Lịch sử tiến bộ của xã hội loài người diễn ra chủ yếu nhờ thay đổi công cụ và phương
pháp sản xuất. Sự thay đổi đó là sự thay đổi công nghệ. Sự thay đổi có tiến bộ công
nghệ là đổi mới công nghệ.
Vậy đổi mới công nghệ là gì? Đó chính là cấp cao nhất của thay đổi công nghệ và là
quá trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống công nghệ. Có
quan điểm cho rằng đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện và phát triển không ngừng các
thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các thành tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế – xã hội. Với quan điểm này
một sự thay đổi trong các thành phần công nghệ dù nhỏ cũng được coi là đổi mới công
nghệ, thực ra đây chỉ là cải tiến công nghệ. Mặt khác hệ thống công nghệ mà con
người đang sử dụng có tính phức tạp và đa dạng cao, chỉ một loại sản phẩm đã có thể
dùng rất nhiều loại công nghệ khác nhau, do đó nếu xếp tất cả các thay đổi nhỏ về
công nghệ thuộc về đổi mới công nghệ thì việc quản lý đổi mới công nghệ là việc làm
không có tính khả thi. Để có thể quản lý được các hoạt động đổi mới thì cần tập trung
vào những hoạt động cơ bản.
18 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 609 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Quản lý công nghệ - Bài 4: Đổi mới công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7/18/20147/18/2014
Bài 4: Đổi mới công nghệ
52 NEU_TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217
BÀI 4 ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
Giáo trình “Quản lý công nghệ”, Bộ môn Quản lý công nghệ, NXB ĐH Kinh tế Quốc
dân, 2013.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung
Khái quát về đổi mới công nghệ;
Quá trình đổi mới công nghệ;
Hiệu quả của đổi mới công nghệ;
Quản lý đổi mới công nghệ.
Mục tiêu
Phân tích được quan niệm về đổi mới công nghệ, phân biệt giữa đổi mới và cải tiến
công nghệ;
Phân tích được lý do cần thiết phải đổi mới công nghệ;
Cơ sở và cơ chế đổi mới công nghệ;
Phân tích được các mô hình đổi mới công nghệ;
Hiểu được nội dung quản lý đổi mới công nghệ;
Hiểu được các phương pháp đánh giá kết quả đổi mới công nghệ.
Bài 4: Đổi mới công nghệ
NEU_ TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217 53
Tình huống dẫn nhập
Nơi góp phần tiết kiệm 5,51 tỷ kwh điện
Tạp chí Forbes Việt Nam phiên bản tiếng Việt vừa công bố Công ty CP Bóng đèn Phích nước
Rạng đông là một trong 50 công ty niêm yết tốt nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Đây là tin vui khẳng định hướng đi đúng đắn của công ty trong đầu tư nghiên cứu công nghệ sản
xuất các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, nhằm chung tay cùng cả nước thực hiện chương trình
tiết kiệm điện.
Đèn LED do Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông sản xuất vượt trội so với đèn huỳnh
quang. Cụ thể, so sánh đèn LED panel 600600 so với bộ đèn huỳnh quang 600600 18Wx3, thì
sử dụng đèn LED giúp giảm hơn 35% điện năng, quang thông hiệu dụng cao hơn gấp 2 lần, góc
mở rộng hơn 30% và tuổi thọ của đèn cao hơn 3 lần. Kết quả so sánh giữa sản phẩm đèn LED do
công ty sản xuất với đèn huỳnh quang có cùng kích thước đều cho kết quả vượt trội về hiệu quả.
Tiết kiệm điện hơn, tuổi thọ dài hơn và đặc biệt không phát sinh ra tia tử ngoại, không sử dụng
thủy ngân nên rất thân thiện với môi trường.
Ngoài ra, công nghệ chế tạo bóng đèn compact của công ty đã tăng tuổi thọ của đèn đạt tới
10.000 giờ, tăng 66% so với trước. Theo tính toán của Công ty CP Bóng đèn phích nước Rạng
Đông, các sản phẩm dán tem Ngôi sao năng lượng đó góp phần tiết kiệm được 5,51 tỷ kwh điện
trong giai đoạn 2010 – 2012. Việc chế tạo thành công bột huỳnh quang 3 phổ đó giảm 50% chi
phí so với nhập khẩu.
Ông Đỗ Hải Triều, Phó trưởng Phòng Thị trường, cho biết, sở dĩ đạt được kết quả trên là do công
ty đầu tư chiều sâu vào đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại và tiết kiệm năng lượng.
Công ty đã thành lập Trung tâm R&D Rạng Đông từ tháng 3/2011 dưới sự điều hành của tiến sỹ
Đỗ Xuân Thành, nguyên phó Viện trưởng Viện khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm khoa học và công
nghệ Việt Nam. Trung tâm đã trở thành nơi nghiên cứu về nguồn sáng và thiết bị chiếu sáng
chuyên nghành và liên ngành đầu tiên của Việt Nam với sự tham gia của hơn 50 nhà nghiên cứu.
Năm 2012, công ty đã dành tới 20% lợi nhuận sau thuế (khoảng trên 21 tỷ đồng) cho hoạt động
của R&D nhằm kiên định chủ trương phát triển bền vững, giảm rủi ro thị trường và xoá bỏ tận
gốc kiểu đầu tư theo lối “ăn may”.
Trao đổi với phóng viên Tiền Phong, đại diện công ty cho hay, chỉ tính hết 8 tháng đầu năm
2013, doanh số tiêu thụ của công ty đạt 1.472,4 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2012, lợi
nhuận của 6 tháng đầu năm tăng 25,8% so với cùng kỳ. Trước đó, năm 2012, do lượng sản phẩm
tiêu thụ tốt nên doanh thu của công ty cũng đó đạt 2208 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt gần 100
tỷ đồng, trong đó xuất khẩu chiếm tới 10% lượng sản phẩm, đảm bảo thu nhập ổn định cho 3.400
cán bộ, công nhân viên.
Nguồn: Báo Tiền Phong số 02/10/2013
1. Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông đã đổi mới công nghệ như thế nào?
2. Tại sao Rạng Đông lại là một trong 50 công ty được niêm yết tốt nhất?
7/18/20147/18/2014
Bài 4: Đổi mới công nghệ
54 NEU_TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217
4.1. Khái niệm về đổi mới công nghệ
4.1.1. Quan niệm về đổi mới công nghệ
Lịch sử tiến bộ của xã hội loài người diễn ra chủ yếu nhờ thay đổi công cụ và phương
pháp sản xuất. Sự thay đổi đó là sự thay đổi công nghệ. Sự thay đổi có tiến bộ công
nghệ là đổi mới công nghệ.
Vậy đổi mới công nghệ là gì? Đó chính là cấp cao nhất của thay đổi công nghệ và là
quá trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống công nghệ. Có
quan điểm cho rằng đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện và phát triển không ngừng các
thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các thành tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế – xã hội. Với quan điểm này
một sự thay đổi trong các thành phần công nghệ dù nhỏ cũng được coi là đổi mới công
nghệ, thực ra đây chỉ là cải tiến công nghệ. Mặt khác hệ thống công nghệ mà con
người đang sử dụng có tính phức tạp và đa dạng cao, chỉ một loại sản phẩm đã có thể
dùng rất nhiều loại công nghệ khác nhau, do đó nếu xếp tất cả các thay đổi nhỏ về
công nghệ thuộc về đổi mới công nghệ thì việc quản lý đổi mới công nghệ là việc làm
không có tính khả thi. Để có thể quản lý được các hoạt động đổi mới thì cần tập trung
vào những hoạt động cơ bản. Để phân biệt cải tiến, hợp lý hóa với đổi mới công nghệ
có thể tham khảo các cách phân biệt sau:
Tiêu chí Cải tiến Đổi mới công nghệ
Tính chất Dựa trên cái cũ. Loại bỏ cái cũ, xây dựng trên nguyên tắc mới.
Đặc trưng Thích nghi cho tốt hơn. Hoạt động mang đặc trưng nghiên cứu và triển khai.
Điều kiện Vốn ít, nhưng đòi hỏi nỗ lực duy trì thường xuyên liên tục.
Vốn lớn, rủi ro cao; nhân lực trình
độ cao.
Đánh giá kết quả Tốt hơn, cần khoảng thời gian dài. Thay đổi đột ngột; năng suất, chất lượng thay đổi rõ rệt.
Do đó khái niệm đổi mới công nghệ được hiểu như sau:
Đổi mới công nghệ là việc thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công
nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn.
Đổi mới công nghệ có thể chỉ nhằm giải quyết các bài toán tối ưu các thông số sản xuất
như năng suất, chất lượng, hiệu quả (đổi mới công nghệ quá trình) hoặc có thể nhằm
tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục vụ thị trường (đổi mới công nghệ sản phẩm).
Đổi mới công nghệ có thể là đưa ra hoặc ứng dụng những công nghệ hoàn toàn mới
(ví dụ: sáng chế công nghệ mới) chưa có trên thị trường công nghệ hoặc là mới ở nơi
sử dụng nó lần đầu và trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới (ví dụ: đổi mới công nghệ
nhờ chuyển giao công nghệ).
4.1.2. Nhận thức về đổi mới công nghệ
4.1.2.1. Đổi mới công nghệ là tất yếu
Mỗi công nghệ có một vòng đời và tạo ra một chu kỳ sản phẩm. Đổi mới công nghệ là
tất yếu và phù hợp với quy luật phát triển.
Bài 4: Đổi mới công nghệ
NEU_ TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217 55
Tính tất yếu của đổi mới công nghệ còn do các lợi ích khác nhau cho doanh nghiệp
đổi mới cũng cho toàn xã hội nói chung. Các lợi ích đó là:
(1) Nâng cao chất lượng sản phẩm;
(2) Duy trì và tăng thị phần;
(3) Mở rộng phẩm cấp sản phẩm, tạo thêm chủng loại mới của sản phẩm;
(4) Đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn, luật lệ;
(5) Giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng;
(6) Cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao độ an toàn sản xuất;
(7) Giảm tác động xấu đối với môi trường sống.
Xét về mặt quốc gia có những đổi mới công nghệ còn nhằm nâng cao vị thế của quốc
gia trên trường chính trị quốc tế, đặc biệt là các đổi mới trong công nghệ quân sự.
4.1.2.2. Cơ sở của đổi mới công nghệ
Ngày nay quá trình đổi mới công nghệ gắn liền với sự phát triển của khoa học, thành
tựu của khoa học chính là cơ sở của đổi mới công nghệ. Sự tăng trưởng theo quy luật
hàm số mũ của các phát minh và sáng chế hiện nay đã rút ngắn vòng đời của công
nghệ. Đổi mới công nghệ dựa trên các phát minh và sáng chế.
Phát minh là việc khám phá ra những hiện tượng, quy luật của tự nhiên và xã hội đã
tồn tại hiển nhiên mà trước đây loài người chưa biết đến, nhờ đó làm thay đổi cơ bản
nhận thức của con người. Phát minh có khi là kết quả của sự ngẫu nhiên (định lý sức
nâng của chất lỏng của Ac–si–met) và nghiên cứu cơ bản (cơ chế phản ứng dây
chuyền hạt nhân của Pie Qui–ri). Sáng chế là việc làm ra những cái mới chưa từng có
trong tự nhiên và xã hội (sáng chế là việc áp dụng các phát minh lần đầu). Sáng chế là
kết quả của nghiên cứu ứng dụng. Định luật vạn vật
hấp dẫn là một trong những phát minh quan trọng của
nhà bác học Isaac – Newton. Nhưng trước đó quy luật
đó của tự nhiên vẫn tồn tại và Isaac – Newton là người
đầu tiên phát hiện ra quy luật đó. Máy ghi âm lại là ví
dụ về sáng chế của nhà thực nghiệm nổi tiếng Edison.
Trước khi Edison làm ra chiếc máy ghi âm đầu tiên thì vật có thể ghi lại âm thanh là
chưa hề có trong tự nhiên. Edision là người lần đầu tiên làm ra nó. Vì sáng chế có khả
năng áp dụng nên nó có ý nghĩa thương mại và được cấp bằng sáng chế (patent), có
thể mua bán patent hoặc ký các hợp đồng cấp giấy phép sử dụng (licence) cho người
có nhu cầu và được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Sáng chế có ba loại: sáng chế kế tục, sáng chế không kế tục và sáng chế bổ sung. Sáng
chế không kế tục là cùng với việc tạo ra sản phẩm mới là việc tạo ra hành vi tiêu dùng
mới (xe hơi) còn sáng chế kế tục (chăn điện) thì ngược lại. Sự ra đời của các thế hệ vô
tuyến màu đời mới là các sáng chế kế tục. Còn bản thân chiếc vô tuyến đen trắng đầu
tiên lại là sáng chế không kế tục. Sáng chế bổ sung là sáng chế làm tăng thông số sử
dụng nào đấy của một sản phẩm đang hiện hành, chẳng hạn, bộ xử lý co–processor
trong máy tính cả nhân hoặc mở rộng tính năng sử dụng của sản phẩm như máy thu
hình có thể xem nhiều kênh trên một mành hình.
7/18/20147/18/2014
Bài 4: Đổi mới công nghệ
56 NEU_TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217
4.1.2.3. Cơ chế đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ xẩy ra theo hai cơ chế: đổi mới bằng thay thế và đổi mới bằng
truyền bá.
Đổi mới bằng thay thế. Khi một công nghệ mới được
nghiên cứu thành công và được phép triển khai áp
dụng thì sản phẩm của nó sẽ dần dần chiếm thị phần
của sản phẩm của các công nghệ cũ. Quá trình thay thế
diễn ra được vì công nghệ mới tiên tiến hơn. Quá trình
này xẩy ra trong một khoảng thời gian dài vì vậy tại
một thời điểm bất kỳ tồn tại trạng thái đa công nghệ
tức là nhiều công nghệ cùng đáp ứng một nhu cầu song song tồn tại. Ví dụ: trên thị
trường bóng đèn chiếu sáng của Việt Nam hiện tại bóng huỳnh quang đang dần dần
chiếm thị phần của bóng đèn đốt, đồng thời bóng đèn LED cũng đang thay thế cho cả
hai loại bóng đèn trên.
Đổi mới bằng truyền bá. Sau khi một công nghệ được áp dụng lần đầu ở đâu đấy thì sự
áp dụng dần dần lan truyền sang những nơi khác tức là công nghệ được truyền bá từ nơi
này sang nơi khác. Tốc độ truyền bá bị chi phối bởi yếu tố “láng giềng” và yếu tố “bậc
thang”. Tính láng giềng thể hiện khi một người áp dụng tiềm tàng càng ở gần nguồn
công nghệ (cơ quan nghiên cứu và triển khai hoặc người đã áp dụng) càng dễ có khả
năng áp dụng. Công nghệ được truyền bá theo bậc thang tức là những người có khả
năng áp dụng cao hơn sẽ áp dụng trước so với người có khả năng áp dụng thấp hơn.
Khả năng áp dụng công nghệ của người áp dụng tiềm tàng có thể được đánh giá theo
một số chỉ tiêu phụ thuộc vào công nghệ và bối cảnh xung quanh. Khi chênh lệch giữa
độ cao của các bậc thang không lớn thì công nghệ sẽ được truyền bá nhanh hơn. Sự
truyền bá công nghệ thực chất là truyền bá thông tin về công nghệ vì vậy công nghệ
càng có sẵn thông tin và thông tin càng dễ được truyền bá thì càng dễ được truyền bá.
4.1.2.4. Thời điểm đổi mới công nghệ
Các doanh nghiệp muốn đổi mới thành công thì cần phải có hệ thống thông tin làm việc
có hiệu quả, phải cập nhật được thành tựu khoa học công nghệ nói chung và đặc biệt là
những thành tựu khoa học trong lĩnh vực mà mình hoạt động. Không những thế họ cần
có một phương pháp và kỹ thuật dự báo tốt để giúp họ có những kế hoạch đổi mới công
nghệ phù hợp với tiến trình phát triển và của những diễn biến trên thị trường công nghệ.
Lựa chọn thời điểm đổi mới có thể tạo điều kiện duy trì và nâng cao vị thế, tính cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường nếu có sự lựa chọn đúng, nhưng nó cũng có thể
đưa doanh nghiệp tới tình trạng khó khăn thậm chí phá sản nếu chọn sai thời điểm đổi
mới. Thời điểm đổi mới tuỳ thuộc vào khả năng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
của các nước đang phát triển nếu tiến hành đổi mới ở giai đoạn đầu của vòng đổi mới thì
họ sẽ gặp một số khó khăn có khi là bản thân họ không tự vượt qua được, chẳng hạn
như khả năng làm chủ công nghệ, khả năng khắc phục rủi ro, hoặc bị hạn chế trong quá
trình khai thác của công nghệ mới. Do đó việc đổi mới công nghệ có thể sẽ không hiệu
quả. Nhưng nếu doanh nghiệp không chủ động lựa chọn thời điểm đổi mới mà chỉ đổi
mới khi không còn phương án lựa chọn nào khác thì rõ ràng cơ hội để phát triển của họ
đã bị thu hẹp rất nhiều. Chắc chắn họ không có một vị thế cao trên thị trường và sự tồn
Bài 4: Đổi mới công nghệ
NEU_ TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217 57
tại của họ thường xuyên bị đe doạ. Thời điểm đổi mới (trên vòng đời công nghệ) còn
phụ thuộc vào quan điểm của nhà cung cấp, nếu truyền bá công nghệ mang lại cho họ
lợi nhuận nhiều hơn nhờ sự cam kết (tự nguyện hoặc không tự nguyện) của khách hàng
với công nghệ thì họ sẽ đẩy nhanh việc truyền bá công nghệ đó.
Đối với doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp chủ động đổi mới bằng sáng chế công nghệ,
thì thời điểm đổi mới phụ thuộc vào năng lực của họ, đặc biệt là năng lực công nghệ.
Trong nhiều trường hợp nếu đổi mới công nghệ của họ nhờ chuyển giao công nghệ thì
thời điểm đổi mới công nghệ còn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của công nghệ
đang sử dụng. Tính cạnh tranh của công nghệ giảm dần theo thời gian do đó họ cần
lựa chọn thời điểm và kế hoạch đổi mới sao cho phù hợp với khả năng và nhu cầu của
mình. Tuy nhiên sẽ có một thời điểm mà họ bắt buộc phải đổi mới công nghệ nếu họ
không muốn diệt vong đó là thời điểm mà tính cạnh tranh của công nghệ họ đang sử
dụng không còn nữa như được chỉ ra trên hình 4.1.
Hình 4.1 Minh hoạ thời điểm đổi mới công nghệ
Đồ thị trên hình 4.1 biểu thị sự thay đổi của giá sản phẩm của công nghệ đang hiện
hành và công nghệ mới theo thời gian: p1spvà p1b là giá thành sản phẩm và giá bán sản
phẩm của công nghệ đang sử dụng. p2sp và p2b là giá thành của sản phẩm và giá bán
sản phẩm của công nghệ mới xuất hiện. Thời điểm t* chính là thời điểm đánh dấu sự
diệt vong cho tính cạnh tranh của công nghệ đang sử dụng. Có thể thấy rằng doanh
nghiệp nào mà tiến hành đổi mới ở lân cận t* thì doanh nghiệp đó không phải là doanh
nghiệp có mức độ phát triển cao. Họ mới chỉ duy trì được sự tồn tại mà thôi.
4.1.2.5. Hàm mục tiêu của đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ theo hướng nào, đạt được những mục tiêu gì, hay nói một cách khác
việc xác định hàm mục tiêu cho đổi mới công nghệ là một việc làm đầu tiên, quan trọng
của quá trình đổi mới. Nó quyết định tới sự thích hợp và hiệu quả của đổi mới. Hàm
mục tiêu phải được xây dựng một cách thận trọng bằng phương pháp khoa học trên cơ
sở phân tích đánh giá một cách chính xác điều kiện hoàn cảnh thực tế và phải phù hợp
với kế hoạch và chính sách phát triển khác. Với một số các quốc gia ở Châu Phi, các
công nghệ tương đối gây ô nhiễm và cần nhiều nguyên, nhiên vật liệu vẫn có thể được
lựa chọn bởi vì tài nguyên thiên nhiên của họ tương đối dồi dào, các công nghệ này
không đắt và quan điểm của họ cho rằng cái đói thì gần những vấn đề về môi trường thì
xa, mặt khác họ cho rằng đối tượng phải chịu trách nhiệm về sự suy giảm chất lượng
t* t
P1b
P1sp
P2sp
P
P2b
7/18/20147/18/2014
Bài 4: Đổi mới công nghệ
58 NEU_TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217
môi trường toàn cầu là các nước phát triển Nhưng chắc chắn các công nghệ đó không
được lựa chọn để đổi mới ở các quốc gia phát triển vì hiệu quả thấp, sự hạn chế về tài
nguyên thiên nhiên ở các nước này và đặc biệt là áp lực của xã hội. Tuy nhiên, công
nghệ có tính hai mặt, do đó hàm mục tiêu thực tế phải là một tổ hợp tối ưu về những tác
động tích cực và tiêu cực khả dĩ mà đổi mới công nghệ có thể mang lại.
4.1.2.6. Sự thay thế trong đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ thực chất là một quá trình thay thế, tuân theo quy luật phủ định.
Các công nghệ mới hơn do ưu việt hơn sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh ngày càng
mạnh và sẽ tiến tới thay thế hoàn toàn công nghệ cũ như được chỉ ra trên hình 4.1.
Trong quá trình thay thế, do tốc độ đổi mới công nghệ ngày càng nhanh, sự phủ định
có thể diễn ra theo nhiều cấp đồng thời, quá trình đó thường diễn ra theo một quy luật
gọi là phủ định có trật tự. Tức là công nghệ nghệ cũ nhất luôn thu hẹp thị phần của
mình, các công nghệ mới nhất luôn mở rộng thị phần của mình, còn các công nghệ
trung gian một mặt vừa chiếm lấy thị phần của các công nghệ lạc hậu hơn nó đồng
thời lại nhượng lại thị phần của mình cho các công nghệ hiện đại hơn.
4.1.2.7. Vai trò của xã hội trong đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ thành công thực sự có ý nghĩa khi
và chỉ khi nó được thương mại hoá tức là được thị
trường, xã hội chấp nhận. Xã hội chính là nơi tiếp nhận
thành tựu của đổi mới công nghệ nhưng đồng thời cũng
chính là nguồn cung cấp nguồn lực cho đổi mới công
nghệ thành công. Mọi đổi mới công nghệ đều bắt nguồn
từ những nhu cầu của xã hội hoặc phục vụ nhu cầu nào
đó của xã hội. Đổi mới công nghệ là một quá trình sáng tạo mà quá trình đó thường xuất
phát từ các cá nhân không hài lòng với thực tại. Họ muốn chứng tỏ giá trị của mình trên
cơ sở thừa nhận giá trị của tính độc lập suy nghĩ, có tư duy mạch lạc, khả năng đánh giá
thông tin, kiên trì trong việc theo đuổi mục đích của mình và đặc biệt là quan tâm tới
các vấn đề trí tuệ và nhận thức. Nhưng để các cá nhân đó có thể sáng tạo thành công thì
cần phải có một môi trường sáng tạo với những đặc trưng sau: cho phép người lao động
làm việc trong lĩnh vực mà họ yêu thích; khuyến khích, tạo điều kiện cho các mối quan
hệ, tiếp xúc giữa các đồng nghiệp; có thể giảm nhẹ sự rủi ro; khoan dung với thất bại và
không tuân theo các tập tục; có chế độ đãi ngộ thích đáng; về giáo dục cần có một nền
giáo dục mang tính khoa học – không tuyệt đối hoá mà luôn luôn đặt ra các câu hỏi như
tại sao, bản chất của sự kiện ở đâu và đặc biệt cần cảnh giác với sự chắc chắn bề ngoài.
4.2. Quá trình đổi mới công nghệ
4.2.1. Một số xu thế ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ
4.2.1.1. Xu thế hợp tác quốc tế
Xu thế này nhấn mạnh vào tầm quan trọng của sự hợp tác trong khoa học và công nghệ
giữa các quốc gia – một xu thế tất yếu của sự phát triển. Sự hợp tác có thể rất đa dạng,
như thông qua các ấn phẩm xuất bản (sách, báo, tạp chí) trên phạm vi toàn thế giới.
Bài 4: Đổi mới công nghệ
NEU_ TXQLCN02_Bai4_v1.0014106217 59
Dạng khác của xu thế hợp tác quốc tế chỉ mới xuất hiện gần đây một cách đều đặn đó
là các hoạt động liên ngành, đặc biệt mối quan hệ hữu cơ giữa các trường đại học và
khu vực công nghiệp ngày càng trở nên quan trọng.
Mặt khác, các doanh nghiệp không hoạt động độc lập, họ hợp tác, buôn bán với nhau
trong một số lĩnh vực và cạnh tranh trong một số lĩnh vực khác. Vì vậy, vai trò của các
doanh nghiệp là khá quan trọng trong đổi mới. Trước đây việc huy động các nguồn
lực cần thiết để triển khai và thương mại hoá một sản phẩm dễ dàng hơn về nhiều mặt,
chủ yếu là do các nguồn lực cần có là quá ít so với ngày nay, đồng thời quá trình
chuyên môn hoá chuyên sâu (một xu thế tất yếu của cả thế giới) đã hạn chế nghiên
cứu dàn trải trên diện rộng, các doanh nghiệp đều mong muốn có được các lợi thế
cạnh tranh bằng việc đi sâu vào một số lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là các doanh nghiệp
lớn. Vào đầu thế kỷ 20 hãng