở đây là các “khái
niệm trừu tượng”, đó là hệ thống các tiêu chí, tri thức, các phương pháp Ví dụ
như muốn đánh giá hiệu quả và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phải sử dụng các chỉ tiêu phản ánh về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
như chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu doanh số bán hàng, chỉ tiêu giá trị sản xuất
Phân tích kinh tế trong phạm vi doanh nghiệp được gọi là phân tích hoạt
động kinh doanh. “Phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình nghiên cứu để đánh
giá toàn bộ quá trình và kết quả của hoạt động kinh doanh; các nguồn tiềm năng cần
khai thác ở doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề ra các phương án và giải pháp để nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”.
Trước đây, trong điều kiện sản xuất kinh doanh đơn giản và với quy mô nhỏ,
yêu cầu thông tin cho nhà quản trị chưa nhiều và chưa phức tạp, công việc phân tích
thường được tiến hành giản đơn, có thể thấy ngay trong công tác hạch toán. Khi sản
xuất kinh doanh càng phát triển thì nhu cầu thông tin cho nhà quản trị càng nhiều,
đa dạng và phức tạp. Phân tích hoạt động kinh doanh hình thành và phát triển như
một môn khoa học độc lập, để đáp ứng nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị.
1.1.2. Đối tƣợng của phân tích hoạt động kinh doanh
Với tư cách là một khoa học độc lập, phân tích hoạt động kinh doanh có đối
tượng riêng: “Đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh chính là kết quả của
quá trình hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả của quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp”.
a. Kết quả của quá trình kinh doanh
Kết quả của quá trình kinh doanh theo nghĩa rộng không chỉ là kết quả tài
3
chính cuối cùng của doanh nghiệp mà còn là kết quả thể hiện qua từng giai đoạn
trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả kinh doanh thông thường được biểu hiện dưới các chỉ tiêu kinh tế.
Chỉ tiêu kinh tế gắn liền với trị số của chỉ tiêu. Chỉ tiêu kinh tế có nội dung tương
đối ổn định còn trị số của chỉ tiêu kinh tế thì thay đổi theo thời gian và không gian.
Trị số của chỉ tiêu kinh tế có thể được đo lường bằng các thước đo khác nhau.
Chỉ tiêu kinh tế bao gồm chỉ tiêu phản ánh số lượng và chỉ tiêu phản ánh chất
lượng hoạt động kinh doanh. Chỉ tiêu số lượng là chỉ tiêu phản ánh quy mô hoặc
điều kiện của quá trình sản xuất kinh doanh, chẳng hạn: các chỉ tiêu về doanh thu,
về vốn kinh doanh, về giá trị sản xuấtChỉ tiêu chất lượng là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả của quá trình sản xuất kinh doanh, chẳng hạn: năng suất lao động, giá thành, tỷ
suất lợi nhuậnTuy nhiên, cách phân chia trên chỉ mang tính tương đối và tùy
thuộc vào mục tiêu của phân tích
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh
Phân tích kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả kinh doanh
mà còn đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, tác động đến chỉ tiêu phân tích.
Nhân tố là những yếu tố bên trong của mỗi hiện tượng, mỗi quá trình kinh tế...và
mỗi biến động của nó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến độ lớn, tính chất, xu
hướng và mức độ của chỉ tiêu phân tích. Nhân tố tác động đến kết quả của quá trình
sản xuất kinh doanh có rất nhiều, tùy theo mục đích phân tích có thể phân loại nhân
tố theo nhiều tiêu thức khác nhau
- Theo nội dung kinh tế của nhân tố, nhân tố bao gồm:
+ Những nhân tố thuộc về điều kiện của quá trình sản xuất kinh doanh như:
số lượng lao động, số lượng vật tư, tiền vốnnhững nhân tố này ảnh hưởng trực
tiếp đến qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Những nhân tố thuộc về kết quả sản xuất, những nhân tố này thường ảnh
hưởng dây chuyền từ khâu cung ứng, sản xuất đến tiêu thụ như: số lượng, chất
lượng sản phẩm sản xuất
- Theo tính tất yếu của nhân tố, có thể phân thành 2 loại
+ Nhân tố khách quan: là nhân tố phát sinh như một tất yếu trong quá trình
kinh doanh, ngoài vòng kiểm soát của doanh nghiệp. Thông thường, nhân tố khách
quan chịu ảnh hưởng của môi trường kinh doanh và đó là nhân tố bên ngoài.
4
+ Nhân tố chủ quan: là nhân tố phát sinh tùy thuộc vào sự nổ lực của bản
thân doanh nghiệp, đó thường là nhân tố bên trong
- Theo xu hƣớng tác động của nhân tố, bao gồm:
+ Nhân tố tích cực là những nhân tố tác động tốt hay làm tăng độ lớn của
hiệu quả kinh doanh.
+ Nhân tố tiêu cực là nhân tố tác động xấu hay làm giảm quy mô của kết quả
kinh doanh.
- Theo tính chất của nhân tố, nhân tố bao gồm:
+ Nhân tố số lượng: là nhân tố phản ánh quy mô sản xuất và kết quả kinh
doanh như: số lượng lao động, vật tư, lượng hàng hoá sản xuất, tiêu thụ...
+ Nhân tố chất lượng: phản ánh hiệu quả kinh doanh hoặc hiệu suất sử dụng
các yếu tố kinh doanh như: Giá thành, tỷ suất chi phí, năng suất lao động...
Theo phạm vi phát sinh của nhân tố, bao gồm:
+ Nhân tố bên trong: là những nhân tố phát sinh bên trong đơn vị.
+ Nhân tố bên ngoài: phát sinh bên ngoài doanh nghiệp. Các nhân tố này
thường là những nhân tố thuộc môi trường vĩ mô (môi trường kinh tế, chính trị, xã
hội) và môi trường vi mô (khách hàng, thị hiếu khách hàng, đối thủ cạnh tranh,...)
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích và định lượng
chúng là công việc hết sức cần thiết vì nếu chỉ dừng lại trị số của chỉ tiêu phân tích
thì nhà quản lý sẽ không thể phát hiện ra các tiềm năng cũng như các tồn tại trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3 Ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh doanh
- Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ quan trọng để phát hiện khả năng
tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh.
- Thông qua phân tích hoạt động doanh nghiệp chúng ta mới thấy rõ được các
nguyên nhân, nhân tố cũng như nguồn gốc phát sinh của các nguyên nhân và nhân
tố ảnh hưởng, từ đó để có các giải pháp cụ thể và kịp thời trong công tác tổ chức và
quản lý sản xuất. Do đó nó là công cụ cải tiến cơ chế quản lý trong kinh doanh.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ quan trọng trong chức năng quản
trị, là cơ sở để đề ra các quyết định đúng đắn trong chức năng quản lý, nhất là trong
các chức năng kiểm tra, đánh giá và điều hành hoạt động SXKD trong doanh
5
nghiệp.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là biện pháp quan trọng để phòng ngừa và
ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra.
- Tài liệu phân tích hoạt động kinh doanh còn rất cần thiết cho các đối tượng
bên ngoài, khi họ có các mối quan hệ về kinh doanh, nguồn lợi với doanh nghiệp, vì
thông qua phân tích họ mới có thể có quyết định đúng đắn trong việc hợp tác, đầu
tư, cho vay...đối với doanh nghiệp nữa hay không?
Tóm lại phân tích hoạt động kinh doanh là điều hết sức cần thiết và có vai trò
quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Nó gắn liền với hoạt động kinh doanh, là cơ
sở của nhiều quyết định quan trọng và chỉ ra phương hướng phát triển của các
doanh nghiệp.
1.2. Phƣơng pháp phân tích hoạt động kinh doanh
1.2.1 Phƣơng pháp chi tiết
Muốn phân tích một cách sâu sắc các đối tượng nghiên cứu, không thể dựa
vào các chỉ tiêu tổng hợp mà còn cần phải đánh giá theo chỉ tiêu cấu thành của chỉ
tiêu tổng hợp, tức là chi tiết các chỉ tiêu phân tích. Thông thường phương pháp chi
tiết được thực hiện theo những hướng sau:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu: Chi tiết chỉ tiêu theo các bộ
phận cấu thành cùng với sự biểu hiện về lượng của các bộ phận đó sẽ giúp ích rất
nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả đạt được. Việc chi tiết này có tác dụng
đánh giá ảnh hưởng của từng bộ phận đến chỉ tiêu phân tích
Ví dụ 1: chỉ tiêu giá thành đơn vị sản phẩm được chi tiết theo từng khoản
mục chi phí, chi tiêu doanh thu chi tiết theo từng mặt hàng hoặc chi tiết theo từng
phương thức tiêu thụ
Chi tiết hóa chỉ tiêu phân tích được quyết định bởi nhiệm vụ, nội dung và
yêu cầu của công tác phân tích
- Chi tiết theo thời gian: Kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một
quá trình. Do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan khác nhau, tiến độ thực
hiện quá trình đó trong từng đơn vị thời gian xác định thường không đều nhau. Việc
chi tiết theo thời gian giúp đánh giá được nhịp điệu, tốc độ phát triển của hoạt động
sản xuất kinh doanh qua các thời kỳ khác nhau, từ đó tìm nguyên nhân và giải pháp
có hiệu lực để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
6
Ví dụ 2: Giá trị sản lượng sản xuất thường phải thực hiện theo từng tháng,
từng quý trong năm và thông thường không giống nhau. Tương tự trong thương
mại, doanh số mua vào, bán ra từng thời gian trong năm cũng không đều nhau.
- Chi tiết theo địa điểm và phạm vi kinh doanh: Kết quả sản xuất kinh doanh
thường là đóng góp của nhiều bộ phận hoạt động trên những địa điểm khác nhau. Chi
tiết theo địa điểm sẽ làm rõ hơn sự đóng góp của từng bộ phận đến kết quả chung của
doanh nghiệp, giúp ta đánh giá kết quả thực hiện hoạch toán kinh tế nội bộ.
Ví dụ 3: doanh thu của một doanh nghiệp thương mại có thể chi tiết theo
từng của hàng, từng vùng (thị trường); chi phí sản xuất của doanh nghiệp sản xuất
có thể chi tiết theo từng phân xưởng sản xuất, hoặc từng tổ (đội) trong phân xưởng
1.2.2. Phƣơng pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến trong phân tích kinh
doanh để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu
phân tích. Vận dụng phương pháp này cần phải nắm các vấn đề sau:
a) Tiêu chuẩn so sánh: tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu gốc được chọn làm căn
cứ để so sánh. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà lựa chọn gốc so sánh cho thích
hợp. Các gốc so sánh có thể là:
- Số gốc của năm trước (kỳ trước) nhằm đánh giá xu hướng phát triển của
các chỉ tiêu qua hai hay nhiều kỳ
- Số gốc là số kế hoạch (kế hoạch, dự đoán, định mức) nhằm đánh giá tình
hình thực hiện so với kế hoạch, dự đoán và định mức.
- Số gốc là số trung bình của ngành, của khu vực kinh doanh; nhu cầu hoặc
đơn đặt hàng của khách hàng... nhằm khẳng định vị trí của doanh nghiệp so với
trung bình tiến triển của ngành và khả năng đáp ứng nhu cầu.
Các trị số của chỉ tiêu ở kỳ trước, kế hoạch hoặc trung bình ngành gọi chung
là trị số kỳ gốc. Các chỉ tiêu của kỳ được chọn so sánh với kỳ gốc được gọi là chỉ
tiêu kỳ phân tích
b) Ðiều kiện so sánh được: Ðể phương pháp này có ý nghĩa thì các chỉ tiêu
phải đồng nhất cả về thời gian và không gian
* Về thời gian: là các chỉ tiêu được tính trong cùng một khoảng thời gian hạch
toán và phải thống nhất trên 3 mặt sau:
7
- Phải phản ánh cùng nội dung kinh tế.
- Các chỉ tiêu phải cùng sử dụng một phương pháp tính toán.
- Phải cùng một đơn vị đo lường.
* Về không gian: các chỉ tiêu cần phải được quy đổi về cùng quy mô và điều
kiện kinh doanh tương tự như nhau.
c) Kỹ thuật so sánh:
- So sánh bằng số tuyệt đối: là hiệu số giữa trị số kỳ phân tích và trị số kỳ
gốc của chỉ tiêu kinh tế. Việc so sánh này cho thấy mức độ đạt được về khối lượng,
quy mô của chỉ tiêu phân tích
M c biến động tuyệt đối Tr số kỳ phân tích - Tr số kỳ gốc
Ví dụ 4: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp A năm 2017 là 30
triệu đồng, năm 2018 là 400 triệu đồng
Doanh thu tiêu thụ năm 2018 tăng so với năm 2017 là: 400 – 300 = 100 triệu
đồng
- So sánh bằng số tƣơng đối: là thương số giữa trị số của kỳ phân tích so
với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế. Việc so sánh này biểu hiện kết cấu, tốc độ phát
triển, mức phổ biến của chỉ tiêu phân tích
Ví dụ 5: Lấy số liệu doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp A ở trên ta có: Tốc
độ tăng doanh số bán hàng năm 2018 so với năm 2017 là: 400/300 = 1,33 hay 133%
- So sánh m c biến động tƣơng đối điều chỉnh theo hƣớng quy mô chung:
(áp dụng khi so sánh các yếu tố đầu vào): là kết quả so sánh giữa trị số kỳ phân tích
với trị số của kỳ gốc, nhưng đã được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu có liên
quan, mà chỉ tiêu có liên quan này quyết định quy mô của chỉ tiêu phân tích.
Mức biến động tuyệt đối = Kỳ thực hiện – (Kỳ gốc x hệ số điều chỉnh)
Hay ∆C = C1 – C0 x H
Mức biến động tương đối: (%)100
0
1 x
xH
t
C
C
Trong đó: C0 : Chi phí sản xuất kỳ gốc
C1 : Chi phí sản xuất kỳ thực hiện
H: Hệ số điều chỉnh (Hệ số điều chỉnh thường là tỷ lệ hoàn thành
8
doanh thu, tỷ lệ tăng trưởng sản lượng)
Nếu: t 100 và ∆C 0: doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm các yếu tố đầu vào
t >100 và ∆C 0: doanh nghiệp lãng phí các yếu tố đầu vào
Ví dụ 6: Có số liệu về chi phí tiền lương của nhân viên bán hàng và doanh thu
tiêu thụ tại một doanh nghiệp như sau:
Chỉ tiêu
Kế
hoạch
Thực
hiện
So sánh
M c %
1. Chi phí lương (triệu đồng) 100 110 +10 +10%
2. Doanh thu tiêu thụ (triệu đồng) 1.000 1.200 +200 +20%
Yêu cầu: Có nhận xét cho rằng chi phí tiền lương thực hiện so với kế hoạch
tăng lên là lãng phí chi phí tiền lương. Điều này đúng hay sai. Giải thích?
Qua số liệu trên cho thấy, nếu xét riêng chỉ tiêu chi phí lương thực tế so với
kế hoạch doanh nghiệp đã vượt chi 10 tương ứng 10 triệu đồng. Nếu xét chỉ tiêu
tổng quỹ lương trong mối quan hệ với doanh thu tiêu thụ trong năm cho ta thấy, tốc
độ tăng doanh thu tiêu thụ nhanh hơn tốc độ tăng chi phí lương là 10 (120% -
110 ). Để thấy rõ việc chi lương này có hợp lý hay không, ta phải tính mức biến
động tương đối của chỉ tiêu chi phí lương giữa thực tế so với kế hoạch được điều
với hệ số tăng của quy mô tiêu thụ như sau:
Mức biến động chi phí lương = 110- 100 x120% = 110 - 120 = -10 (triệu
đồng)
Như vậy kết quả mức độ biến động tương đối có điều chỉnh trên cho ta thấy,
so với kế hoạch, thực tế số tiền đã tiết kiệm được trong chi trả lương là 10 triệu
đồng. Trong điều kiện như mục tiêu kế hoạch đề ra, doanh thu thực hiện 1.200 triệu
đồng thì tiền lương thực tế phải chi trả là 120 triệu đồng, nhưng thực tế doanh nhiệp
chỉ trả 110 triệu đồng, do đó doanh nghiệp đã tiết kiệm được 10 triệu đồng quỹ
lương. Qua đây mới cho ta thấy rõ được thực chất tình hình chi trả lương của doanh
nghiệp.
- So sánh bằng số bình quân: Số bình quân là dạng đặc biệt của số tuyệt
đối, biểu hiện tính chất đặc trưng chung về mặt số lượng, nhằm phản ảnh đặc điểm
chung của một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có cùng một tính chất.
9
1.2.3 Phƣơng pháp loại trừ
Phương pháp loại trừ được áp dụng rộng rãi để xác định xu hướng và mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích khi loại trừ ảnh hưởng của các
nhân tố còn lại. Phương pháp này thể hiện qua phương pháp thay thế liên hoàn và
phương pháp số chênh lệch
1.2.3.1 Phương pháp thay thế liên hoàn
Là phương pháp dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến
chỉ tiêu phân tích khi giả định các nhân tố còn lại không thay đổi bằng cách lần lượt
thay thế từng nhân tố từ kỳ gốc sang kỳ phân tích. Trên cơ sở đó, tổng hợp lại mức
độ ảnh hưởng của tất cả các nhân tố đối với đối tượng phân tích
Các bước tiến hành:
* Bước 1: Xây dựng chỉ tiêu phân tích:
Xác định phương trình kinh tế biểu thị mối quan hệ các nhân tố ảnh hưởng
đến chỉ tiêu phân tích.
Gọi : Q là chỉ tiêu cần phân tích;
a, b, c trình tự là các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích
Giả sử có phương trình kinh tế: Q = a . b . c
Đặt Q1: Chỉ tiêu kỳ phân tích, Q1= a1 . b1. c1
Q0: Chỉ tiêu kỳ gốc, Q0 = a0 . b0 . c0
* Bước 2: Xác định đối tượng phân tích:
Xác định chênh lệch giữa giá trị chỉ tiêu kỳ phân tích với giá trị chỉ tiêu kỳ
gốc, chênh lệch có được đó chính là đối tượng phân tích.
Đối tượng phân tích: Q =Q1 – Q0 = a1 . b1 . c1 – a0 . b0 . c0
* Bước 3: Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố.
Trình tự thay thế các nhân tố ảnh hưởng theo nguyên tắc sau:
- Nhân tố số lượng thay đổi trước, nhân tố chất lượng thay đổi sau
- Trong trường hợp có ảnh hưởng của nhân tố kết cấu thì nhân tố số lượng
thay đổi trước tiên, đến nhân tố kết cấu và cuối cùng là nhân tố chất lượng
- Truờng hợp có ảnh hưởng của nhiều nhân tố số lượng và nhân tố chất
10
lượng thì nhân tố chủ yếu thay thế trứơc, nhân tố thứ yếu thay thế sau. Nhân tố chủ
yếu là nhân tố ảnh hưởng mạnh hơn đến chỉ tiêu phân tích
Lưu ý: Nhân tố đã thay ở bước trước phải được giữ nguyên cho bước sau thay thế
- Thay thế bước 1 (cho nhân tố a): a0 . b0 . c0 được thay thế bằng a1 . b0 . c0
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố a là: Q(a) = a1 . b0 . c0 – a0 . b0 . c0
- Thay thế bước 2 (cho nhân tố b): a1 . b0 . c0 được thay thế bằng a1 . b1 . c0
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố b là: Q(b) = a1 . b1 . c0 – a1. b0 . c0
- Thay thế bước 3 (Cho nhân tố c):a1 . b1 . c0 được thay thế bằng a1 . b1 . c1
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố c là: Q(c) = a1 . b1 . c1 – a1 . b1 . c0
Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố:Q = Q(a) +Q(b)+ Q(c)
* Bước 4: Tìm nguyên nhân làm thay đổi các nhân tố:
Nếu do nguyên nhân chủ quan từ doanh nghiệp thì phải tìm biện pháp để
khắc phục những nhược điểm, thiếu xót để kỳ sau thực hiện được tốt hơn.
* Bước 5: Đưa ra các biện pháp khắc phục những nhân tố chủ quan ảnh
hưởng không tốt đến chất luợng kinh doanh và đồng thời xây dựng phương hướng
cho kỳ sau.
Ví dụ 7: Một doanh nghiệp thương mại kinh doanh một loại sản phẩm có số
liệu về sản lượng, đơn giá bán và doanh thu qua 2 năm như sau:
CHỈ TIÊU Năm N Năm N+1
Sản lượng tiêu thụ 100 200
Đơn giá bán(1.000 đồng/sản phẩm) 80 70
Doanh thu (1.000 đồng) 8.000 14.000
Yêu cầu: Hãy phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng qua 2 năm
Chỉ tiêu phân tích: Doanh thu = Sản lượng tiêu thụ x Đơn giá bán
S = Q x P
Doanh thu năm N: S0 = Q0 x P0 = 100 x 80 = 8.000 (đồng)
Doanh thu năm N+1 : S1 = Q1 x P1 = 200 x 70 = 14.000 (đồng)
11
Đối tượng phân tích: S = S1 - S0 = 14.000 – 8.000 = + 6.000 (đồng)
Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
Khi sản lượng tiêu thụ thay đổi từ kỳ gốc sang kỳ phân tích, giả sử giá bán
không thay đổi ở kỳ phân tích thì doanh thu:
S(Q) = Q1P0 = 200 x 80 = 16.000 (đồng)
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố sản lượng
∆S(Q) = S(Q) – S0 = Q1P0 - Q0P0 = 16.000 – 8.000 = + 8.000 (đồng)
Khi giá bán thay đổi từ kỳ gốc sang kỳ phân tích, sản lượng không thay đổi
ở kỳ phân tích thì doanh thu:
S(P) = Q1P1 = 200 x 70 = 14.000 (đồng)
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố giá bán
∆S(P) = S(P) – S(Q) = Q1P1 - Q1P0 = 14.000 – 16.000 = - 2.000 (đồng)
Tổng hợp mức độ ảnh hưởng cuả các nhân tố
∆S = ∆S(Q) + ∆S(P) = 8.000 + (-2.000) = +6.000 (đồng)
Nhận xét: bộ phận bán hàng đã hoạt động khá hiệu quả trong năm N, đưa ra
những phương án khá linh hoạt nhằm gia tăng sản lượng tiêu thụ ở mức giá thấp
này. Do đó, phần giảm của doanh thu do chính sách giảm giá được bù bởi phần tăng
của doanh thu do việc gia tăng sản lượng tiêu thụ mang lại.
1.2.3.2 Phương pháp số chênh lệch
Thực chất của phương pháp này là trường hợp đặc biệt của phương pháp
thay thế liên hoàn. Phương pháp này cũng thực hiện đầy đủ các bước như vậy, tuy
chỉ khác điểm sau: khi xác định nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích, thay vì ta
tiến hành thay thế số liệu mà sẽ dùng số chênh lệch của từng nhân tố để tính ảnh
hưởng của từng nhân tố.
Ví dụ 8: Lấy số liệu ví dụ 7
Ảnh hưởng của nhân tố sản lượng
S(Q) = (Q1 – Q0) x P0 = ( 200 – 100) x 80 = + 8.000 (đồng)
Ảnh hưởng của nhân tố giá bán
S(P) = Q1 x (P1 – P0) = 200 x (70 – 80)