1.1.1. Khái niệm quản trị tác nghiệp
Khi nói đến sản xuất nhiều người thường nghĩ tới những doanh nghiệp chế tạo, sản xuất
các sản phẩm vật chất cụ thể như bàn, ghế, tủ. và gắn liền với những hình ảnh của nhà
máy, xí nghiệp, dây chuyền sản xuất. Trong quá khứ, vấn đề này chỉ được thực hiện
riêng biệt trong việc quản lý sản xuất. Trong những năm gần đây, phạm vi của việc tổ
chức điều hành sản xuất được mở rộng, trong thực tế có những doanh nghiệp vừa sản
xuất sản phẩm dưới dạng vật chất thuần túy lại vừa có những hoạt động khác dưới dạng
phi vật chất chằng hạn như tổ chức vận chuyển sản phẩm đến cho khách hàng, cung cấp
những dịch vụ sau bán hàng Sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra không chỉ
đáp ứng những yêu cầu về mặt giá trị sử dụng vật chất mà cả về những yếu tố tinh thần,
văn hóa của người tiêu dùng. Hiện nay, khi nói đến sản phẩm người ta không chỉ nghĩ
đến những thuộc tính có tính chất vô hình mà còn cả những yếu tố khác có tính chất hữu
hình. Sản phẩm được hình thành từ các thuộc tính vật chất hữu hình và vô hình. Thuộc
tính hữu hình phản ánh giá trị sử dụng khác nhau như công năng, công dụng, đặc tính
kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm. Những thuộc tính vô hình bao gồm các yếu tố như
thông tin hay các dịch vụ đi kèm để đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách tốt hơn.
15 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 754 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Quản trị tác nghiệp - Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214 1
BÀI 1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUẢN TRỊ TÁC NGHIỆP
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
Giáo trình Quản trị tác nghiệp – Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
Trang Web môn học.
Nội dung
Tổng quan về quản trị sản xuất;
Nội dung của quản trị sản xuất;
Các nhiệm vụ, yêu cầu của nhà quản trị sản xuất;
Quá trình hình thành và xu hướng phát triển của quản trị sản xuất;
Các loại quá trình sản xuất.
Mục tiêu
Giới thiệu những kiến thức cơ bản có tính chất tổng quan về môn học;
Giới thiệu các nội dung chính của toàn bộ bài trình của môn học và nội dung của quản
trị tác nghiệp.
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
2 NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214
Tình huống dẫn nhập
Khó khăn của chị Hòa
Chị Hòa chủ một xưởng may gia công, xưởng của chị có rất nhiều đơn hàng. Trước đây, chị
Hòa là một thợ may giỏi nhưng chủ yếu chỉ qua kinh nghiệm mà thành công chứ chưa qua
một khóa đào tạo nào về quản trị doanh nghiệp và quản trị sản xuất. Do tính cạnh tranh ngày
càng găy gắt, hiện nay xưởng của chị còn gặp nhiều khó khăn trong điều hành sản xuất, chi
phí đầu vào tăng cao, lượng tồn kho khá nhiều dẫn đến lợi nhuận còn thấp. Chị Hòa quyết định
sẽ tham gia một khóa đào tạo về quản trị và điều hành sản xuất để hiểu rõ hơn về việc điều
hành sản xuất và kinh doanh.
1. Tại sao chị Hòa lại gặp nhiều khó khăn như vậy?
2. Quyết định tham gia một khóa học về quản trị tác nghiệp của chị có hợp lý
hay không?
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214 3
1.1. Thực chất quản trị tác nghiệp
1.1.1. Khái niệm quản trị tác nghiệp
Khi nói đến sản xuất nhiều người thường nghĩ tới những doanh nghiệp chế tạo, sản xuất
các sản phẩm vật chất cụ thể như bàn, ghế, tủ... và gắn liền với những hình ảnh của nhà
máy, xí nghiệp, dây chuyền sản xuất. Trong quá khứ, vấn đề này chỉ được thực hiện
riêng biệt trong việc quản lý sản xuất. Trong những năm gần đây, phạm vi của việc tổ
chức điều hành sản xuất được mở rộng, trong thực tế có những doanh nghiệp vừa sản
xuất sản phẩm dưới dạng vật chất thuần túy lại vừa có những hoạt động khác dưới dạng
phi vật chất chằng hạn như tổ chức vận chuyển sản phẩm đến cho khách hàng, cung cấp
những dịch vụ sau bán hàng Sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra không chỉ
đáp ứng những yêu cầu về mặt giá trị sử dụng vật chất mà cả về những yếu tố tinh thần,
văn hóa của người tiêu dùng. Hiện nay, khi nói đến sản phẩm người ta không chỉ nghĩ
đến những thuộc tính có tính chất vô hình mà còn cả những yếu tố khác có tính chất hữu
hình. Sản phẩm được hình thành từ các thuộc tính vật chất hữu hình và vô hình. Thuộc
tính hữu hình phản ánh giá trị sử dụng khác nhau như công năng, công dụng, đặc tính
kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm. Những thuộc tính vô hình bao gồm các yếu tố như
thông tin hay các dịch vụ đi kèm để đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách tốt hơn.
Theo quan niệm phổ biến hiện nay thì sản xuất được hiểu là quá trình tạo ra sản phẩm
hoặc dịch vụ. Sản xuất là một trong phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo
ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ cho xã hội. Quản lý hệ thống sản xuất sản phẩm,
dịch vụ là chức năng, nhiệm vụ cơ bản của từng doanh nghiệp. Hình thành, phát triển
và tổ chức điều hành tốt hoạt động sản xuất là cơ sở và yêu cầu thiết yếu để mỗi doanh
nghiệp có thể đứng vững và phát triển trên thị trường. Quản trị sản xuất chính là tổng
hợp quá trình hoạch định, tổ chức triển khai và kiểm tra hệ thống sản xuất của doanh
nghiệp mà trong đó yếu tố trung tâm là quản trị quá trình biến đổi nhằm chuyển hóa
các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra nhằm thực hiện những mục tiêu định trước.
Dưới nhãn quan hệ thống, sản xuất bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, có mối quan hệ qua
lại chặt chẽ với nhau. Toàn bộ phân hệ sản xuất và tác nghiệp được thể hiện qua hình 1.1.
Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống sản xuất và tác nghiệp
Thông tin
Đầu vào Đầu ra
Thông tin ngược Thông tin ngược
Yếu tố ngẫu nhiên
Quá tình biến đổi
(T)
Kiểm tra
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
4 NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214
Bộ phận trung tâm của hệ thống sản xuất là quá trình biến đổi. Đó là quá trình chế
biến, chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành đầu ra gồm hàng hóa hoặc dịch vụ, đáp ứng
nhu cầu xã hội. Vì được xác định là bộ phận hạt nhân của hệ thống sản xuất, do đó kết
quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc thiết kế, tổ chức và quản
trị quá trình biến đổi này.
Các yếu tố đầu vào rất đa dạng bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, con người, công
nghệ, thông tin, khách hàng Chúng là những nguồn lực cần thiết cho bất kỳ quá trình
sản xuất nào. Muốn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả đòi hỏi
phải khai thác và sử dụng các yếu tố đầu vào một cách hợp lý, tiết kiệm nhất.
Đầu ra thường bao gồm hai loại là sản phẩm và dịch vụ. Đối với các hoạt động cung
cấp dịch vụ, đầu ra được thể hiện dưới nhiều dạng khó nhận biết một cách cụ thể như
của hoạt động sản xuất. Ngoài những sản phẩm hoặc dịch vụ được tạo ra sau mỗi quá
trình sản xuất/cung ứng dịch vụ còn có một số phụ phẩm khác có ích hoặc không có
ích cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đôi khi đòi hỏi phải có chi phí lớn cho việc xử
lý, giải phóng chúng, nhất là trong yêu cầu phát triển bền vững ngày nay, chẳng hạn
phế phẩm, chất thải các loại
Thông tin ngược là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống sản xuất của doanh
nghiệp. Những thông tin này cho biết tình hình thực tế diễn ra như thế nào? Từ đó sẽ
giúp nhà quản trị có những điều chỉnh hợp lý trong quản trị.
Các đột biến ngẫu nhiên ảnh hưởng đến hoạt động của toàn bộ hệ thống sản xuất, đôi
khi làm cho sản xuất không thực hiện được mục tiêu như mong muốn. Chẳng hạn như
thiên tai, lũ lụt, chiến tranh, hỏa hoạn, sự thay đổi về chính sách, thị hiếu của khách
hàng thay đổi
Nhiệm vụ của quản trị tác nghiệp là thiết kế và tổ chức hệ thống sản xuất nhằm biến
đổi đầu vào thành đầu ra sau mỗi quá trình biến đổi, nhưng với một lượng lớn hơn đầu
tư ban đầu. Đó chính là phải tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Giá trị gia tăng
là yếu tố quan trọng tạo ra động cơ phấn đấu của mỗi doanh nghiệp. Với xã hội tạo ra
ngày càng nhiều giá trị gia tăng sẽ góp phần tăng thu nhập quốc dân, tăng tích lũy của
cải cho một xã hội ngày càng giàu có và phát triển.
1.1.2. Nội dung của quản trị tác nghiệp
Chúng ta đã biết bộ phận tổ chức điều hành sản xuất chịu trách nhiệm sản xuất sản
phẩm và dịch vụ. Quá trình này bao gồm việc tiếp nhận nguồn nguyên vật liệu và
biến đổi chúng từ đầu vào thành đầu ra. Nội dung của quản trị tác nghiệp bao gồm:
Dự báo nhu cầu sản xuất sản phẩm;
Thiết kế sản phẩm và dịch vụ;
Hoạch định năng lực sản xuất;
Định vị doanh nghiệp;
Bố trí mặt bằng sản xuất;
Hoạch định tổng hợp các nguồn lực;
Hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu;
Điều độ sản xuất;
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214 5
Quản trị dự trữ;
Quản trị chất lượng;
Kiểm soát hệ thống sản xuất.
1.1.3. Mục tiêu của quản trị tác nghiệp
Các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu sinh lời
(ngoại trừ các doanh nghiệp công ích không vì lợi nhuận). Lợi nhuận tối đa là mục
tiêu chung nhất và là mục tiêu cuối cùng của mọi doanh nghiệp khi đầu tư vật lực và
tài lực vào các hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Quản trị tác nghiệp có mục tiêu tổng quát là bảo đảm
cung cấp đầu ra cho doanh nghiệp trên cơ sở khai thác
có hiệu quả nhất các nguồn lực của doanh nghiệp đồng
thời thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Để đạt
được mục tiêu chung nhất này, quản trị sản xuất/tác
nghiệp có những mục tiêu cụ thể sau:
Bảo đảm chất lượng sản phẩm/dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng trên cơ sở khả
năng của doanh nghiệp;
Bảo đảm đúng dung lượng mong muốn của thị trường;
Giảm chi phí sản xuất tới mức thấp nhất có thể khi tạo ra một đơn vị đầu ra;
Rút ngắn thời gian sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
Đảm bảo cung ứng đúng thời điểm, đúng địa điểm, đúng yêu cầu, đúng số lượng
và đúng khách hàng;
Xây dựng hệ thống sản xuất năng động, linh hoạt;
Bảo đảm mối quan hệ qua lại tốt với khách hàng và nhà cung ứng;
Xây dựng hệ thống và các phương pháp quản trị gọn nhẹ và không có lỗi với
khách hàng.
Hệ thống mục tiêu cụ thể trên cần gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo ra sức mạnh tổng hợp,
góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường.
1.1.4. Phân biệt giữa hoạt động sản xuất và hoạt động dịch vụ
Những năm gần đây, quản trị tác nghiệp được sử dụng khá phổ biến trong các doanh
nghiệp. Những khái niệm và những kỹ thuật được sử dụng trong quản trị sản xuất
trong thế giới công nghiệp đã ngày càng được sử dụng rất thành công trong các doanh
nghiệp dịch vụ. Đó là khái niệm được dùng để phản ánh chung cho cả hai loại quá
trình là quá trình sản xuất và quá trình dịch vụ. Lý do giải thích cho xu hướng mới đó
là cả hai loại quá trình này đều có những chức năng chung như hoạch định, thiết kế, tổ
chức, kiểm tra hệ thống sản xuất hoặc dịch vụ. Bất kỳ hoạt động nào của sản xuất hay
dịch vụ đều cần thực hiện những chức năng trên. Hơn nữa, ngày nay các doanh nghiệp
thường tham gia kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm cả hoạt động sản
xuất và hoạt động cung cấp dịch vụ. Xu hướng sử dụng khái niệm quản trị tác nghiệp
bao trùm được cả hai loại hoạt động trên trong doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp
xây dựng được những chiến lược phát triển thích hợp với cả sản xuất và dịch vụ.
Ngoài ra cũng còn cần tính đến xu hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế của các nước
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
6 NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214
trong thời đại ngày nay, đó là khi trình độ kinh tế phát triển càng cao thì vai trò và tỷ
trọng của khu vực dịch vụ càng tăng. Đó cũng là lý do các doanh nghiệp càng ngày càng
quan tâm tới quá trình dịch vụ và quản trị nó.
Tuy có những chức năng chung và xu hướng vận dụng những khái niệm, phương pháp
quản trị chung nhưng do đặc điểm của quá trình này có những nét đặc thù cần phải
nghiên cứu và vận dụng thỏa đáng. Những điểm khác biệt giữa quá trình sản xuất và
quá trình cung cấp dịch vụ thường bao gồm:
Đặc điểm đầu vào và đầu ra;
Mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng;
Sự tham gia của khách hàng trong quá trình biến đổi;
Thời gian từ khi sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ đến khi tiêu dùng;
Khả năng đo lường, đánh giá năng suất, chất lượng.
Bảng 1.1. Sự khác biệt giữa hoạt động sản xuất và dịnh vụ
Đặc điểm Sản xuất Dịch vụ
Đầu ra Hữu hình
Có thể dự trữ
Vô hình
Không thể dự trữ
Đầu vào Ổn định, tiêu chuẩn hóa Không đồng đều, không ổn định
Thời điểm tiêu dùng Tách biệt Đồng thời
Tiêu chí đánh giá về chất lượng Dễ dàng Khó xác định
Đánh giá trả công Trực tiếp, dễ dàng Gián tiếp, khó
Quan hệ với khách hàng Gián tiếp Trực tiếp
Đo lường năng suất Dễ Khó
Có thể cấp bằng sáng chế Thông thường Không có
Những đặc trưng trên đòi hỏi khi thiết kế, hoạch định và quản trị hệ thống sản xuất/tác
nghiệp của mỗi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và giải quyết và tìm ra phương
pháp quản trị thích hợp và hiệu quả.
1.1.5. Vai trò và mối quan hệ giữa quản trị tác nghiệp với các chức năng quản trị khác
Doanh nghiệp là một hệ thống thống nhất bao gồm ba chức năng cơ bản là tài chính,
sản xuất và marketing. Ba chức năng này tồn tại một cách độc lập hoặc có mối quan
hệ tác động lẫn nhau để đạt mục tiêu đã đề ra. Mối quan hệ này vừa thống nhất, tạo
điều kiện thuận lợi thúc đẩy nhau cùng phát triển, lại vừa mâu thuẫn nhau. Marketing
chịu trách nhiệm tạo ra nhu cầu, cung cấp thông tin về thị trường để làm căn cứ cho bộ
phận sản xuất lập kế hoạch sản xuất, chuẩn bị các nguồn lực cần thiết nhằm tạo điều
kiện đáp ứng tốt nhất nhu cầu trên thị trường. Chức năng tài chính đảm bảo đầy đủ,
kịp thời tài chính cần thiết cho hoạt động sản xuất; phân tích đánh giá phương án đầu
tư mua sắm máy, công nghệ mới; cung cấp các số liệu về chi phí cho hoạt động tác
nghiệp. Các doanh nghiệp không thể thành công khi không thực hiện đồng bộ các
chức năng này. Không quản trị sản xuất tốt thì không có sản phẩm hoặc dịch vụ tốt;
không có Marketing thì sản phẩm hoặc dịch vụ cung ứng không nhiều; không có quản
trị tài chính thì các thất bại về tài chính sẽ diễn ra. Trong các hoạt động trên, sản xuất
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214 7
được coi là khâu quyết định tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ và giá trị gia tăng. Chỉ có
hoạt động sản xuất hay dịch vụ mới là nguồn gốc của mọi sản phẩm và dịch vụ được
tạo ra trong doanh nghiệp. Sự phát triển sản xuất và dịch vụ là cơ sở làm tăng giá trị
gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế cho nền kinh tế quốc dân tạo cơ sở vật
chất thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên, giữa các chức năng trên có những mâu
thuẫn với nhau. Chẳng hạn, chức năng sản xuất và marketing có những mục tiêu mâu
thuẫn với nhau về thời gian, về chất lượng và mức độ đa dạng. Trong khi bộ phận
marketing đòi hỏi sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đa dạng và thời gian giao hàng
nhanh thì quá trình sản xuất lại có những giới hạn về công nghệ, chu kỳ sản xuất, khả
năng tiết kiệm chi phí nhất định. Cũng do những giới hạn trên mà không phải lúc nào
sản xuất cũng đảm bảo thực hiện đúng những chỉ tiêu tài chính đặt ra và ngược lại
nhiều khi những nhu cầu về đầu tư đổi mới công nghệ hoặc tổ chức thiết kế, sắp xếp
lại sản xuất không được bộ phận tài chính cung cấp kịp thời. Những mâu thuẫn đôi khi
là khách quan, song cũng có khi do những yếu tố chủ quan gây ra. Vì vậy, nhiệm vụ
cơ bản là phải tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động của các chức năng trên nhằm
đảm bảo thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp đã đề ra.
1.1.6. Các loại hình quá trình sản xuất
Có thể chia quá trình sản xuất của doanh nghiệp thành những loại hình khác nhau dựa
theo các tiêu thức khác nhau như số lượng và đặc điểm của sản phẩm sản xuất; kết cấu
của sản phẩm; tính chất của quá trình sản xuất hoặc khả năng tự chủ trong sản xuất
của doanh nghiệp.
1.1.6.1. Theo số lượng sản phẩm sản xuất và tính chất lập lại
Sản xuất đơn chiếc
Sản xuất đơn chiếc là hình thức sản xuất diễn ra trong các doanh nghiệp có số
chủng loại sản xuất nhiều nhưng sản lượng mỗi loại được sản xuất rất nhỏ. Quá
trình sản xuất không lặp lại, thường được tiến hành một lần. Thường mỗi loại sản
phẩm người ta chỉ sản xuất một chiếc hoặc vài chiếc.
Ví dụ: Đóng tàu thuyền, xây dựng cầu, các công trình kiến trúc, thời trang,
khuôn dập...
Đặc điểm của loại sản xuất này là:
Chủng loại sản phẩm đa dạng, quy trình sản
xuất không giống nhau;
Số lượng đặt hàng mỗi lần ít, thời gian giao
hàng không thống nhất;
Không có sự chế tạo thử nghiệm sản phẩm trước khi đưa vào sản xuất.
Yêu cầu về kỹ năng thao tác và trình độ nghề nghiệp của người công nhân cao
vì họ phải làm nhiều loại công việc khác nhau;
Máy móc thiết bị chủ yếu là các thiết bị đa năng. Các thiết bị này được sắp xếp
theo từng loại máy có cùng tính năng tác dụng phù hợp với những công việc
khác nhau và thay đổi liên tục.
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
8 NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214
Sản xuất hàng khối
Sản xuất hàng khối là hình thức sản xuất diễn ra trong các doanh nghiệp có số
chủng loại sản phẩm được sản xuất ra ít với khối lượng hàng năm lớn. Quá trình
sản xuất ổn định, ít khi có sự thay đổi về kết cấu sản phẩm và yêu cầu kỹ thuật gia
công sản phẩm.
Ví dụ điển hình của loại sản xuất này là: Sản xuất
thép, sản xuất giấy, sản xuất điện, xi măng, báo,
tạp chí.
Các doanh nghiệp có loại hình sản xuất này thường
có những đặc điểm chính sau:
Sử dụng máy móc chuyên dụng: Vì gia công chế
biên ít loại sản phẩm với khối lượng lớn nên thiết bị máy móc thường là các loại
thiết bị chuyên dùng hoặc các loại thiết bị tự động, được sắp xếp thành các dây
chuyền khép kín cho từng loại sản phẩm.
Phải qua sản xuất thử. Khâu chuẩn bị kỹ thuật sản xuất như thiết kế sản phẩm,
chế tạo các mẫu thử sản phẩm và quy trình công nghệ gia công sản phẩm được
chuẩn bị rất chu đáo trước khi đưa vào sản xuất hàng loạt.
Tính chuyên môn hoá và năng suất lao động cao. Do tổ chức sản xuất theo kiểu
dây chuyền nên trình độ chuyên môn hoá người lao động cao, mỗi người công
nhân thường chỉ thực hiện một công việc sản xuất ổn định trong thời gian tương
đôí dài nên trình độ nghề nghiệp của người lao động không cao nhưng năng suất
lao động thì rất cao.
Chất lượng sản phẩm ổn định, giá thành thấp do sản xuất có xu hướng tiêu
chuẩn hoá.
Với hình thức sản xuất cần quản lý chặt chẽ việc cung ứng nguyên vật liệu, quản
lý hàng dự trữ, hàng tồn kho, thường xuyên bảo dưỡng thiết bị, quản lý chặt chẽ
đối với công nhân và giám sát chất lượng sản phẩm. Đẩy mạnh việc tiêu thụ, đa
dạng hoác các loại khách hàng và các loại thị trường để tận dụng công suất và sản
xuất được diễn ra liên tục.
Sản xuất hàng loạt
Sản xuất hàng loạt là loại hình trung gian giữa sản xuất đơn chiếc và sản xuất
hàng khối. Nó phù hợp với các doanh nghiệp sản xuất có số chủng loại sản phẩm
tương đối nhiều nhưng khối lượng hàng năm mỗi loại chưa đủ lớn để có thể hình
thành một dây chuyền sản xuất độc lập.
Mỗi bộ phận sản xuất phải gia công chế biến nhiều loại sản phẩm được lặp đi lặp
lại theo chu kỳ. Với mỗi loại sản phẩm người ta thường đưa vào sản xuất theo
từng “loạt” nên chúng mang tên là sản xuất hàng loạt.
Ví dụ của loại hình sản xuất này là sản xuất trong ngành cơ khí, dệt may, điện dân
dụng, đồ gỗ nội thất, sản phẩm cơ khí,điện tử chuyên dùng... với những đặc trưng
chủ yếu sau:
Máy móc thiết bị chủ yếu là thiết bị đa năng. Máy móc này được sắp xếp bố trí
thành những phân xưởng chuyên môn hoá công nghệ. Mỗi phân xưởng đảm nhận
một giai đoạn công nghệ nhất định của quá trình sản xuất sản phẩm.
Bài 1: Giới thiệu chung về quản trị tác nghiệp
NEU_MAN610_Bai1_v1.0013111214 9
Năng suất lao động tương đối cao. Chuyên môn hoá sản xuất không cao nhưng quá
trình sản xuất lặp đi lặp lại một cách tương đối ổn định nên năng suất lao động tương
đối cao. Mỗi bộ phận sản xuất gia công nhiều loại sản phẩm khác nhau về yêu cầu kỹ
thuật và quy trình công nghệ nên tổ chức sản xuất thường rất phức tạp.
1.1.6.2. Phân loại theo hình thức tổ chức sản xuất
Theo tiêu chí này quá trình sản xuất chia thành quá trình sản xuất liên tục, quá trình
sản xuất gián đoạn và dự án sản xuất.
Quá trình sản xuất liên tục
Sản xuất liên tục là một quá trình mà ở đó người ta
xử lý, gia công, chế biến một hoặc một nhóm sản
phẩm với khối lượng lớn và có tính chất liên tục.
Quá trình sản xuất được tiến hành liên tục trong
suốt cả năm không gián đoạn. Đây là quá trình có
khối lượng sản phẩm sản xuất lớn, chủng loại ít
mang tính chuyên môn cao.
Ví dụ: Công nghiệp hoá dầu, công nghiệp xi măng là những ví dụ điển hình về
dạng sản xuất này, người ta cũng thấy dạng tổ chức sản xuất này trong quá trình
lắp ráp sản phẩm với khối lượng lớn.
Đặc điểm của hình thức sản xuất này:
Thường gắn liền với tự động hoá quá trình vận chuyển nội bộ bằng hệ thống
vận chuyển hàng hoá tự động;
Giá thành sản phẩm thấp;
Chất lượng cao và ổn định;
Ít phải chỉ dẫn công việc;
Quá trình điều hành sản xuất đơn giản, dễ kiểm soát chất lượng và hàng dự trữ.
Quá trình sản xuất gián đoạn
Sản xuất gián đoạn là một hình thức tổ chức sản xuất ở đó người ta xử lý gia c