Saenger và các cộng sự(1983) đã mô tả rừng ngập mặn như là hệ cây rừng ven biển của vùng duyên hải nhiệt đới và á nhiệt đới. Vì thế thuật ngữ rừng ngập mặn “mangrove” đã được sử dụng để chỉ các cây sống trong bùn, đất ướt ở vùng triều nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở Việt Nam, người ta còn gọi rừng ngập mặn là rừng Sú Vẹt, rừng Sát hay rừng Đước [6].
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 25 trang
25 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 7357 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giới thiệu chung về rừng ngập mặn trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 
I TỔNG QUAN 
I.1 Giới thiệu chung về rừng ngập mặn trên thế giới 
Saenger và các cộng sự (1983) đã mô tả rừng ngập mặn như là hệ cây rừng 
ven biển của vùng duyên hải nhiệt đới và á nhiệt đới. Vì thế thuật ngữ rừng ngập 
mặn “mangrove” đã được sử dụng để chỉ các cây sống trong bùn, đất ướt ở vùng 
triều nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở Việt Nam, người ta còn gọi rừng ngập mặn là rừng 
Sú Vẹt, rừng Sát hay rừng Đước [6]. 
Một cách tổng quát, rừng ngập mặn là những cây thân gỗ và cây bụi mọc 
dưới mức triều cao của triều cường. Vì vậy, hệ thống rễ của chúng thường xuyên bị 
ngập trong nước mặn, mặc dù nước có thể được pha loãng do dòng nước ngọt và 
chỉ ngập một hay hai lần trong năm [28]. 
Theo Sanit A. (1993) trích dẫn từ tài liệu của Viên Ngọc Nam (2005) [6] cấu 
trúc và chức năng của hệ sinh thái rừng ngập mặn, thành phần và phân bố các loài 
cây cũng như các kiểu sinh trưởng của các sinh vật rừng ngập mặn phụ thuộc nhiều 
vào 8 yếu tố môi trường: địa lý ven biển, khí hậu, thủy triều, sóng và dòng chảy, độ 
mặn, độ oxy hòa tan, đất và các chất dinh dưỡng. Clough B. (1997) [23] đã phân 
chia các yếu tố môi trường thành 3 nhóm chính là: khí hậu (nhiệt độ, lượng mưa, 
mây che, nắng, gió), thủy động học (địa hình, chế độ triều), đất (độ mặn, nước chứa 
trong đất, pH, thế oxy hóa khử, các tính chất vật lý, chất dinh dưỡng). 
Chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái rừng ngập mặn, thành phần, phân bố 
loài và kiểu sinh trưởng rừng ngập mặn đều phụ thuộc vào các yếu tố môi trường 
này [6]. 
I.1.1 Vùng phân bố rừng ngập mặn trên thế giới 
Rừng ngập mặn trên thế giới được phân bố ở giữa 30° bắc và nam của xích 
đạo. Ở gần đường xích đạo, cây rừng ngập mặn sinh trưởng tốt, chiều cao của cây 
cao, số lượng loài cũng nhiều hơn nơi xa vùng xích đạo [23]. 
4 
Dựa theo sự phân bố địa lý của thế giới, Walsh (1974) trích dẫn từ tài liệu 
của Viên Ngọc Nam (2005) [6] đã phân chia thực vật rừng ngập mặn thành 2 vùng 
chính: vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương và vùng Tây Phi – châu Mỹ 
Vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương gồm: Đông Phi, Biển Đỏ, Ấn Độ, Đông 
Nam Á, phía nam Nhật Bản, Philippine, Úc, New Zealand và quần đảo Nam Thái 
Bình Dương. 
Vùng Tây Phi và châu Mỹ bao gồm bờ biển Atlantic của châu Phi và châu 
Mỹ, bờ biển Thái Bình Dương của vùng nhiệt đới châu Mỹ và quần đảo Galapagos. 
Hình I.1: Bản đồ phân bố rừng ngập mặn trên thế giới 
(Nguồn: wikimedia.org) 
Để đánh giá rừng ngập mặn trên thế giới thì ISME – tên viết tắt của 
International Society for Mangrove Ecosystems – và ITTO – tên viết tắt của 
International Tropical Timber Organization – đã thực hiện hai chương trình mang 
tên “Hệ thống thông tin và dữ liệu về rừng ngập mặn trên toàn cầu” (GLOMIS) và 
“Bản đồ thế giới về rừng ngập mặn” thông qua việc sử dụng ảnh vệ tinh để tính diện 
tích, đến năm 1997 đã công bố là 18.107.700 ha, số liệu này tương đối chính xác để 
đánh giá rừng ngập mặn trên thế giới [6]. 
5 
I.1.2 Khí hậu 
Khí hậu ảnh hưởng đến chất lượng nước bề mặt thông qua cân bằng lắng tụ 
và bốc – thoát hơi nước. Những vùng khô hạn có xu thế chung là có nồng độ các 
muối cao hơn trong nước bề mặt so với những vùng ẩm ướt. Khí hậu cũng có ảnh 
hưởng lớn đến chủng loại và tính phổ biến của thảm thực vật và do đó, nó có tác 
động gián tiếp đến các đặc trưng lý – hóa – sinh học đất [4]. 
Nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa và gió có ảnh hưởng mạnh đến hệ sinh thái 
rừng ngập mặn. Đây không những là các nhân tố tác động trực tiếp đến sinh trưởng 
và phát triển cây rừng ngập mặn mà còn là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến các yếu 
tố vật lý khác như đất và nước [6]. 
Nhiệt độ không khí có ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển 
cây rừng ngập mặn. Cây ngập mặn không chịu lạnh được, càng xa xích đạo thì nhiệt 
độ càng thấp, nên rừng ngập mặn cũng kém phát triển. Ngoài ra, nhiệt độ của nước 
biển cũng ảnh hưởng đến sự xuất hiện loài cây rừng ngập mặn. 
Lượng mưa chi phối sự phân bố của thực vật. Cây rừng ngập mặn không 
phải phụ thuộc hoàn toàn vào nước mưa vì chúng có các tuyến bài tiết muối và cơ 
chế hút nước ngọt. Tuy nhiên, nước mưa cũng ảnh hưởng đến rừng ngập mặn thông 
qua việc vận chuyển các chất phù sa, bùn và làm giảm độ mặn của lớp đất mặt. Thời 
gian và sự phân bố lượng mưa là những yếu tố quan trọng để xác định sự phát triển 
và phân bố thực vật và động vật. Ngoài ra, lượng mưa còn có ảnh hưởng đến các 
yếu tố khác như nhiệt độ không khí, nhiệt độ của nước và đất, độ mặn của lớp đất 
mặt, độ mặn nước ngầm, vì thế ảnh hưởng đến cây rừng ngập mặn. 
Gió có ảnh hưởng đến sự bốc hơi nước của cây rừng ngập mặn và làm giảm 
nhiệt độ không khí. Gió ảnh hưởng mạnh đến sóng và các dòng nước nên gián tiếp 
tác động đến xói mòn vùng ven biển. Cường độ của gió, bão có tác động trực tiếp 
lên hệ sinh thái rừng ngập mặn, tùy theo mức độ mà sự thiệt hại thấp như: rụng lá, 
gãy cành, nhánh đến việc gãy đổ cây trên diện rộng và sau cùng là gây thiệt hại 
từng phần của hệ sinh thái. 
6 
I.1.3 Thủy động học 
Những tác động của thủy văn đến cấu trúc và chức năng của đất ngập nước 
rất quan trọng. Các tác động này trước hết làm biến đổi tính chất lý, hóa học của đất 
ngập nước, về phần mình các biến đổi này lại tác động đến các hợp phần sinh học 
của đất ngập nước. Các hợp phần sinh học lại tạo hiệu ứng phản hồi đến thủy văn 
[4]. 
Cây ngập mặn mọc những nơi có thủy triều lên xuống hàng ngày, nhật triều 
hay bán nhật triều (biên độ triều từ 0,5 – 3 m). Tần số ngập khác nhau sẽ dẫn đến độ 
mặn khác nhau, mức độ ứ nước và chất dinh dưỡng cũng khác nhau và tất cả các 
yếu tố này đều dẫn đến tính đa dạng cao. Thay đổi độ mặn do nước triều là một 
trong các yếu tố giới hạn phân bố loài cây ngập mặn (Aksornkaoe, 1993 được trích 
dẫn trong tài liệu của Viên Ngọc Nam (2005) [6]). 
Ngoài ra, thủy triều còn dọn CO2 tích lũy, các chất độc tố, mảnh vụn hữu cơ 
và giữ vững độ mặn của nước. Những nghiên cứu gần đây đã cung cấp các số liệu 
quan trọng liên quan đến các chế độ ngập triều và tình trạng dinh dưỡng của đất 
ngập nước ven biển [15]. Thủy triều phân bố cả chất dinh dưỡng hòa tan và dạng 
hạt thông qua các hệ thống đầm lầy, với dòng dinh dưỡng đi vào nhiều nhất trong 
các vùng bị ngập thường xuyên thông qua sự lắng tụ trầm tích. Tuy nhiên, không 
chỉ có ảnh hưởng của tình trạng ngập triều lên tính khả dụng của chất dinh dưỡng 
dọc theo biên độ ngập triều, mà mức độ bão hòa của đất cũng ảnh hưởng lên thế 
oxy hóa khử của trầm tích và chính bản thân nó lại ảnh hưởng trở lại lên hình thức 
và tính khả dụng của chất dinh dưỡng cũng như độ mặn của lớp đất mặt [13]. 
Bên cạnh đó, sự phát tán, phân bố và việc đem các trái giống từ nơi này đến 
nơi khác thành công là nhờ thủy triều (Saenger và các cộng sự, 1983 được trích dẫn 
trong tài liệu của Viên Ngọc Nam (2005) [6]). 
I.1.4 Đất 
Đất dưới rừng ngập mặn một phần do bùn cát bồi tụ của các con sông từ 
thượng nguồn chảy đến và một phần do bùn cát lắng tụ từ biển mang vào. Thường 
là đất phù sa có pha sét và cát. Trong rừng ngập mặn có những vùng đất mới bồi, 
7 
đây là nhóm đất mới chưa phát triển, tiếp đến là nhóm đất phát triển hơn thường là 
nơi xuất hiện một số loài của họ Đước (Rhizophoracea) hay Mấm (Avicenniacea) 
[6]. 
I.1.4.1 Độ mặn của nước dưới đất 
Độ mặn chính là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến 
sinh trưởng, tỉ lệ sống và phân bố của cây rừng ngập mặn và liên quan đến áp suất 
thẩm thấu. Sự hút nước của cây bị cản trở dẫn đến phản ứng giống như do bị khô 
hạn, nếu cây rừng phản ứng lại với việc hút nhiều ion vô cơ để giữ cân bằng áp suất 
thẩm thấu, thì các ảnh hưởng chuyển hóa bất lợi có thể xảy ra do kết quả nồng độ 
quá cao của các ion này [64][68]. 
Khi độ mặn của nước dưới đất tăng lên thì cũng có sự tăng tương ứng về khả 
năng thẩm thấu của nước, chính điều này làm cho sự hút nước của rễ cây khó khăn 
hơn. Trong những trường hợp như thế này, việc thải chất cặn bã nói chung, việc tích 
lũy hoặc bài tiết nước thừa nói riêng đòi hỏi cây phải tiêu tốn nhiều năng lượng hơn, 
do đó tính thích nghi với độ mặn cao của đất đã xác định vị trí của các loài trong 
vùng triều (Saenger và các cộng sự, 1983 được nêu trong tài liệu của Viên Ngọc 
Nam [6]). 
I.1.4.2 pH đất 
Độ chua của đất ảnh hưởng đến sự biến đổi hóa học của hầu hết các chất 
dinh dưỡng và sự hấp thụ các chất này đối với cây rừng. Hầu hết, đất rừng ngập 
mặn được coi là đệm tốt khi có giá trị độ pH từ 6 – 7 nhưng cũng có nơi giá trị này 
xuống đến 5 [23]. 
I.1.4.3 Thế oxy hóa khử 
Đặc điểm oxy hóa khử trong đất rừng ngập mặn có liên quan đến quá trình 
ngập nước triều, đến thành phần cấp hạt và hàm lượng chất hữu cơ trong đất. Đất 
rừng ngập mặn thường ngập úng, vì thế, đất bị yếm khí, quá trình phân hủy chất 
hữu cơ với sự tham gia của vi khuẩn có sử dụng oxy xảy ra, qua đó lượng oxy giảm 
(khử oxy hóa). Thế oxy hóa khử (Eh) của đất thiếu khí là thường dưới – 200 mV 
8 
trong khi đất thoáng khí thì Eh thường trên + 300 mV. Khi Eh = 0 thì đất đó được 
coi như yếm khí. 
I.1.4.4 Các yếu tố vật lý và hóa học của đất 
Một số tính chất của đất như: thành phần cấp hạt, pH đất, độ thành thục của 
đất, hàm lượng chất hữu cơ trong đất, đặc điểm oxy hóa khử trong đất và sự xuất 
hiện của tầng sinh phèn của đất ngập mặn là những yếu tố môi trường quan trọng có 
ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và cấu trúc của cây rừng ngập mặn. 
I.1.4.5 Độ ẩm đất 
Tùy loại đất và hoàn cảnh mà độ ẩm đất có khác nhau. Đất sét ở dưới sâu thì 
có độ ẩm hơn đất ở bề mặt. Clarke và Hannon (1971) cho rằng độ ẩm của lớp đất 
mặt chiếm từ 28,6 – 143,3% trọng lượng khô của đất. Trong khi đó, độ ẩm ở sâu 
hơn thì dao động từ 29,5 – 98,2% trọng lượng khô của đất. Đất ở dưới tán rừng thì 
độ ẩm đất cũng cao hơn ngoài trời. Giglioli và King (1966) đã đo độ ẩm lớp đất mặt 
trong rừng Đước và nhận thấy độ ẩm biến động từ 43 – 196% trọng lượng khô của 
đất (trích dẫn từ nguồn tài liệu của Viên Ngọc Nam , 2005 [6]). 
I.1.5 Sự thích nghi của cây rừng ngập mặn 
Vì sống trong môi trường ngập nước, yếm khí, đất bùn, nền đất yếu, độ mặn 
cao, sóng gió nhiều nên cây rừng ngập mặn phải thích nghi với các bất lợi trên để 
tồn tại. 
Để đối phó với điều kiện bị yếm khí khi triều ngập, cây rừng ngập mặn phải 
có những cấu trúc và cơ chế thích hợp để tăng cường oxy trao đổi cho cây. Về cấu 
tạo, hệ rễ cây rừng ngập mặn có các dạng sau: rễ thở, rễ đầu gối có nhiều mô khí tạo 
điều kiện cho cây trao đổi khí với môi trường. Ngoài ra, còn có các lỗ khí (lenticels 
– khí khổng) trên vỏ của thân và vỏ rễ để trao đổi khí [64][6]. 
Để đối phó với tình trạng nền đất không ổn định, cây rừng ngập mặn phát 
triển hệ thống rễ để bám chặt xuống đất như: rễ chân nôm, rễ bạnh vè, rễ neo. 
Đối với điều kiện độ mặn cao, cây ngập mặn có cơ chế điều chỉnh nồng độ 
muối trong cây như: 
9 
• Bài tiết muối: cây ngập mặn có các tuyến tiết muối ở lá để loại trừ các 
muối thừa, những dung dịch bị bài tiết ra thường chứa nhiều NaCl và 
những tinh thể muối có thể hình thành trên các lá như ở họ Mấm 
(Aviceniaceae) [68][4]. 
• Giữ muối: nhiều cây ưa muối hấp thu và tích tụ ion muối trong lá, thay vì 
loại trừ. Tuy nhiên các ion này bị cô lập trong không bào của lá và các 
cây ngập mặn đào thải muối thông qua sự rơi rụng các lá [64]. 
• Cân bằng áp suất thẩm thấu: phần giữ nhiệm vụ duy trì áp suất thẩm thấu 
là những hợp chất hữu cơ chứ không phải các ion muối, như vậy cây có 
thể hấp thu nước từ môi trường mặn [64][68]. 
Tái sinh: do sống trong môi trường khắc nghiệt, thủy triều và tác động của 
sóng đi kèm với tính không ổn định của nền đất, tất cả đều thử thách sự tái sinh 
thành công của cây rừng ngập mặn. Các loài khác nhau có trang bị các chiến lược 
kế thừa nhằm nâng cao khả năng sống sót đó là biến đổi thời gian phát triển hạt và 
gia tăng số lượng hạt hay kích cỡ hạt. Điển hình như cây Cui (Heritiera littoralis) 
sản xuất trái to bao bọc bằng lớp vỏ cứng. Lớp vỏ này không thấm nước và có tác 
dụng như chiếc phao. Bên cạnh đó, thai sinh là một trong các đặc điểm độc đáo để 
tái sinh nâng cao tỉ lệ sống của cây, như ở cây Trang (Kandelia candel), Đước 
(Rhizophora apiculata), Đưng (Rhizophora mucronata), Vẹt (Bruiguiera),… 
[66][4]. 
I.1.5.1 Chống khô hạn 
Để đối phó với tình trạng khô hạn khi nước triều rút xuống thì cây ngập mặn 
có cơ chế hạn chế thoát hơi nước: lá có khí khổng chìm hoặc có lông hay lớp cutin 
dầy để hạn chế sự thoát hơi nước như ở loài cây Trang (Kandelia candel), Mấm 
(Avicenia), Sú (Aegiceras corniculatum),… [68]. 
I.1.6 Lạch triều và các đặc điểm của lạch triều 
I.1.6.1 Định nghĩa lạch triều 
Theo định nghĩa của Dalrymple (1992) và Semeniuk (1996) [75], lạch triều 
là lạch nước có lượng nước ngọt đi vào không đáng kể, chúng nằm ven biển và có 
10 
dạng hình phểu rộng. Lạch triều đặc biệt phát triển trong vùng đầm lầy ven biển có 
độ dốc thấp hướng ra biển. Theo Wolanski (1992) và Wells (1995) [61][75], lạch 
triều thường có dạng một đường chính thẳng hoặc ngoằn ngoèo chia làm các nhánh 
hình cành cây hẹp và nông dần khi đi sâu vào hướng lục địa. Các lạch triều thường 
đi vòng vèo rồi nối kết lại với nhau trong một vùng rộng lớn tương đối bằng phẳng 
như một bãi triều, rừng ngập mặn hay các đầm muối. 
I.1.6.2 Hình thái lạch triều 
Các bãi bùn ven biển hay cát pha bao bọc lấy các con lạch triều, các bãi bồi 
này có khuynh hướng ở ngay vị trí bên dưới vùng triều cao nhất, và nước biển phần 
lớn bị giữ lại trong các lạch triều, ngoại trừ lúc triều cường. 
Kích cỡ các con lạch triều rất khác nhau, mặc dù biên độ triều tại đây rất lớn 
tạo thành dòng nước khá mạnh, chúng thường xuyên bị gián đoạn bởi một mạng 
lưới các nhánh lạch khác nhỏ hơn. Năng lượng thủy triều tương đối cao trong hệ 
thống lạch triều, càng đi sâu vào hướng lục địa năng lượng này càng giảm do lực 
ma sát, sự khuếch đại sóng (gây ra bởi thủy triều) xuất hiện ngay khi mực nước 
dâng lên (Dalrymple và các cộng sự, 1992 trích dẫn trong tài liệu [75]). 
I.1.6.3 Đặc điểm của lạch triều 
Độ đục cao của nước lạch ngăn ngừa sự phát triển của các loài động vật đáy, 
do đó cũng giới hạn phân bố theo chiều rộng cũng như chiều sâu của các phiêu sinh 
thực vật (Cloern, 1987; Monbet, 1992 trích dẫn từ tài liệu [75]). 
Lượng nước ngọt đi vào các lạch triều khác nhau theo mùa, nhưng không 
đáng kể, nước trong đất cũng là một nguồn nước ngọt quan trọng. Bên cạnh đó, sự 
bốc hơi cũng là một tiến trình quan trọng trong các lạch triều, do sự trải rộng của 
các bãi triều. Mặc dù dòng triều rất mạnh gây ra sự pha trộn giữa các luồng nước, 
lượng nước lưu thông trong các lạch triều vẫn có các trạng thái và chế độ pha trộn 
khác biệt theo mùa. 
Phạm vi ngập triều trong các lạch triều không giống như ở các vùng cận đại 
dương, phạm vi này có thể được mở rộng, khi biên độ triều càng gia tăng thì thủy 
triều càng có khuynh hướng thâm nhập sâu hơn vào đất liền. 
11 
Các tác giả Boto và Bunt, 1981 (trích dẫn trong tài liệu của Viên Ngọc Nam, 
2005 [6]) đã phát triển một mô hình thủy động lực học chi tiết cho rạch Coral, đảo 
Hinchinbrook, Nam Queensland. Dựa trên số liệu vật rụng và các số liệu đo vẽ địa 
hình, nhóm tác giả đã ước lượng được sự ngập lụt của 1 diện tích rừng tùy thuộc 
vào các cao độ khác nhau của thủy triều. Nếu tất cả vật rụng từ vùng triều thấp đến 
trung bình của rừng đều bị xuất ra thủy vực kề cận mà không quay lại, thì ước 
lượng có khoảng 3560 tấn (trọng lượng khô) vật rụng rừng ngập mặn được xuất ra 
từ vịnh mỗi năm. 
Lạch triều chứa một khối lượng lớn các hạt huyền phù. Dòng thủy triều 
mạnh liên tục tạo ra trạng thái lơ lửng của các hạt trầm tích mịn trong các lạch triều 
và chính điều này làm cho độ đục trong nước cao. Độ đục đặc biệt cao trong giai 
đoạn triều cường (Semeniuk, 1982 trích dẫn từ nguồn tài liệu [75]). Do vậy, rừng 
ngập mặn với các hệ thống lạch triều tiêu nước nằm rải rác, được xem như một khu 
vực trầm tích lắng tụ dầy nhất. Golley và cộng sự (1962) [47] công bố kết quả 
nghiên cứu ở một lạch triều của rừng ngập mặn tại Puerto Rica cho thấy tốc độ xuất 
các vật liệu dạng hạt mịn là 2,27 g/m2/ngày. 
Davis III và các cộng sự (2001) định lượng các dòng dinh dưỡng (nitơ và 
photpho) chảy qua một diện tích mặt cắt dọc theo phần lạch triều dẫn nước đi vào 
(thuộc hạ lưu sông Taylor, phía nam công viên quốc gia Everglades) nhằm xác định 
mối liên hệ quan trọng giữa các vùng có và không có thực vật trong việc điều chỉnh 
thay đổi dinh dưỡng của hệ thống đó. Nhóm tác giả nhận thấy dòng dinh dưỡng 
chảy qua một diện tích mặt cắt có thể được tính toán từ sự thay đổi nồng độ chất 
dinh dưỡng dọc theo chiều dài của lạch triều và hầu hết các dòng dinh dưỡng đều 
xuất hiện trong vùng có thực vật, tuy nhiên, không có kiểu biến động theo mùa nào 
đối với các nguyên tố được nghiên cứu. Các dòng dinh dưỡng trong lạch triều có 
thực vật nhìn chung là một chiều (chiều xuất ra, chiều đi vào hoặc không có dòng 
nào) trong suốt quá trình thu mẫu. Những kết quả này cho thấy vùng rìa của rừng 
ngập mặn là một thành phần quan trọng đáng kể đã tác động đến động lực học chất 
dinh dưỡng tại vùng hạ lưu sông [25]. 
12 
Tóm lại, lạch triều giữ chức năng trao đổi chất giữa rừng ngập mặn với các 
thủy vực lân cận. Thông qua thủy triều, lạch triều giúp rừng ngập mặn loại thải các 
chất độc hại trong nền trầm tích, giúp vận chuyển các dưỡng chất, do đó giúp rừng 
ngập mặn thực hiện được vai trò sinh thái của mình. 
I.1.7 Chu trình vật chất của rừng ngập mặn 
Chức năng sinh thái của rừng ngập mặn đóng vai trò đặc biệt quan trọng 
trong chu trình vật chất. Các chu trình chuyển hóa vật chất trong rừng ngập mặn 
được vận hành bởi các yếu tố vật lý và sinh học, các yếu tố này điều khiển dòng vào 
và ra của các vật liệu vô cơ và các phức hợp hữu cơ. Bên cạnh những yếu tố vật lý 
như chu kỳ triều, dòng chảy và lượng mưa, thì các tiến trình sinh học có ý nghĩa 
nhất đến chu trình khoáng hóa là vật rụng (nhất là lá), sự phân hủy vật liệu hữu cơ, 
tốc độ hút khoáng chất của rễ và hoạt động của vi sinh vật trong nền trầm tích [47]. 
Hình I.2: Chu trình vật chất của rừng ngập mặn 
 (Nguồn:  
Năng suất vật rụng dường như là một đặc trưng cốt yếu trong vai trò sinh 
thái của rừng ngập mặn [47]. Khi lá rụng, các dưỡng chất trong lá được trả lại cho 
đất nhờ vào quá trình phân hủy. Tham gia vào quá trình đó có sự góp mặt của nhiều 
13 
loại sinh vật. Trước hết, một phần nhỏ lá rụng trên nền rừng được tiêu thụ bởi các 
động vật sống tại đây để biến thành dạng năng lượng và sinh khối cho cơ thể, phần 
còn lại được cắt nhỏ ra nhờ hoạt động cắn xé của cua còng hay bị vỡ vụn do các yếu 
tố vô sinh (nhiệt độ, lượng mưa,…) [42]. Các mảnh vụn lá giờ đây được phân mảnh 
một lần nữa nhờ hoạt động của các tuyến trùng, nấm, giun, thân mềm, tôm, cua để 
trở thành các vật chất hữu cơ dạng thô và vật chất hữu cơ dạng hạt mịn. Sau đó, nhờ 
hoạt động phân hủy của vi sinh vật, các xác bã hữu cơ và các chất bài tiết của sinh 
vật biến thành dạng muối vô cơ hòa tan được trong đất, nước, trầm tích. Thực vật 
hấp thụ các muối hòa tan này và đưa chúng trở lại chu trình dinh dưỡng. 
Tuy nhiên, rừng ngập mặn là một hệ sinh thái mở, chúng thường xuyên trao 
đổi chất với các thủy vực lân cận thông qua dòng chảy thủy triều. Theo các tính 
toán ở rừng ngập mặn tại nam Florida, khi biên độ triều càng gia tăng thì lượng vật 
rụng tích lũy trên sàn rừng sẽ giảm [47]. Khoảng 50% lượng vật rụng được xuất ra 
ngoài qua cửa sông (Odum và Heald, 1972 trích dẫn theo tài liệu của Viên Ngọc 
Nam, 2005) [6]. Trung bình 40% các vật liệu vụn hiện diện trong thể lơ lửng của 
nước cửa sông có nguồn gốc từ rừng ngập mặn, và suốt cả năm, chúng chiếm nhiều 
nhất trong các thành phần vật liệu vụn trong nước ở vùng cửa sông (Heald, 1971 
trích dẫn trong tài liệu của Lugo và Snedaker, 1974 [47]). 
Các nghiên cứu trong những năm 1980 – 1995 đều hướng đến một kết luận 
về dòng dinh dưỡng trong vùng triều, dòng xuất rừng ngập mặn là dòng phổ biến