Thuật ngữ công nghệ được sử dụng trong rất nhiều
ngữ cảnh khác nhau, nhưng quan niệm về công nghệ
lại khác nhau. Có hai quan niệm đối lập: một quan
niệm cho rằng công nghệ chỉ bao gồm các yếu tố phi
vật thể như bí quyết, kỹ thuật, giải pháp ; quan niệm
thứ hai cho rằng ngoài các yếu tố phi vật thể công nghệ
còn bao gồm cả các yếu tố vật thể là máy móc thiết bị
để thực hiện phần phi vật thể. Sự đối lập này dẫn đến
mục tiêu và hoạt động quản lý công nghệ cũng có phạm vi khác nhau. Dưới đây sẽ hệ
thống hóa các quan niệm từ các nguồn khác nhau.
12 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Quản lý công nghệ - Bài 1: Khái quát về công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 1: Khái quát về công nghệ
NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204 1
BÀI 1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu: Giáo trình Quản lý công nghệ của trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Xuất
bản 2010.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
Trang Web môn học.
Nội dung
Khái niệm cơ bản về công nghệ;
Vòng đời của công nghệ.
Mục tiêu
Phân tích được các quan điểm về công nghệ;
Phân tích được mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ, liên hệ được với thực tế;
Trình bày được các giai đoạn của vòng đời công nghệ và nêu được ý nghĩa.
Bài 1: Khái quát về công nghệ
2 NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204
Tình huống dẫn nhập
Sự giải thể của TSE
Công ty Nhà nước TSE được thành lập vào giữa thập kỷ 80 thế kỷ 20 với sứ mệnh ban đầu là lắp
ráp và buôn bán hàng điện tử gia dụng như máy thu hình, radiocassete, tủ lạnh, máy điều hòa
nhiệt độ, và tầm nhìn đến năm 2005 sẽ chiếm thị phần lớn hàng điện tử gia dụng ở Việt Nam và
50% doanh số sẽ thu từ xuất khẩu sản phẩm. Việc kinh doanh vào những năm đầu rất thuận lợi vì
trước khi TSE ra đời, thị trường hàng điện tử gia dụng trong nước hoàn toàn do hàng nhập khẩu
với thuế nhập khá cao đáp ứng và khi Việt Nam đang thiếu điện năng thì nhu cầu về hàng điện tử
cũng không đáng kể.
Dây chuyền lắp ráp ban đầu được nhập khẩu từ một doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung
bình khá của lĩnh vực điện tử gia dụng, các yêu cầu về tiết kiệm năng lượng và môi trường chưa
được đề cao; nhân công kỹ thuật rất dồi dào vì từ trước Việt Nam đã xác định điện tử là một
ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng cho nên đội ngũ kỹ sư và nhân
viên kỹ thuật được đào tạo khá bài bản. Với những lợi thế như vậy, chỉ sau 5 năm ra đời TSE đã
trở thành chim đầu đàn của điện tử gia dụng trong nước.
Tuy nhiên, thành tựu của đổi mới kinh tế trong thập kỷ 1990 đã làm tăng đáng kể thu nhập của
người tiêu dùng Việt Nam, cùng với việc tự do hóa thương mại rất nhiều doanh nghiệp tư nhân
nhỏ được quyền nhập khẩu hàng điện tử, vì vậy đến những năm cuối của thế kỷ 20, hàng điện tử
gia dụng trong nước chủ yếu là nhập khẩu. Kết cục là TSE đã giải thể.
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn khác nhau của Bộ môn QLCN.
Nguyên nhân nào đã làm cho TSE bị giải thể?
Bài 1: Khái quát về công nghệ
NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204 3
1.1. Quan niệm về công nghệ
1.1.1. Các quan niệm về công nghệ
Thuật ngữ công nghệ được sử dụng trong rất nhiều
ngữ cảnh khác nhau, nhưng quan niệm về công nghệ
lại khác nhau. Có hai quan niệm đối lập: một quan
niệm cho rằng công nghệ chỉ bao gồm các yếu tố phi
vật thể như bí quyết, kỹ thuật, giải pháp; quan niệm
thứ hai cho rằng ngoài các yếu tố phi vật thể công nghệ
còn bao gồm cả các yếu tố vật thể là máy móc thiết bị
để thực hiện phần phi vật thể. Sự đối lập này dẫn đến
mục tiêu và hoạt động quản lý công nghệ cũng có phạm vi khác nhau. Dưới đây sẽ hệ
thống hóa các quan niệm từ các nguồn khác nhau.
Xét về mặt ngôn ngữ thuật ngữ công nghệ, theo chiết nghĩa trong tiếng Việt có nghĩa
là nghệ thuật sử dụng công cụ. Từ điển bách khoa tiếng Việt định nghĩa công nghệ là
sự áp dụng khoa học vào trong thực tế để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Thuật ngữ công
nghệ trong các ngôn ngữ khác như tiếng Anh (technology), tiếng Pháp (technologie),
tiếng Nga (ТЭХНОЛОГИЯ) đều có nguồn gốc từ thuật ngữ tiếng Hy Lạp
bao gồm hai gốc từ: (tekhne) là kỹ năng hay kỹ thuật và
(logos) có nghĩa là khoa học hay sự nghiên cứu. Như vậy, thuật ngữ này được hiểu là
khoa học về kỹ thuật hay sự nghiên cứu có hệ thống về kỹ thuật - thường được gọi là
công nghệ học.
Từ những năm 60 của thế kỷ 20, khởi đầu từ Mỹ rồi Tây Âu đã sử dụng thuật ngữ
công nghệ để chỉ các hoạt động ở mọi lĩnh vực, các hoạt động này áp dụng những kiến
thức là kết quả của nghiên cứu khoa học ứng dụng - một sự phát triển của khoa học
trong thực tiễn - nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong hoạt động của con người.
Ở Việt Nam, thuật ngữ công nghệ theo nghĩa rộng đã được sử dụng chính thức từ khi có
nghị quyết 26 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khoá VII (1991) mang tên “Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ trong sự
nghiệp đổi mới”. Năm 1992, Uỷ Ban Khoa Học - Kỹ Thuật Nhà nước đổi thành Bộ
Khoa Học - Công Nghệ và Môi Trường (nay là Bộ Khoa Học và Công Nghệ).
Các tổ chức quốc tế về khoa học và công nghệ đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra một
định nghĩa công nghệ có thể dung hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc
phát triển và hoà nhập của các quốc gia trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Có bốn khía cạnh cần bao quát trong định nghĩa công nghệ: (1) Công nghệ là bộ biến
đổi; (2) Công nghệ là công cụ; (3) Công nghệ là kiến thức; (4) Công nghệ hàm chứa
trong các dạng hiện thân của nó.
Khía cạnh thứ nhất đề cập đến khả năng làm ra sản phẩm, đồng thời công nghệ phải
đáp ứng mục tiêu khi sử dụng và thoả mãn yêu cầu về mặt kinh tế nếu nó muốn được
áp dụng trên thực tế. Đây là điểm khác biệt giữa khoa học và công nghệ. Khía cạnh
thứ hai là nhấn mạnh rằng công nghệ là một sản phẩm của con người, do đó con người
có thể làm chủ được nó vì nó hoàn toàn không phải là “cái hộp đen” huyền bí đối với
các nước đang phát triển. Vì là một công cụ nên công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ
Bài 1: Khái quát về công nghệ
4 NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204
với con người và cơ cấu tổ chức. Khía cạnh kiến thức của công nghệ đề cập đến cốt
lõi của mọi hoạt động công nghệ là kiến thức. Nó bác bỏ quan niệm công nghệ phải là
các vật thể, phải nhìn thấy được. Đặc trưng kiến thức khẳng định vai trò dẫn đường
của khoa học đối với công nghệ, đồng thời nhấn mạnh rằng không phải ở các quốc gia
có các công nghệ giống nhau sẽ đạt được kết quả như nhau. Việc sử dụng một công
nghệ đòi hỏi con người cần phải được đào tạo về kỹ năng, trang bị kiến thức và phải
luôn cập nhật những kiến thức đó. Khía cạnh thứ tư đề cập đến vấn đề: công nghệ dù
là kiến thức song vẫn có thể được mua, được bán. Đó là do công nghệ hàm chứa trong
các vật thể tạo nên nó.
Uỷ Ban Kinh Tế và Xã Hội Châu Á Thái Bình Dương (Economic and Social
Commission for Asia and the Pacific - ESCAP) tổng hợp bốn khía cạnh trên thành định
nghĩa về công nghệ: công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để
chế biến vật liệu và xử lý thông tin. Công nghệ bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị,
phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ.
Định nghĩa công nghệ của ESCAP được coi là bước ngoặt trong quan niệm về công
nghệ. Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ, mà khái
niệm công nghệ được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội và bao gồm các
phần vật thể là máy móc thiết bị. Những lĩnh vực công nghệ mới mẻ dần trở thành
quen thuộc: công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng, công nghệ du lịch, công nghệ
văn phòng...
Cũng cần lưu ý rằng trong nhiều trường hợp, khi cần thiết, người ta vẫn sử dụng định
nghĩa công nghệ khác cho một mục đích nào đó. Ví dụ, trong lý thuyết tổ chức,
người ta coi “công nghệ là khoa học và nghệ thuật dùng trong sản xuất và phân phối
hàng hoá và dịch vụ"; trong luật khoa học và công nghệ của Việt Nam, quan niệm:
"Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm".
Xét tổng quát các quan điểm ở trên một công nghệ bao gồm một bộ biến đổi (trong đó
có máy móc thiết bị, con người...) thực hiện chức năng biến đổi đầu vào thành đầu ra
theo một quy trình để tạo ra giá trị. Quá trình biến đổi này diễn ra trong một không
gian gồm các yếu tố khác nhau. Quan niệm này được trình bày trên hình 1.1. Quan
niệm như vậy rất phù hợp với quản lý chất lượng đồng bộ (TQM). Điều này có nghĩa
là để quản lý tốt và vận hành một cách hiệu quả một công nghệ cần phải quản lý mọi
thành phần cấu thành và các yếu tố liên quan đến công nghệ đó.
Hình 1.1 Sơ đồ quá trình biến đổi của một công nghệ
Bộ biến đổi Đầu vào
Đầu ra
Bài 1: Khái quát về công nghệ
NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204 5
1.1.2. Các thành phần cấu thành một công nghệ
1.1.2.1. Các thành phần
Theo Sharif [Management of Technology for Developing Coutries] thì mỗi công nghệ
có bốn thành phần cấu thành. Các thành phần này hàm chứa trong vật tư kỹ thuật
(facilities) hay là phần vật tư kỹ thuật, trong khả năng của con người (abilities) hay
phần con người, trong các dữ liệu (facts) hay phần thông tin và khung thể chế
(framework) hay phần tổ chức. Phần vật tư kỹ thuật còn có tên gọi khác là phần cứng,
các phần còn lại là phần mềm.
Phần vật tư kỹ thuật (Technoware - T) đây là thành
phần của công nghệ được hàm chứa trong các vật thể
bao gồm các công cụ, thiết bị, máy móc, phương tiện
và các cấu trúc hạ tầng xây dựng như nhà xưởng.
Trong công nghệ sản xuất, các vật thể này thường làm
thành dây chuyền để thực hiện quá trình biến đổi
(thường gọi là dây chuyền công nghệ), ứng với một
qui trình công nghệ nhất định, đảm bảo tính liên tục
của quá trình công nghệ.
Phần con người (Humanware - H) thành phần của công nghệ được hàm chứa trong
khả năng công nghệ của con người vận hành sử dụng công nghệ. Như vậy, phần con
người của một công nghệ cụ thể nào đó là những con người được đào tạo để có sự hiểu
biết về vận hành công nghệ đó. Nó bao gồm: kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng do học
hỏi, tích luỹ được trong quá trình hoạt động, nó cũng bao gồm các tố chất của con người
như tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng phối hợp, đạo đức lao động... Các yếu tố
này một cá nhân có được từ ba nguồn: thiên phú, giáo dục đào tạo, nuôi và dưỡng.
Phần thông tin (Inforware - I) thành phần của công nghệ được hàm chứa trong các
dữ liệu đã được tư liệu hoá để sử dụng trong các hoạt động với công nghệ. Nó bao
gồm các dữ liệu về máy móc, về phần con người và phần tổ chức. Ví dụ: dữ liệu về
phần kỹ thuật như các thông số về đặc tính của thiết bị, số liệu về vận hành thiết bị, để
duy trì và bảo dưỡng, dữ liệu để nâng cao và dữ liệu để thiết kế các bộ phận của phần
kỹ thuật, thuyết minh sử dụng phần máy móc...
Phần tổ chức (Orgaware - O) đây là thành phần của công nghệ được hàm chứa trong
khung thể chế để xây dựng cấu trúc tổ chức: những quy định về trách nhiệm, quyền
hạn, mối quan hệ, sự phối hợp của các cá nhân hoạt động trong công nghệ, kể cả
những quy trình tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, thù lao, khen thưởng kỷ luật và sa thải
phần con người, bố trí sắp xếp thiết bị nhằm sử dụng tốt nhất phần vật tư kỹ thuật và
phần con người.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa các thành phần cấu thành của một công nghệ
Các thành phần cấu thành của một công nghệ có quan hệ cơ hữu, tức là công nghệ nào
cũng luôn có đầy đủ bốn thành phần, nếu thiếu một thành phần nào đó thì công nghệ
không thực hiện được chức năng biến đổi để tạo ra giá trị. Mối quan hệ giữa bốn thành
phần của một công nghệ có thể biểu thị qua phần giá trị do công nghệ đóng góp
Bài 1: Khái quát về công nghệ
6 NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204
trong tổng giá trị sản phẩm do công nghệ tạo ra trong quá trình biến đổi đầu vào thành
đầu ra hay còn gọi là hàm lượng công nghệ, được ký hiệu là G:
G = ..Q
(công thức này sẽ được dẫn xuất ở bài 5)
Trong đó: - hệ số môi trường công nghệ quốc gia, thể hiện mức độ thuận lợi khi vận
hành công nghệ phục vụ cho các mục tiêu khác nhau; giá trị của nằm
trong khoảng [01];
- hàm hệ số đóng góp của công nghệ;
Q - tổng giá trị sản phẩm do công nghệ tạo ra được tính bằng tiền.
Hàm hệ số đóng góp của công nghệ được tính như sau:
= TT .HH .II .OO
Trong đó: T, H, I và O là hệ số đóng góp của các thành phần của công nghệ. Trị số
của hệ số đóng góp thành phần phụ thuộc độ phức tạp và độ hiện đại của
nó, theo qui ước về cách tính (bài 5) thì: 0 < T, H, I và O 1;
T, H, I và O - cường độ đóng góp của các thành phần công nghệ tương
ứng, nó thể hiện tầm quan trọng của mỗi thành phần công nghệ trong một
công nghệ, qui ước: T + H + I + O = 1.
Hàm là một hàm tích vì vậy nếu một thừa số bằng không thì hàm sẽ bằng không, tức
là hàm lượng công nghệ bằng không hay là không tồn tại công nghệ. Điều này chứng
tỏ mối quan hệ giữa các thành phần T, H, I và O là mối quan hệ cơ hữu.
1.2. Vòng đời của một công nghệ
Sự ra đời và phát triển của một công nghệ thông qua quá trình nghiên cứu và triển
khai (hình 1.4) và có biến đổi theo thời gian. Quy luật biến đổi theo thời gian của sự ra
đời và phát triển của một công nghệ là vòng đời (còn có tên khác là chu kỳ sống) của
công nghệ đó.
1.2.1. Quá trình nghiên cứu và triển khai
Hình 1.4 Quá trình nghiên cứu và triển khai
Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu thị trường
Nảy sinh
ý tưởng
Nảy sinh
ý tưởng
Marketing
truyền bá
Kỹ nghệ hóa
Nâng cao
hiểu biết
Ghi nhận
nhu cầu
Củng cố và
phát triển
ý tưởng
Bài 1: Khái quát về công nghệ
NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204 7
Quá trình nghiên cứu và triển khai tạo ra một công nghệ bắt đầu từ việc nghiên cứu thị
trường để tìm hiểu ghi nhận được các nhu cầu của thị trường, Người ta sẽ chọn đáp
ứng một hoặc một số từ các nhu cầu ghi nhận được, tức là nẩy sinh ý tưởng làm cái gì.
Để hiện thực hóa được ý tưởng đã được chọn cần phải có kiến thức về công nghệ, cho
nên đồng thời hoặc muộn hơn sau đấy xẩy ra quá trình nghiên cứu nâng cao hiểu biết.
Khi có đủ mức độ hiểu biết người ta sẽ nẩy sinh ý tưởng làm như thế nào để đáp ứng
được nhu cầu đã chọn. Các ý tưởng đó sau đó được củng cố và phát triển. Đến đây kết
thúc giai đoạn nghiên cứu, tiếp sau đó là việc hiện thực hóa các ý tưởng.
Hiện thực hóa ý tưởng là quá trình kỹ nghệ hóa tức là biến những thứ còn trong ý đồ
hoặc sách vở thành kỹ thuật và công nghệ. Đây là quá trình bao gồm các lần thiết kế
và làm thử. Khi có một ý đồ thành công thì đó là thời điểm ra đời một công nghệ mới.
Tiếp sau đó là thời kỳ marketing để truyền bá công nghệ mới.
1.2.2. Vòng đời của một công nghệ
Quy luật ra đời và tăng trưởng của một công nghệ theo thời gian là vòng đời của nó.
Vòng đời được đo bằng số lượng ý tưởng và số lượng người áp dụng. Khi đo mức độ
tăng trưởng của một công nghệ bằng số lượng người áp dụng cần phải điều chỉnh cho
quy mô áp dụng thì mới chính xác hoặc có thể đo bằng thị phần mà công nghệ chiếm
được trong tổng thị phần của công nghệ cùng sản xuất ra một sản phẩm. Vòng đời đó
bao gồm năm giai đoạn: ấp ủ, giới thiệu, tăng trưởng, trưởng thành và suy tàn, như
trên hình 1.5.
Hình 1.5 Vòng đời của một công nghệ
Giai đoạn ấp ủ băt đầu từ điểm A với số lượng lớn các ý tưởng và kết thúc tại điểm B
khi có một ý tưởng thành công, tương ứng với điểm ngay sau giai đoạn kỹ nghệ hóa
trên hình 1.4. Kế tiếp, bắt đầu thời kỳ truyền bá công nghệ đến những người áp dụng
tiềm tàng tức là những người có nhu cầu và khả năng áp dụng công nghệ nhưng
Thời gian
Số lượng áp dụng/thị phần
Ý tưởng
A
C
D E
F
Một ý tưởng thành công
B
Bài 1: Khái quát về công nghệ
8 NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204
chưa áp dụng. Trong khoảng thời gian từ B đến C, giai đoạn giới thiệu, số lượng
người áp dụng tăng rất chậm, đoạn BC rất thoải vì lúc đầu thông tin về công nghệ mới
chưa kịp phổ biến và độ rủi ro còn cao. Ở giai đoạn tăng trưởng CD, số lượng người
áp dụng tăng rất nhanh vì hai nguyên nhân ngăn cản quá trình tăng trưởng ở giai đoạn
trước không còn nữa. Quy luật gia tăng số lượng người áp dụng ở giai đoạn này bị chi
phối bởi số lượng người áp dụng tiềm tàng. Ở nửa giai đoạn đầu, công nghệ tăng
trưởng với gia tốc càng ngày càng cao vì số lượng người áp dụng tiềm tàng còn lớn,
còn ở nửa giai đoạn cuối gia tốc tăng trưởng đổi dấu và càng ngày càng giảm vì số
lượng người áp dụng tiềm tàng càng ngày càng nhỏ. Đoạn DE là giai đoạn trưởng
thành, số lượng người áp dụng tiếp tục tăng và sau đấy bắt đầu giảm đều rất chậm.
Lúc ngày công nghệ đã lạc hậu nên bị thay thế bởi một hoặc nhiều công nghệ khác.
Vòng đời của một công nghệ được kết thúc bằng giai đoạn suy tàn với số lượng người
áp dụng giảm với tốc độ càng ngày càng lớn, lúc này công nghệ lạc hậu với tốc độ lạc
hậu càng ngày càng cao.
Thời lượng của các giai đoạn và tổng thời lượng của vòng đời phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố như mức đầu tư vào công nghệ, tốc độ nghiên cứu và triển khai, tiến bộ công nghệ...
1.2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vòng đời công nghệ
Nghiên cứu vòng đời của công nghệ làm sáng tỏ được quy luật tăng trưởng của công
nghệ, mối quan hệ của vòng đời công nghệ với chu kỳ sản phẩm, và mối quan hệ giữa
vòng đời của công nghệ và lợi ích hoặc lợi nhuận của công nghệ.
Quy luật tăng trưởng của công nghệ có dạng hình chữ “S” (hình 1.6) với nửa giai
đoạn đầu là quy luật hàm mũ tức là tăng trưởng với gia tốc càng ngày càng lớn, vì lúc
này số lượng người áp dụng tiềm tàng còn lớn. Khi đi qua điểm uốn của đường chữ S,
quy luật chuyển sang hàm logarit, vì số lượng người áp dụng tiềm tàng lúc này còn lại
rất nhỏ và càng ngày lại càng giảm.
Hình 1.6 Quy luật tăng trưởng của công nghệ
Số lượng áp dụng
d d
Thời gian
Bài 1: Khái quát về công nghệ
NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204 9
Quy luật này còn bị chi phối của giới hạn vật lý của công nghệ. Một công nghệ có các
tham số thực hiện, biểu hiện một thuộc tính bất kỳ. Ví dụ: đối với động cơ của hơi nước
là hiệu suất của chu trình nhiệt, ô tô là tốc độ, với bóng đèn điện là hiệu suất chuyển
điện năng thành ánh sáng, động cơ đốt trong là hiệu suất đốt nhiên liệu, máy computer
là tốc độ tính toán... Các tham số này bị giới hạn bởi bản chất vật lý - hóa học của quá
trình tạo ra tham số. Giới hạn đó gọi là giới hạn vật lý. Tiến bộ công nghệ là sự nâng
cao những tham số này. Đồ thị của tham số này theo thời gian cũng có dạng hình chữ S
(hình 1.7). Đường chữ S có ba giai đoạn: giới thiệu, tăng trưởng và trưởng thành.
Hình 1.7 Đường chữ S của tiến bộ công nghệ
Giai đoạn giới thiệu được đặc trưng bởi sự tăng trưởng tham số thực hiện chậm do
công nghệ mới cho nên ít được quan tâm phát triển, tiếp theo, các tham số được cải
thiện nhanh nhờ các cải tiến do công nghệ được quan tâm nhiều hơn. Giai đoạn trưởng
thành bắt đầu khi công nghệ đạt đến giới hạn vật lý của nó.
Đặc trưng chữ S dẫn đến một nhận thức quan trọng là khi một công nghệ đạt tới giới
hạn vật lý của nó, nó trở thành công nghệ bão hoà và có khả năng bị thay thế hay
loại bỏ.
Mối quan hệ của vòng đời của một công nghệ với chu kỳ sản phẩm do công nghệ tạo
ra và lợi nhuận hoặc lợi ích của công nghệ là mối quan hệ “lệch pha” (hình 1.8). Quy
luật biến đổi của khối lượng một sản phẩm bán được trên thị trường hoặc thị phần của
sản phẩm đó theo thời gian được gọi là chu kỳ của sản phẩm. Sự lệch pha thể hiện ở
chỗ điểm cực đại của chu kỳ sản phẩm xẩy ra muộn hơn, còn điểm cực đại của lợi
nhuận có thể xẩy ra sớm hơn so với điểm cực đại của vòng đời công nghệ. Điều này
có thể giải thích là vì quá trình sản xuất xẩy ra sau khi công nghệ được xây lắp và đòi
hỏi thời gian, còn khi khối lượng sản phẩm trên thị trường lớn thì các doanh nghiệp
vận hành công nghệ buộc phải đưa giá thấp xuống để thu hút khách hàng và vì vậy lợi
nhuận sẽ giảm xuống.
Tham số kỹ thuật
Giới
thiệu
Trưởng
thành
Tăng
trưởng
Giới hạn vật lý
Thời gian
Bài 1: Khái quát về công nghệ
10 NEU_MAN612_Bai1_v1.0013112204
(a)
(b)
Hình 1.8 Mối quan hệ của vòng đời của một công nghệ với lợi ích (a) và chu kỳ sản phẩm (b) của nó
Hiểu biết vòng đời của công nghệ giúp chọn đúng thời điểm đầu tư vào một công
nghệ để có lợi tức cao nhất, tránh được cái gọi là tâm lý bầy đàn thường rất hay gặp
khi ra quy