Giáo trình môn học Sức khỏe Môi trường do giảng viên Bộ môn Y Xã
hội học của Trường Đại học Tây Đô biên soạn. Giáo trình được biên soạn có
cập nhật những thông tin, kiến thức trong lĩnh vực môi trường phù hợp với đối
tượng sinh viên Đại học và Cao đẳng Điều dưỡng, nội dung bám sát theo mục
tiêu, chương trình khung dành cho đối tượng.
Giáo trình bao gồm 8 bài, mỗi bài có 3 phần: mục tiêu học tập, nội dung
và lượng giá. Giáo trình Sức khỏe môi trường là tài liệu chính thức để học tập
và giảng dạy trong trường nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về các
yếu tố môi trường và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe và nghề nghiệp. Từ đó,
vận dụng được các kiến thức này vào công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao
sức khỏe cho người bệnh, cộng đồng và nhận thức được trách nhiệm cá nhân
trong thực hành nghề nghiệp.
112 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Sức khỏe môi trường - Nguyễn Thị Hồng Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
GIÁO TRÌNH
SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
Biên soạn: ThS. Nguyễn Thị Hồng Nguyên
ThS. Trần Trúc Linh
Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
GIÁO TRÌNH
SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
Biên soạn: ThS.Nguyễn Thị Hồng Nguyên
ThS. Trần Trúc Linh
Năm 2016
MỤC LỤC
Bài 1: Đại cương về sức khỏe môi trường............................................................1
Bài 2: Quản lý sức khỏe môi trường ..................................................................15
Bài 3: Ô nhiễm không khí...................................................................................28
Bài 4: Nước và vệ sinh nước ...............................................................................38
Bài 5: Vệ sinh môi trường bệnh viện .................................................................65
Bài 6: An toàn môi trường..................................................................................75
Bài 7: Quản lý chất thải rắn y tế ........................................................................86
Bài 8: Phát triển bền vững..................................................................................95
LỜI MỞ ĐẦU
Giáo trình môn học Sức khỏe Môi trường do giảng viên Bộ môn Y Xã
hội học của Trường Đại học Tây Đô biên soạn. Giáo trình được biên soạn có
cập nhật những thông tin, kiến thức trong lĩnh vực môi trường phù hợp với đối
tượng sinh viên Đại học và Cao đẳng Điều dưỡng, nội dung bám sát theo mục
tiêu, chương trình khung dành cho đối tượng.
Giáo trình bao gồm 8 bài, mỗi bài có 3 phần: mục tiêu học tập, nội dung
và lượng giá. Giáo trình Sức khỏe môi trường là tài liệu chính thức để học tập
và giảng dạy trong trường nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về các
yếu tố môi trường và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe và nghề nghiệp. Từ đó,
vận dụng được các kiến thức này vào công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao
sức khỏe cho người bệnh, cộng đồng và nhận thức được trách nhiệm cá nhân
trong thực hành nghề nghiệp.
Do lần đầu tiên biên soạn chắc chắn có nhiều thiếu sót, chúng tôi rất
mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp, quý thầy cô và sinh viên
nhà trường để giáo trình ngày càng hoàn thiện hơn.
BM.Y Xã hội học
DANH MỤC VIẾT CHỮ VIẾT TẮT
Luật BVMT Luật bảo vệ môi trường
GDP Thu nhập bình quân theo đầu người
WHO Tổ chức y tế thế giới
ÔNKK Ô nhiễm không khí
SBS Hội chứng bệnh nhà kín
NVYT Nhân viên y tế
CDC Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ
YPLL Năm sống tiềm tàng bị mất
KSNK Kiểm soát nhiễm khuẩn
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hiệp quốc
UNEP Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc
1Bài 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được định nghĩa, khái niệm về môi trường và sức khỏe môi trường.
2. Nêu được khái niệm và các khía cạnh lịch sử của sức khoẻ môi trường.
3. Trình được mối quan hệ giữa sức khoẻ và môi trường.
4. Giải thích được những vấn đề sức khoẻ môi trường mang tính cấp bách ở địa
phương và trên thế giới.
NỘI DUNG:
I. ĐỊNH NGHĨA VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA
MÔI TRƯỜNG
Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam, môi trường được định nghĩa như sau:
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết
với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và thiên nhiên.
1.1. Môi trường lý học
Môi trường lý học nếu vượt qua các giới hạn tiếp xúc bình thường có thể ảnh
hưởng đến sức khoẻ. Môi trường lý học bao gồm thời tiết và khí hậu (nhiệt độ cao,
thấp, thay đổi thất thường, độ ẩm không khí, gió) các loại bức xạ ion hoá và không ion
1.2. Môi trường hoá học
Các yếu tố hoá học có thể tồn tại dưới các dạng rắn, lỏng và dạng khí. Cũng có
các dạng đặc biệt như bụi, khí dung, hơi khói... Các yếu tố hoá học có thể có nguồn
gốc phát sinh từ các hoạt động sống, sinh hoạt và sản xuất của con người
1.3. Môi trường sinh học
Các yếu tố sinh học cũng rất phong phú, từ các sản phẩm động thực vật đến các
loài nấm mốc, vi khuẩn, virus, ký sinh trùng và côn trùng. Chúng có thể là các tác
nhân gây bệnh song cũng có thể chỉ là các vật chủ trung gian truyền bệnh, các sinh vật
vận chuyển mầm bệnh một cách cơ học. Các yếu tố sinh học cũng tồn tại trong đất,
nước, không khí và thực phẩm
1.4. Môi trường xã hội
Điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ hoặc gián tiếp trên
quá trình ô nhiễm, năng lực khống chế ô nhiễm bảo vệ sức khoẻ, đến các ứng xử khác
2nhau của cộng đồng đối với môi trường
Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, xã hội tạo ra các cơ hội mới trong
khống chế các tác động âm tính lên sức khoẻ, đồng thời cũng có thể nảy sinh nhiều
nguy cơ mới qua thay đổi lối sống, cách ứng xử môi trường và gia tăng các stress
trong sinh hoạt và lao động sản xuất
Chế độ chính trị của một quốc gia cũng như sự bình ổn trong khu vực là yếu tố
tác động tới môi trường. Chiến tranh, mất công bằng xã hội, tệ nạn phân biệt chủng
tộc, bất bình đẳng giới, bất ổn về chính trị -xã hội luôn là các yếu tố tàn phá môi
trường và gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ
1.5. Các thành phần môi trường
Thạch quyển (lithosphere) hay còn gọi là địa quyển hay môi trường đất.
Sinh quyển (biosphere) còn gọi là môi trường sinh học.
Khí quyển (atmosphere) hay môi trường khôngkhí.
Thủy quyển (hydrosphere) hay môi trường nước.
1.6. Các chức năng cơ bản của môi trường
1.6.1. Là không gian sinh sống cho con người và sinh vật
- Xây dựng: mặt bằng các khu đô thị, cơ sở hạ tầng,..
- Giao thông vận tải: mặt bằng, khoảng không cho đường bộ, đường thủy, đường
hàng không.
- Sản xuất: mặt bằng cho nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, sản xuất nông-
lâm-ngư.
- Giải trí: mặt bằng, nền móng cho hoạt động trượt tuyết, đua xe, đua ngựa,
1.6.2. Là nơi chứa các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của
con người
- Thức ăn, nước uống, không khí hít thở.
- Nguyên liệu sản xuất công, nông nghiệp.
- Năng lượng cho sinh hoạt, sảnxuất.
- Thuốc chữa bệnh,..
1.6.3. Là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống
và sản xuất
- Tiếp nhận, chứa đựng chất thải;
3- Biến đổi chất thải nhờ các quá trình vật lý, hóa học, sinh học.
1.6.4. Làm giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật
- Hạn chế lũ lụt, điều hòa khí hậu, chắn bão cát,
1.6.5. Lưu trữ và cung cấp các thông tin cho con người
- Lịch sử địa chất, tiến hóa sinh vật, phát triển văn hóa con người.
- Đa dạng nguồn gen.
- Chỉ thị báo động sớm các tai biến tự nhiên như bão, động đất, núi lửa.
II. CÁC KHÍA CẠNH LỊCH SỬ CỦA SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
2.1. Khái niệm về sức khoẻ môi trường
Theo định nghĩa của Tổ chức y tế Thế giới (1948) thì “sức khoẻ là trạng thái
thoải mái về cả thể chất, tinh thần và xã hội chứ không đơn thuần là vô bệnh, tật”.
Khái niệm bệnh, tàn tật và tử vong dường như được các nhân viên y tế đề cập nhiều
hơn so với khái niệm lý tưởng này về sức khoẻ. Do vậy khoa học sức khoẻ hầu như đã
trở thành khoa học bệnh tật, vì nó tập trung chủ yếu vào việc điều trị các loại bệnh và
chấn thương chứ không phải là nâng cao sức khoẻ.
Sức khỏe môi trường bao gồm những khía cạnh về sức khỏe con người, cả chất
lượng cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, xã hội và các
yếu tố tâm lý trong môi trường (theo định nghĩa trong Chiến lược Sức khỏe Môi
trường Quốc gia của Australia - 1999).
Hay nói cách khác: sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một môi trường
trong lành, bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng
Cho đến hiện nay nhiều tác giả đưa ra khái niệm về sức khoẻ môi trường như
sau: “Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một môi trường trong lành, bền vững
để nâng cao sức khoẻ cộng đồng”.
2.2. Lịch sử phát triển của sức khoẻ môi trường
Mỗi sinh vật trên trái đất đều có một môi trường sống của riêng mình, nếu thoát
ra khỏi môi trường tự nhiên đó hoặc sự biến đổi quá mức cho phép của môi trường mà
chúng đang sống thì chúng sẽ bị chết và bị huỷ diệt. Do đó, đảm bảo môi trường sống
là điều kiện cơ bản để duy trì sự sống của mọi loài sinh vật trên trái đất. Những ví dụ
đơn giản mà mọi người đều biết là ngộ độc oxyd carbon (CO) ở những người đi kiểm
tra các lò gạch thủ công đốt bằng than hoặc cá chết do nước bị ô nhiễm hoá chất của
4nhà máy phân lân, Điều đó có nghĩa là môi trường, con người, sức khoẻ của con
người có mối quan hệ mật thiết với nhau và có thể cái nọ là nhân quả của cái kia.
Không phải tới bây giờ con người mới biết tới mối quan hệ này, mà từ hàng ngàn năm
trước người Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư, Ai Cập cổ đại đã biết áp dụng các biện pháp
thanh khiết môi trường để ngăn ngừa và phòng chống dịch bệnh cho cộng đồng và
quân đội. Các tư liệu lịch sử cho thấy từ những năm trước công nguyên, ở thành Aten
(Hy Lạp) con người đã xây dựng hệ thống cống ngầm để thải nước bẩn, đã biết dùng
các chất thơm, diêm sinh để tẩy uế không khí trong và ngoài nhà để phòng các bệnh
truyền nhiễm.
Người La Mã còn tiến bộ hơn: khi xây dựng thành La Mã, người ta đã xây dựng
hệ thống cống ngầm dẫn tới mọi điểm trong thành phố để thu gom nước thải, nước
mưa dẫn ra sông, đồng thời xây dựng một hệ thống cung cấp nước sạch cho dân chúng
trong thành phố. Vào thời kỳ này, độ cao của nhà ở, bề rộng các đường đi lại trong
thành đều được qui định và tiêu chuẩn hoá, những người đem bán loại thực phẩm giả
mạo, thức ăn ôi thiu đều phải chịu tội.
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, dân số, ô nhiễm môi trường và
phòng chống ô nhiễm môi trường càng được tăng cường và phát triển. Như chúng ta
đã biết, các nhân tố sinh học, các hoá chất tồn tại một cách tự nhiên và các nguy cơ vật
lý đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử loại người. Đồng thời các chất ô
nhiễm môi trường do hoạt động của con người sinh ra cũng có quá trình phát triển từ
từ và lâu dài.
Cuộc khủng hoảng môi trường lần thứ nhất xuất hiện ở Châu Âu, vào thế kỷ thứ
19, nguyên nhân là do thực phẩm kém chất lượng, nước bị ô nhiễm ảnh hưởng đến sức
khoẻ cộng đồng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã làm cho nước Anh trở thành
xứ sở sương mù do ô nhiễm không khí, thời gian này vấn đề ô nhiễm công nghiệp là
một vấn đề hết sức nghiêm trọng nhưng bị chính phủ lờ đi vì còn nhiều vấn đề xã hội
quan trọng hơn, mặc dù năm 1848 Quốc hội Anh đã thông qua Luật Y tế công cộng
đầu tiên trên thế giới. Trong quá trình phát triển công nghiệp, ô nhiễm kéo dài cho đến
giữa thế kỷ 20 và hàng loạt những ô nhiễm mới song song với ô nhiễm công nghiệp là
ô nhiễm hoá học, hoá chất tổng hợp nhất là trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Những tiến bộ của kỹ thuật, lĩnh vực hoá học, đặc biệt là ngành công nghiệp hoá chất
5đã tạo ra các hoá chất tổng hợp như cao su tổng hợp, nhựa, các dung môi, thuốc trừ
sâu đã tạo ra rất nhiều chất khó phân huỷ và tồn dư lâu dài trong môi trường như
DDT, 666, dioxin gây ô nhiễm môi trường nặng nề, dẫn tới sự phản đối kịch liệt của
cộng đồng nhiều nước trên thế giới trong suốt thời kì những năm 60 và 70 của thế kỷ
20.
Làn sóng lần thứ hai về các vấn đề môi trường xảy ra vào những năm giữa của
thế kỷ 20 với hai phong trào lớn là môi trường và sinh thái. Phong trào môi trường là
việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là những tài nguyên không tái tạo. Kết quả là
động vật trên đất liền ở nhiều vùng thiên nhiên hoang dã, các vùng đất, biển quý hiếm
khác, cảnh quan thiên nhiên được bảo tồn và tôn tạo. Về phong trào sinh thái tập trung
vào các chất có thể gây độc cho con người hoặc có khả năng gây huỷ hoại môi trường
và con người đã được tổ chức vào năm 1972 đã thuyết phục được nhiều chính phủ các
nước thông qua luật lệ nhằm hạn chế ô nhiễm công nghiệp và phát thải rác, phòng
chống ô nhiễm hoá học, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc
Làn sóng lần thứ ba về các vấn đề sức khoẻ môi trường là từ những năm 80, 90
đến nay, ngoài những vấn đề ô nhiễm công nghiệp, hoá chất còn có các vấn đề về
dioxyd carbon, clorofluorocarbon gây thủng tầng ozon, vấn đề cân bằng môi trường,
phát triển bền vững, môi trường toàn cầu thay đổi, khí hậu toàn cầu nóng lên sẽ còn
phải giải quyết trong nhiều thập kỷ tới.
III. NỘI DUNG MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
Tất cả các khía cạnh của sức khoẻ môi trường là xác định, giám sát, kiểm soát
các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học và xã hội có ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Thực hành sức khoẻ môi trường còn tạo điều kiện, cơ hội để nâng cao sức khoẻ bằng
cách lập kế hoạch nâng cao sức khoẻ và tiến tới xây dựng một môi trường có lợi cho
sức khoẻ. Các hoạt động sức khoẻ môi trường được thực hiện ở tất cả các cấp, bao
gồm:
- Xây dựng, phát triển các chiến lược và tiêu chuẩn, gồm:
+ An toàn dân số.
+ Tư vấn cộng đồng, bảo vệ sức khoẻ trong các trường hợp khẩn cấp.
+ Theo dõi, quan trắc và xây dựng các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn về nhà ở
+ Nâng cao phát triển sức khoẻ.
6- Phát triển và đưa ra các khuyến cáo về sức khoẻ môi trường:
+ Cung cấp thông tin cho cộng đồng về sức khoẻ môi trường.
+ Nghiên cứu sức khoẻ môi trường.
+ Giáo dục sức khoẻ môi trường.
- Cần phải có kế hoạch xây dựng luật sức khoẻ môi trường.
- Quản lý môi trường vật lý.
+ An toàn nước nhất là an toàn nước ở khu giải trí.
+ An toàn thực phẩm.
+ Quản lý chất thải rắn.
+ An toàn và sức khoẻ nghề nghiệp.
+ Phòng chống chấn thương.
+ Kiểm soát tiếng ồn.
+ Sức khoẻ và chất phóng xạ.
- Quản lý nguy cơ sinh học:
+ Kiểm soát côn trùng và các động vật có hại.
+ Quản lý bệnh truyền nhiễm qua vật chủ trung gian truyền bệnh.
+ Kiểm soát vi sinh vật.
- Quản lý nguy cơ hoá học:
+ Xây dựng các tiêu chuẩn an toàn hoá học cho không khí, đất, nước sinh hoạt,
nước thải và thực phẩm.
+ Sử dụng thuốc bảo vệ thực phẩm an toàn.
+ Đánh giá vá quản lý các nguy cơ sức khoẻ ở các vùng bị ô nhiễm thí dụ như
dioxid v.v
+ Kiểm soát thuốc, chất độc, các sản phẩm y dược khác.
+ Chất độc học.
+ Kiểm soát thuốc lá.
Bên cạnh đó còn nhiều các yếu tố khác cần kiểm soát như: cung cấp đủ thức ăn
dinh dưỡng, cung cấp nước sạch, điều kiện vệ sinh và xử lý rác thải nhất là ở nông
thôn hiện nay, cung cấp nhà ở và bảo đảm mật độ dân số
Ngoài ra, còn một số yếu tố khác nhất là khả năng tiềm tàng của các nguy cơ môi
trường và suy thoái môi trường tác động lên sức khoẻ do các đặc điểm sau:
7- Thường xảy ra sau một thời gian dài tiếp xúc
- Các bệnh liên quan đến môi trường thường do hoặc liên quan đến nhiều nguyên
nhân khác nhau, thí dụ như viêm phế quản mạn tính có thể là do môi trường bị ô
nhiễm, do vi khuẩn, thể lực
Thực hành sức khoẻ môi trường, sử dụng kiến thức và kĩ năng của nhiều lĩnh vực
khác nhau để tập trung giải quyết các vấn đề sức khoẻ tiềm tàng.
“Loài người là trung tâm của phát triển bền vững. Họ có quyền sống một cuộc
sống khoẻ mạnh và hoà hợp với tự nhiên”.
IV. QUAN HỆ GIỮA SỨC KHOẺ VÀ MÔI TRƯỜNG
Khi con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất, tuổi thọ trung bình của họ từ 30
đến 40 tuổi. Do sống trong môi trường khắc nghiệt, tuổi thọ của họ thấp hơn nhiều so
với tuổi thọ của con người trong xã hội hiện nay. Vì vậy 30 đến 40 năm cũng đủ để
cho họ có thể sinh con đẻ cái, tự thiết lập cho mình cuộc sống với tư cách là một loài
có khả năng cao nhất trong việc làm thay đổi môi trường theo hướng tốt lên hay xấu
đi.
Để có thể sống sót, những người tiền sử phải đối mặt với các vấn đề sau đây:
Luôn phải tìm kiếm nguồn thức ăn và nước uống trong khi tránh ăn phải những
thực vật có chứa chất độc tự nhiên (thí dụ nấm độc) hoặc các loại thịt đã bị ôi thiu,
nhiễm độc.
Bệnh nhiễm trùng và các ký sinh trùng được truyền từ người này sang người
khác hoặc từ động vật sang con người thông qua thực phẩm, nước uống hoặc các côn
trùng truyền bệnh.
Chấn thương do ngã, hoả hoạn hoặc động vật tấn công.
Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, mưa, tuyết, thảm hoạ thiên nhiên (bão lụt, hạn
hán, cháy rừng) và những điều kiện khắc nghiệt khác.
Những mối nguy hiểm đối với sức khoẻ con người luôn luôn xảy ra trong môi
trường tự nhiên. Trong một xã hội, những mối nguy hiểm truyền thống trên đây vẫn là
những vấn đề sức khoẻ môi trường được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, khi con người đã
kiểm soát được những mối nguy hiểm này ở một số vùng, thì những mối nguy hiểm
hiện tại do sự phát triển kỹ thuật, công nghiệp tạo ra cũng đã trở thành những mối đe
doạ đầu tiên đối với sức khoẻ và sự sống của con người.
8Một số thí dụ về các mối nguy hiểm môi trường hiện tại là:
Môi trường đất, nước ở nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng do sử dụng hoá chất
bảo vệ thực vật không đúng chủng loại, liều lượng và không đúng cách.
Các sự cố rò rỉ các lò phản ứng hạt nhân, nhà máy nhiệt điện nguyên tử
Sự thay đổi khí hậu toàn cầu, hiệu ứng nhà kính
Trong một vài thập kỷ vừa qua, tuổi thọ con người đã tăng lên đáng kể ở hầu hết
các quốc gia. Các nhà điều tra cho rằng có ba lý do cơ bản dẫn tới việc tăng tuổi thọ
của con người.
+ Những tiến bộ trong môi trường sống của con người.
+ Những cải thiện về vấn đề dinh dưỡng.
+ Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị y học đối với các loại bệnh tật.
Những tiến bộ trong y tế luôn đi cùng với những cải thiện về chất lượng môi
trường, dinh dưỡng và chăm sóc y tế. Ngày nay, những người ốm yếu có cơ hội sống
sót cao hơn nhiều do hệ thông y tế được cải thiện. Rất nhiều người luôn sống khoẻ
mạnh, do có nguồn dinh dưỡng tốt và kiểm soát tốt các mối nguy hiểm về sức khoẻ
môi trường.
Khoa học môi trường là một môn học rất cần thiết và quan trọng dựa trên hai lý
do căn bản sau đây:
+ Nghiên cứu những mối nguy hiểm trong môi trường và những ảnh hưởng của
chúng lên sức khoẻ.
+ Ứng dụng những phương pháp hiệu quả để bảo vệ con người khỏi những mối
nguy hại từ môi trường.
Muốn vậy chúng ta hãy xem xét thế nào là sức khoẻ và thế nào là môi trường?
Trước hết chúng ta hãy điểm qua vài nét về hệ sinh thái:
Ra đời từ những năm 1930, thuật ngữ hệ sinh thái được định nghĩa như là một hệ
thống gồm những mối quan hệ tương tác qua lại giữa các sinh vật sống và môi trường
tự nhiên của chúng. Đó là một thực thể đóng đã đạt được các cơ chế tự ổn định và nội
cân bằng, đã tiến hoá qua hàng thế kỷ. Trong một hệ sinh thái ổn định, một loài này
không loại trừ một loài khác, nếu không thì nguồn cung cấp thức ăn cho những loài ăn
thịt sẽ không tồn tại. Các hệ sinh thái ổn định và cân bằng sẽ có tuổi thọ cao nhất. Một
hệ sinh thái sẽ không duy trì được một số lượng lớn vật chất và năng lượng tiêu thụ
9bởi một loài mà lại không loại trừ một loài khác và thậm chí còn gây nguy hiểm cho
khả năng tồn tại của toàn bộ hệ sinh thái. Tương tự như vậy, khả năng của một hệ sinh
thái trong việc chứa đựng chất thải và tái tạo đất, nước ngọt không phải là vô hạn. Tại
một thời điểm nào đó, những tác động từ bên ngoài sẽ phá vở cân bằng của hệ sinh
thái, dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng hoặc làm huỷ diệt hệ sinh thái đó.
V. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ, ĐÔ THỊ HOÁ LÊN SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG
VÀ MÔI TRƯỜNG
Những thách thức về dân số Việt Nam là rất quan trọng đối với tất cả những vấn
đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tăng dân số vẫn ở mức cao 1.7% (1999) và
di dân nội bộ từ các khu vực nghèo tài nguyên và kinh tế kém phát triển vẫn đang tăng
lên và không kiểm soát được. Theo dự báo đến năm 2020, dân số nước ta xấp xỉ 100
triệu người, trong khi đó các nguồn tài nguyên đất, nước và các dạng tài nguyên khác
có xu thế giảm, vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu, vùng xa chưa được giải quyết triệt
để. Quá trình đô thị hoá và phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hoá đòi hỏi
nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường
sống ngày càng xấu đi nếu không có các biện pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt khác,
quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá ở nhiều khu vực, vùng lãnh thổ lại không
được quán triệt đầy đủ theo quan điểm phát triển bền vững, nghĩa là chưa tính toán đầy
đủ các yếu tố môi trường trong phát triển kinh tế xã hội. Và nếu như trình độ công
nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất, trình độ quản lý sản xuất, trình độ quản lý môi trường
không được cải tiến thì sự tăng trưởng s