Việt Nam trở thành thành viên WTO, thị trường được mở rộng cùng với mức độ cạnh tranh gay gắt hơn buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hết mình để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Đẩy mạnh thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập mới, doanh nghiệp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, vừa gia tăng sự ảnh hưởng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác chúng ta có thể tiếp cận được những công nghệ hiện đại, những nguồn lực kỹ thuật quan trọng cần thiết cho phát triển kinh tế nội địa.
Hoa Kỳ là một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Thị trường Hoa Kỳ thực sự hấp dẫn với bất kì doanh nghiệp nào: Thu nhập Quốc dân GDP luôn duy trì ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu tiêu dùng đối với các loại hàng hoá là rất đa dạng, kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 1850 tỷ USD chiếm 22.5% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn thế giới – Đây là thị trường khổng lồ đối với các doanh nghiệp của Việt Nam có thể thâm nhập.
Trong điều kiện mới hiện nay môi trường kinh doanh trong đó có môi trường kinh tế có nhiều bất ổn, để có được một vị trí ổn định vững chắc cũng như đẩy mạnh hơn nữa việc thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, phía Nhà nước, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn phải làm rất nhiều việc.Vì vậy em đã chọn vấn đề nghiên cứu là: “Giới thiệu khái quát về môi trường kinh tế Mỹ và rút ra ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường”
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã hướng dẫn.
17 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu khái quát về môi trường kinh tế Mỹ và rút ra ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam trở thành thành viên WTO, thị trường được mở rộng cùng với mức độ cạnh tranh gay gắt hơn buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hết mình để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Đẩy mạnh thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập mới, doanh nghiệp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, vừa gia tăng sự ảnh hưởng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác chúng ta có thể tiếp cận được những công nghệ hiện đại, những nguồn lực kỹ thuật quan trọng cần thiết cho phát triển kinh tế nội địa.
Hoa Kỳ là một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Thị trường Hoa Kỳ thực sự hấp dẫn với bất kì doanh nghiệp nào: Thu nhập Quốc dân GDP luôn duy trì ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu tiêu dùng đối với các loại hàng hoá là rất đa dạng, kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 1850 tỷ USD chiếm » 22.5% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn thế giới – Đây là thị trường khổng lồ đối với các doanh nghiệp của Việt Nam có thể thâm nhập.
Trong điều kiện mới hiện nay môi trường kinh doanh trong đó có môi trường kinh tế có nhiều bất ổn, để có được một vị trí ổn định vững chắc cũng như đẩy mạnh hơn nữa việc thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, phía Nhà nước, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn phải làm rất nhiều việc.Vì vậy em đã chọn vấn đề nghiên cứu là: “Giới thiệu khái quát về môi trường kinh tế Mỹ và rút ra ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường”
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã hướng dẫn.
Chương 1: Khái quát chung VỀ môi trường kinh tế Mỹ
1.Khái quát chung:
Tên nước: Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ (The United State of America)
Vị trí địa lý: Nằm ở Bắc Hoa Kỳ, phía đông là Bắc Đại Tây Dương, phía Tây là Bắc Thái Bình Dương, phía Bắc giáp với Canada và phía Nam giáp với Meehico.
Diện tích: 9.631.420 km2 (đứng thứ 3 thế giới sau Liên bang Nga và Canada) km2 chiếm 6,2% diện tích toàn cầu trong đó diện tích đất liền là 9.158.960 km2 và diện tích mặt nước là 470.131 km2.
Ngôn ngữ: Tiếng Anh 82,1%, tiếng Tây Ban Nha 10,7%, các ngôn ngữ châu Á và đảo Thái Bình Dương 2,7%, và các ngôn ngữ khác 0,7%.
Dân số Hoa Kỳ: 298.444.215 người (tính đến tháng 7-2006) người trong đó độ tuổi 0 – 14 chiếm 21%; có 66,4% dân số trong độ tuổi 15 – 64 và có 12,6% dân số ở độ tuổi trên 65. Tuổi thọ trung bình của người dân Hoa Kỳ là 77,4 tuổi trong đó nam trung bình là 75,5 tuổi và nữ là 80,2 tuổi. Đây là một quốc gia đa sắc tộc với người da trắng chiếm 77,1%; người da đen chiếm 12,9%; người châu Á chiếm 4,2% còn lại là thổ dân và các dân tộc khác. Có khoảng 30% dân số Hoa Kỳ hiện nay là người nhập cư và trung bình hàng năm có khoảng một triệu người nhập cư vào Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là quốc gia theo thể chế Cộng hòa Tổng thống, chế độ lưỡng viện (từ năm 1789). Hiện nay Hoa Kỳ có 50 bang, 1 quận (Washington DC – District of Columbia) và 13 lãnh thổ quốc đảo phụ thuộc khác.
Thủ đô của Hoa Kỳ là Washington DC với diện tích 176 km2 và khoàng 600 nghìn dân. Các thành phố chính: New York, Los Angeles, Chicago, San Prancisco, Philadelphia và Boston.
Đơn vị tiền tệ: Dollar Hoa Kỳ (USD)
Nhà lãnh đạo Kinh tế hiện nay: Tổng thống George Bush.
Nền kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới với nền công nghiệp hùng mạnh, nông nghiệp hiện đại và là trung tâm thương mại, tài chính của thế giới.
GDP: GDP thực tế tăng 3,9% trong vòng 4 quý năm 2007. Sự tăng trưởng này nhờ những khoản thu trong chi phí tiêu dùng, đầu tư cố định kinh doanh, đầu tư nhà đất và chi phí của chính phủ. Xuất khẩu ròng giữ ở mức tăng trưởng trong 4 quý năm 2007. Năm 2007 GDP của Hoa Kỳ ước tính khoảng 13,36 ngàn tỷ USD, GDP tính theo đầu người là 43.800 USD.
Lạm phát: Lạm phát giữ ở mức thấp năm 2006, nhưng tăng trong suốt năm 2007. Chỉ số tiêu dùng (CPI) tăng 3,3% trong vòng 12 tháng năm 2007. Trừ tính không ổn định ở lương thực và năng lượng, mức giá tiêu dùng tăng 2,4% năm 2007 từ 1,9% năm 2005. Giá tiêu dùng năng lượng tăng 19% năm 2006, đặc biệt ở giá năng lượng cơ bản. Giá lương thực tăng 2,8% năm 2007. Lạm phát (được đo bởi chỉ số tiêu dùng) được dự đoán sẽ tăng ở mức 3,5% thời gian tới. Tuy nhiên năm 2006, lạm phát đã tăng lên ở mức 3,2%.
Việc làm: Lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp tăng khoảng 2,2 triệu người trong năm 2007, lớn nhất kể từ năm 2000. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 4,4% vào tháng 12 năm 2007 (thấp so với đỉnh điểm 6,3% tháng 6 năm 2003). Tỷ lệ thất nghiệp năm 2007 dưới mức trung bình của những thập niên 70, 80, 90 của thế kỷ XX. Việc làm gia tăng ở những khu vực ngành nghề chính năm 2007. Dịch vụ đóng góp 85% sự gia tăng việc làm trong năm, chiếm 83% lao động. Lao động gia tăng ở những ngành: lương thực, xây dựng, sản xuất. Năm 2007 tỷ lệ thất nghiệp ước tính giảm xuống 4,3%.
Cán cân thanh toán: Sự thiếu hụt trong cán cân thanh toán tăng năm 2007 Xuất khẩu tăng 5 % nhờ sự tăng trưởng kinh tế mạnh ở những đối tác thương mại nhưng nhập khẩu tăng mạnh hơn ở mức 7,2%. Sự thiếu hụt trong hàng hóa và dịch vụ đạt mức 5,6% GDP trong quý 4 năm 2007. Sự gia tăng nhanh nhập khẩu thực tế trải rộng ở nhiều lĩnh vực: của cải và cung ứng công nghiệp, xăng dầu và hàng hóa tiêu dùng.
Năm 2007 xuất khẩu ước tính đạt 972,5 tỷ USD với những sản phẩm chủ yếu là hàng nông sản (đậu nành, trái cây, bắp, lúa mì), phân bón, sản phẩm công nghiệp (chất bán dẫn, máy bay, ô tô, máy vi tính, thiết bị viễn thông), hàng tiêu dùng. Thị trường xuất khẩu chính là Canada, Mexico, Nhật Bản, Anh, Trung Quốc. Nhập khẩu ước tính là 1.737 ngàn tỷ USD với những sản phẩm chủ yếu là nông sản, dầu thô, máy vi tính, thiết bị điện tử, viễn thông, máy móc văn phòng, hàng tiêu dùng. Thị trường nhập khẩu chính là Canada, Trung Quốc, Mexico, Nhật Bản, Đức.
Chính sách tài chính: Quốc hội Hoa Kỳ đã thực hiện chính sách cứ 4 năm có những thay đổi giảm thuế nhằm khắc phục những hậu quả của việc thị trường chứng khoán kìm giữ sự phát triển kinh tế; phục hồi sự tăng trưởng của sản lượng hàng hóa, thu nhập và việc làm. Cùng với kích thích nhu cầu tiêu dùng ngắn hạn, Chương trình hành động năm 2005, 2007 được thiết lập nhằm nâng sự tăng trưởng dài hạn, giảm những hạn chế của hệ thống thuế. Chương trình này giảm thuế đánh vào thu nhập, cổ phần, tài sản. Thuế thấp kích thích những cá nhân và doanh nghiệp sản xuất, dự trữ, và đầu tư nhiều hơn. Dự trữ và đầu tư nhiều tạo ra tích lũy tư bản, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế và nâng cao mức sống.
Chính sách tiền tệ: Trong vòng 4 năm qua, chính sách tiền tệ tập trung vào khắc phục những hạn chế của thị trường chứng khoán và giữ vững tăng trưởng. Từ đầu năm 2005 đến giữa năm 2007, Ngân hàng Dự trữ Liên bang hạ thấp tỷ lệ lãi suất tài chính Liên bang 15 lần, từ 7,5% xuống 1%. Tỷ lệ này được giữ đến tháng 6 – 2007, sau đó Ngân hàng được tăng tỉ lệ từ từ trở lại. Trong năm 2007, kinh tế tăng trưởng mạnh, thị trường lao động được cải thiện, làm giảm nhu cầu kích thích tiền tệ. Tháng 5 – 2007, Ngân hàng Dự trữ Liên bang đã tăng tỉ lệ lãi suất lên 3,2%.
Triển vọng trung – dài hạn: Nền kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục đạt hiệu quả tăng trưởng lâu dài. Chính phủ trông đợi GDP sẽ tăng mạnh năm 2010, lạm phát được giữ ở mức cũ và thị trường lao động được đẩy mạnh. GDP thực tế dự kiến sẽ tăng với tỷ lệ trung bình hàng năm 3,3% trong vòng 4 năm từ 2005 - 2008. Tỷ lệ thất nghiệp dự tính sẽ dưới mức 5,4% vào cuối năm 2005 và dưới 5,1% năm 2006. Kinh tế tăng trưởng với mức 3,2% năm 2007, 2008 và ở mức 3,15% năm 2009, 2010.
2.Một số đặc điểm về môi trường kinh tế:
2.1.Môi trường kinh tế có tính mở cao
Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong trong việc ủng hộ tự do hóa thương mại vì vậy các quy chế xuất nhập khẩu mà quốc gia này đã và đang áp dụng đều phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của WTO, đây là quốc gia nhập khẩu với khối lượng lớn các mặt hàng có hàm lượng lao động cao: dệt may, giày dép…trong đó có nhiều mặt hàng tiêu dùng thông thường mà Hoa Kỳ hầu như không sản xuất. Một thực tế là sự phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ đã liên tục đóng góp cho sự phát triển toàn cầu nhờ duy trì chính sách mở cửa thị trường. Thông qua chính sách mở cửa của mình, các nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng Hoa Kỳ có thể tiếp cận với hàng hóa dịch vụ từ nước ngoài với những điều kiện ưu đãi nhất. Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế, Hoa Kỳ luôn chủ trương đặt hệ thống thương mại đa phương vào trung tâm của các quan hệ thương mại quốc tế của mình, luôn có xu hướng mở cửa thị trường một cách cao độ thông qua các cuộc đàm phán từ song phương cho tới khu vực để đạt tới một chiến lược tự do hóa thương mại mang lại nhiều lợi ích quốc gia nhất.
Tính mở của thị trường còn được thể hiện ở nhu cầu thị hiếu cũng như những yêu cầu trong tiêu dùng của người Hoa Kỳ không quá khắt khe, nhu cầu tiêu dùng nhiều nhưng họ không quá kỹ tính như những người tiêu dùng châu Âu hay Nhật Bản. Mặt khác, là đất nước đa sắc tộc, các tầng lớp dân cư trong xã hội cũng có sự phân hóa nhất định vì vậy nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp khác nhau thì cũng khác nhau, hàng hóa bán trên thị trường Hoa Kỳ cũng sẽ đa dạng phong phú hơn cả về chủng loại lẫn chất lượng. Sức tiêu thụ hàng hóa trên thị trường Hoa Kỳ là vô cùng hấp dẫn với bất kỳ nhà xuất khẩu nước ngoài nào. Theo một khảo sát mới đây thì bình quân một năm, một người phụ nữ Hoa Kỳ mua khoảng 54 bộ quần áo và 6 đôi giày, và người tiêu dùng chủ yếu hiện nay là phụ nữ sau đó đến giới trẻ. Thị trường đồ gỗ cũng hấp dẫn không kém khi kim ngạch nhập khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ và đồ nội thất là trên 40 tỷ USD/ năm, nhu cầu tiêu dùng đối với mặt hàng này hàng năm không ngừng tăng lên. Với mặt hàng thủy sản thì trung bình một người Hoa Kỳ tiêu dùng khoảng 16,3 pound/ người/ năm, tức là họ đã tiêu thụ khoảng 8 % tổng sản lượng thủy sản thế giới… Có thể thấy, những mặt hàng mà thị trường Hoa Kỳ có kim ngạch nhập khẩu lớn và có nhu cầu cao đều là những hàng hóa Việt Nam hoàn toàn có khả năng cung ứng tốt, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội kinh doanh tại thị trường này.
2.2.Tính quy chuẩn và thống nhất cao độ đối với các sản phẩm
Là thị trường rộng, sức mua lớn, nhu cầu đa dạng nhưng đồng thời cũng là thị trường có những quy định tương đối chặt chẽ đối với hàng hóa nhập khẩu. Thông thường, hàng hóa được các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhập về phải có khối lượng lớn, phải đảm bảo đúng quy chuẩn, đúng thời hạn và đặc biệt là không được phương hại đến lợi ích quốc gia cũng như lợi ích của các công ty nhập khẩu. Hàng hóa trước khi đưa vào phân phối đến tay người tiêu dùng đều phải được kiểm nghiệm chặt chẽ, chỉ khi đã đáp ứng được các chuẩn mực nhất định mới được phép đưa vào lưu thông tới người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra, trong quá trình nhập khẩu hàng hóa vào thị trường nội địa, Hoa Kỳ cũng đưa ra những quy định chung về cách tính trị giá hải quan, về nội dung hình thức của một hóa đơn thương mại đặc biệt vấn đề xuất xứ sản phẩm rất được coi trọng. Mức thuế nhập khẩu được áp dụng khác nhau cho các hàng hóa đến từ các nhóm nước khác nhau và một số mặt hàng còn chịu sự quản lý bằng hạn ngạch phân bổ theo quốc gia do đó việc xác định được xuất xứ hàng hóa là hết sức quan trọng.
2.3.Hệ thống phân phối thống nhất và ổn định
Do đặc tính là thị trường lớn, thị hiếu tiêu dùng đa dạng nên việc cung ứng các loại hàng hóa tới người tiêu dùng cũng phải có quy mô tương ứng. Thực tế đã cho thấy hệ thống phân phối hàng hóa ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao và có một tổ chức hoàn chỉnh. Tại Hoa Kỳ hiện nay có nhiều loại công ty lớn, vừa và nhỏ sử dụng các kênh phân phối sản phẩm khác nhau. Các công ty lớn thường có hệ thống phân phối riêng và tự mình thực hiện các khâu từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị, phân phối và tự nhập khẩu. Còn đối với các công ty vừa và nhỏ thì vận động xung quanh hệ thống thị trường và được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Các công ty vừa và nhỏ của Hoa Kỳ tiến hành nhập khẩu hàng hóa về và bán tại thị trường trong nước thông qua nhiều cách khác nhau: bán cho các cửa hàng bán lẻ, bán cho các nhà phân phối, tiến hành bán lẻ trực tiếp…Khi nói tới các kênh phân phối trên thị trường Hoa Kỳ không thể không nhắc tới vai trò của hệ thống bán lẻ. Hiện nay Hoa Kỳ có trên 1 triệu doanh nghiệp bán lẻ chiếm khoảng 11,7% tổng số việc làm tại Hoa Kỳ, riêng trong ngành may mặc đã có hàng trăm cửa hàng bán lẻ quần áo với doanh thu khoảng 93 tỷ USD/ năm. Với mặt hàng thủy sản, việc cung ứng cũng rất tiện lợi với hệ thống các nhà hàng, hệ thống cung cấp cho các cơ sở ăn uống công cộng như trường học, hộ gia đinh; hệ thống bán lẻ là các chuỗi siêu thị, các cửa hàng bán lẻ, các chợ, các cửa hàng…
2.4.Cường độ cạnh tranh cao
Như đã biết, nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ hàng năm là lớn nhất thế giới, đây là cái đích hướng tới của nhiều nhà xuất khẩu. Do đó trên thị trường này luôn có mặt của rất nhiều nhà cung cấp lớn nhỏ từ khắp nơi trên thế giới, đó chính là nguyên nhân cơ bản của sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà xuất khẩu với nhau, giữa nhà xuất khẩu với nhà sản xuất nội địa, và trong những chiến lược cạnh tranh đó, giá cả và chất lượng là hai yếu tố cơ bản nhất giữ vai trò quan trọng cần được các doanh nghiệp xuất khẩu lưu tâm. Trong hai yếu tố đó, giá cả đôi khi có sức cạnh tranh hơn so với chất lượng sản phẩm bởi người tiêu dùng Hoa Kỳ thường không muốn trả tiền theo giá niêm yết, hàng hóa bán tại trị trường Hoa Kỳ phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng, số lượng và chất lượng của những dịch vụ này có ý nghĩa quan trọng trong sự lựa chọn mua hàng của họ. Nắm được đặc điểm này mà các doanh nghiệp thường tập trung cao vào phục vụ tốt các dịch vụ sau bán hàng cũng như tìm cách để hạ thấp giá thành sản phẩm đến mức tối thiểu có thể. Các nhà kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt và cái giá phải trả cho sự nhầm lẫn là rất lớn.
2.5.Các hiệp hội kinh doanh và hệ thống tư vấn rất được đề cao
Mặc dù là thị trường có tính mở khá cao nhưng trên thực tế các chính sách thương mại của quốc gia này vẫn mang xu hướng bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất trong nước tương đối chặt chẽ và nghiêm ngặt. Điều này được thể hiện ở một số lượng lớn các Hiệp hội, các tổ chức của các nhà kinh doanh giữ vai trò hướng dẫn, phối hợp hoạt động và bảo vệ lợi ích các doanh nghiệp trong nước trước sự thâm nhập mạnh mẽ của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này vừa tạo ra những thách thức và những cơ hội mà nếu doanh nghiệp nước ngoài khai thác được thì sẽ có được một sự đảm bảo vững chắc cho xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Hoa Kỳ là: thông qua thiết lập mối quan hệ tốt đẹp bình đẳng với các tổ chức Hiệp hội ngành hàng của Hoa Kỳ, nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ có thể dễ dàng tìm cho mình những đối tác làm ăn là các doanh nghiệp nội địa phù hợp nhất từ đó thiết lập quan hệ thương mại, cơ sở cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đây là cách tiếp cận thị trường hiệu quả cao và đảm bảo được sự tin cậy.
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ vốn phức tạp nên để có thể hiểu được những vấn đề liên quan đến pháp luật cũng như có một sự đảm bảo pháp lý vững chắc cho hoạt động kinh doanh của mình, nhà xuất khẩu thường lựa chọn cho mình những cố vấn luật pháp riêng. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ rất đề cao vai trò của các dịch vụ tư vấn đặc biệt là dịch vụ tư vấn luật, họ rất sợ trong hợp đồng của mình có bất cứ điều gì không rõ ràng hay không đúng với quy định của pháp luật, và họ cũng muốn các đối tác làm ăn của mình nắm vững cơ sở pháp lý cho các điều khoản hợp đồng. Các nhà xuất khẩu, doanh nghiệp nước ngoài luôn cần phải có sự hỗ trợ của các loại hình dịch vụ này cho quá trình hoạt động của mình trong quan hệ làm ăn với thương nhân Hoa Kỳ, tuy nhiên cũng cần phải tính toán cụ thể vì giá của những dịch vụ này tại Hoa Kỳ là tương đối cao. Với người Hoa Kỳ, “thời gian là tiền bạc”, họ cũng coi thời gian là một loại hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa khác, người Hoa Kỳ tiết kiệm thời gian như tiết kiệm tiền bạc đặc biệt là những người làm dịch vụ tư vấn, luật sư…thường tính phí hoặc tiền công dựa trên số giờ làm việc với khách hàng. Vì vậy, các nhà kinh doanh nước ngoài khi cần phải sử dụng các dịch vụ này phải hết sức lưu ý: chuẩn bị đầy đủ và chu đáo mọi câu hỏi cần giải đáp cũng như nội dung cần tư vấn để đi thẳng vào vấn đề, tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng các dịch vụ này. Cũng chính vì tiết kiệm thời gian mà các nhà kinh doanh Hoa Kỳ không có nhiều thời gian cho những câu chuyện rông dài hoặc đọc những bức thư dài hoặc phải chờ đợi sự trả lời chậm trễ. Do đó, các bức thư chào hàng hoặc giao dịch trước hết phải đảm bảo được sự ngắn gọn súc tích thu hút được sự chú ý của đối tác, nội dung phải rõ ràng và trả lời thẳng vào vấn đề mà đối tác quan tâm. Sự chậm trễ trả lời các thư hỏi hàng sẽ làm mất cơ hội kinh doanh.
CHƯƠNG 2: BÀI HỌC Ý NGHĨA CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI THÂM NHẬP VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
Trong chiến lược đẩy Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mang lại những kết quả tốt đẹp trong quan hệ thương mại của hai nước và đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, hàng hóa của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn tại thị trường Hoa Kỳ, tuy nhiên để đạt được những mục tiêu đã đặt ra đòi hỏi phải có sự cố gắng rất nhiều từ phía các cơ quan Nhà nước, Chính phủ và từ phía các doanh nghiệp, chúng ta cần phải hiểu mình đang đứng ở vị trí nào, và đứng ở đâu tại thị trường này, từ đó mới có thể đưa ra những định hướng phát triển trong những giai đoạn tới.
1.Cần dự báo về nhu cầu thị trường Hoa Kỳ
Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trong những năm gần đây phát triển theo chiều hướng tích cực, tuy nhiên trên thực tế mối quan hệ này vẫn đang phải chịu rất nhiều tác động chủ quan và khách quan. Mới đây, Chính phủ Hoa Kỳ đã ban hành cơ chế giám sát hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ, một hình thức của sự gia tăng rào cản thương mại và bảo vệ hàng hóa nội địa. Mặc dù vậy, theo dự báo của các nhà kinh tế thì với tốc độ tăng trưởng thương mại như hiện nay, xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể đạt 11 tỷ USD tăng 35% so với năm 2006, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu dự kiến: dệt may đạt 4 tỷ USD tăng 30%; thuỷ sản đạt 650 triệu USD tăng 8%; giày dép đạt 1,2 tỷ USD tăng 40%; đồ gỗ đạt 1,2 tỷ USD tăng 40%; rau quả (chủ yếu là hạt điều) đạt 240 triệu USD tăng 20%; cà phê đạt 320 triệu USD tăng 28%; dầu khí đạt 900 triệu USD (không tăng) và máy thiết bị đạt 950 triệu USD.
Trước hết là đối với hàng dệt may, hạn ngạch dệt may Hoa Kỳ áp dụng với Việt Nam đã được xóa bỏ từ ngày 11/1/2007 nhưng thay vào đó Hoa Kỳ lại thực hiện cơ chế giám sát chặt chẽ nhập khẩu dệt may từ Việt Nam và sẽ thực hiện điều tra về chống bán phá giá (dự kiến vào tháng 7/2007) theo đó hàng dệt may nước ta có thể sẽ bị áp dụng mức thuế chống bán phá giá. Mục đích cuối cùng của cơ chế này là tạo ra một thị trường không ổn định làm cho các nhà sản xuất không an tâm đầu tư tăng khả năng cung ứng, còn các nhà nhập khẩu không tin tưởng để đặt hàng tại Việt Nam. Các mặt hàng có khả năng bị giám sát là quần dài, áo sơ mi, đồ bơi, đồ lót và áo thun – đây là những mặt hàng đóng góp 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ. Trước tình hình đó, Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương mại chủ trương việc đầu tiên then chốt cần phải làm ngay để tăng cường xuất khẩu vào Hoa Kỳ là nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm và sức cạnh tranh doanh nghiệp. Bộ đã chỉ thị cho các doanh nghiệp trong nghành dệt may phải tích cực cải tiến quản lý sản xuất, chất lượng sản phẩm phải đạt từ bậc trung trở lên mới được phép đưa vào thị trường Hoa Kỳ. Bộ Thương mại nhận định thị trường Hoa Kỳ đang có xu hướng tập trung nhập hàng ổn định từ một số nhà cung cấp nhất định để có thể dễ dàng trong quản lý chất lượng và tạo sức ép giảm giá, vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện liên kết với nhau về mặt sản xuất thậm chí sát nhập để có thể trở thành đối tác sản xuất chiến lược lâu dài ổn định của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ. Bên cạnh chủ trương mở rộng sản xuất, Bộ cũng khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện chiến lược sản xuất linh hoạt để đáp ứng yêu cầu của các hãng bá