Giới thiệu về cây chùm ngây (moringa oleiferalam.)

Cây Chùm ngây là cây gỗ nhỏ, cao từ 5 - 10m. Lá kép thường là 3 lần lông chim, có 6-9 đôi lá chét hình trứng, mọc đối. Hoa trắng có cuống, hơi giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, mỗi một hoa là một tổ hợp gồm 5 cánh hoa bằng nhau, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm, bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn đính phôi trắc mô [9]. Quảnang treo, có 3 cạnh, dài 25 - 30cm, hơi gồ lên ở chỗ có hạt, khía rãnh dọc.

pdf19 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4363 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu về cây chùm ngây (moringa oleiferalam.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 - Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. GIỚI THIỆU VỀ CÂY CHÙM NGÂY (MORINGA OLEIFERA LAM.) 1.1.1. Giới thiệu chung Cây Chùm ngây tên khoa học là Moringa oleifera Lam. hay M. Pterygosperma, thuộc họ Chùm ngây (Moringaceae). Tên chi Moringa có lẽ do từ tên Mã Lai của cây là Murinna; tên loài oleifera có nghĩa là chứa dầu [5]. 1.1.2. Vị trí phân loại [50] Giới Thực vật :Plantae Ngành Ngọc lan :Magnoliophyta Lớp Ngọc lan :Magnoliopsida Bộ Cải :Brassicales Họ Chùm ngây :Moringaceae Chi : Moringa Loài : Moringa oleifera Lam. 1.1.3. Đặc điểm sinh học của cây Chùm ngây ¾ Đặc điểm sinh học: Cây Chùm ngây là cây gỗ nhỏ, cao từ 5 - 10m. Lá kép thường là 3 lần lông chim, có 6-9 đôi lá chét hình trứng, mọc đối. Hoa trắng có cuống, hơi giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, mỗi một hoa là một tổ hợp gồm 5 cánh hoa bằng nhau, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm, bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn đính phôi trắc mô [9]. Quả nang treo, có 3 cạnh, dài 25 - 30cm, hơi gồ lên ở chỗ có hạt, khía rãnh dọc. Hạt màu đen, to bằng hạt đậu Hà Lan, hình tròn có 3 cạnh và 3 cánh màu trắng dạng màng. Cây ra hoa vào tháng 1–2 (Võ Văn Chi, 1999) [3]. Quả dạng nang treo, dài 25-30 cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh, chỗ có hạt hơi gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt màu đen, tròn dẹp có 3 cạnh, to khoảng 1 cm (cỡ hạt đậu Hòa Lan), có 3 cánh mỏng bao quanh [49]. - 2 - Thân có vỏ màu trắng xám, dày, mềm, sần sùi nứt nẻ, gỗ mềm và nhẹ. Khi bị thương tổn, thân rỉ ra nhựa màu trắng, sau chuyển dần thành nâu. Hệ thống rễ phát triển mạnh nếu được trồng từ hạt, phình to như củ màu trắng với những rễ bên thưa. Nếu trồng bằng cách giâm cành, hệ thống rễ sẽ không được như vậy [38]. Cây Chùm ngây phát triển nhanh chóng ở những vùng có điều kiện thuận lợi, có thể tăng trưởng chiều cao từ 1-2 m/năm trong vòng 3 đến 4 năm đầu. Tuy nhiên, trong một thử nghiệm ở Tanzania, cây trồng từ hạt có thể đạt được chiều cao trung bình 4,1 m trong năm đầu tiên. Trong điều kiện tự nhiên, không biết cây sống được bao lâu. Cây bắt đầu cho quả từ thân và nhánh từ sau 6 đến 8 tháng trồng [38]. ¾ Sinh sản, tái sinh, nhân giống: Ở Việt Nam cây trổ hoa vào tháng 1-2. Cây ra hoa rất sớm, thường ngay trong năm đầu tiên, khoảng 6 tháng sau khi trồng. Cây khoảng 12 năm tuổi là cho hạt tốt nhất. Quả chín, hạt giống phát tán khắp nơi theo gió và nước, hoặc được mang đi bởi những loài động vật ăn hạt. Khả năng nảy mầm của hạt còn mới là 60–90%. Tuy nhiên khả năng này không giữ được nếu hạt được lưu giữ ở điều kiện thường quá 2 tháng. Tỉ lệ nảy mầm giảm dần từ 60%, 48% và 7,5% tương ứng với thời gian lưu trữ hạt là 1, 2 và 3 tháng (kết quả thử nghiệm ở Ấn Độ) [42]. Cây có thể trồng bằng hạt hoặc bằng cách giâm cành: trồng bằng hạt là phương pháp dễ dàng nhất. Cây trồng từ hạt có sức sống cao, tuy nhiên, trong giai đoạn còn non, cây yếu nên cần được chăm sóc trong điều kiện bóng mát. Biện pháp giâm cành cũng có thể thực hiện tuy nhiên hiệu quả không bằng gieo hạt, thường tiến hành giâm cành vào mùa mưa, khi điều kiện không khí đạt được độ ẩm thích hợp [47]. - 3 - Hình 1.1. Cây Chùm ngây ngoài tự nhiên [47] 1.2. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CÂY CHÙM NGÂY (MORINGA OLEIFERA LAM.) [20], [53] ¾ Rễ cây Chùm ngây: Chứa hợp chất glucosinolates: như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzyl glucosinolate (khoảng 1%), sau khi chịu tác động của enzyme myrosinase sẽ cho 4- (alpha-L-rhamnosyloxy) benzylisothiocyanate, glucotropaeolin (khoảng 0.05%) và benzylisothiocyanate. ¾ Hạt cây Chùm ngây: Hạt chứa glucosinolate như trong rễ, có thể lên đến 9% sau khi hột đã được khử chất béo. Các axit loại phenol carboxylic như 1 beta - D - glucosyl 2, 6 dimethyl benzoate. Ngoài ra hạt còn chứa chất béo 33-38% được dùng trong dầu ăn và kỹ nghệ hương liệu, thành phần chính gồm các axit béo như oleic axit (60-70%), palmitic axit (3-12%), stearic axit ( 3-12%) và các axit béo khác như behenic axit, eicosanoic và lignoceric axit [47]. ¾ Lá cây Chùm ngây: Chứa các hợp chất thuộc nhóm flavonoids và phenolic như kaempferol 3-O- alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta- - 4 - glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside (Natural Product Research Số 21-2007) [53]. Kaempferol Quercetin ¾ Hoa Chùm ngây: Hoa chứa polysaccharide được dùng làm chất phụ gia trong kỹ nghệ dược phẩm. Rễ chứa glucosinolate như : 4 - (alpha - L - rhamnosyloxy) benzyl glucosinolate (1%) sau khi chịu tác động của myrosinase sẽ cho 4 - (alpha - L - rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate (0,05%) và benzylisothicocyanate [53]. ¾ Nhựa cây Chùm ngây (Gôm): Gôm chiết từ vỏ cây có chứa arabinose, galactose, acid glucuronic và vết rhamnose. Từ gôm, chất leucoanthocyanin đã được chiết và xác định là leucodelphinidin , galactopyranosyl, glucopyranosid [7]. 1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÂY CHÙM NGÂY Chùm ngây được xem là một cây đa công dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo. Vì vậy nó được nghiên cứu rất nhiều về trồng trột và thu hái; cũng như nghiên cứu về các hoạt tính y dược học và giá trị dinh dưỡng. Đa số các nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, Philippines và Phi Châu. Nghiên cứu nhiều nhất về giá trị của cây Chùm ngây (Moringa oleifera) là tại Đại Học Nông Nghiệp Falsalabad-Pakistan [5]. 1.3.1. Nghiên cứu về trồng trọt và thu hái ngoài tự nhiên[5], [10], [53] Chùm ngây là một cây có giá trị kinh tế cao, cây phân bố tại nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây vừa là một nguồn dược liệu vừa là một nguồn thực O OH OH OH OH O OH O OH OH OH OH O - 5 - phẩm rất tốt. Cây trồng bằng hạt hay bằng cành, sau hai năm bắt đầu có hoa. Cây được trồng trong các vườn gia đình làm rau ăn. Người ta thu hái các bộ phận của cây quanh năm. Cây Chùm ngây là cây dễ trồng, có thể trồng bằng hạt hay bằng cách giâm cành, cây tăng trưởng nhanh; cao từ 4–5 m, đường kính cổ rễ từ 5–6 cm sau 1 năm trồng và ra hoa kết trái ngay trong năm đầu tiên và cao từ 7–8 m; đường kính cổ rễ từ 7–9 cm khi cây được 2 năm tuổi (Nguyễn Hữu Thành và cs, 1997) [10]. Người ta có thể thu hái quả non ăn sau 55-70 ngày kể từ ngày hoa nở và quả chín sau 100-115 ngày (J.S. Siemonsma and Kasem Pilauek et al, 1994) [53]. Tiến sĩ Reyes, (1990) đã nghiên cứu trồng trọt bằng hạt để thu hái làm dược liệu theo phương pháp luân phiên như sau: mỗi cây con trồng cách nhau từ 10 đến 50 cm, sau 75 ngày thu hái lá và cành non ở phía trên bằng cách cắt ngang thân cây cách gốc 20-30 cm; sau đó chăm sóc tiếp và thu hái, cây sẽ cho ra nhán và cành non sau đó. Trung bình mỗi năm thu hoạch được 4 lần, năng xuất trung bình thu được 100 tấn/1 hecta/năm đầu tiên và 57 tấn/hecta/ năm thứ hai. Cây Chùm ngây trồng ở nước ta thường ra hoa một vụ trong năm. Cây chủ yếu là mọc hoang ở những vùng khô. Kỹ thuật trồng chăm sóc không phức tạp, có khả năng chống chịu các điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Cây rất ít sâu bệnh và quá trình gieo trồng không cần sử dụng thuốc trừ sâu bệnh. Vì vậy công tác qui hoạch khoanh vùng trồng trọt để thu hái tạo nguồn nguyên liệu cung cấp cho việc nghiên cứu và tạo nguồn dược liệu là vấn đề cần thiết [10], [53]. ¾ Cách trồng như sau: + Trồng bằng phương pháp giâm cành: Chặt cành (không chặt xéo), đường kính 1 tấc, mỗi cành dài 1,2 m. Chôn sâu cành 3 tấc phần gốc, dùng bàn chân đạp chặt xung quanh gốc cho vững, ngọn hướng lên trên, tưới nước vừa phải. Sau 20 ngày cành sẽ đâm tượt. Khâu chuẩn bị đất, cách trồng như trên. Nếu muốn sử dụng rễ thì để cây phát triển bình thường 6 tháng trở lên [49]. - 6 - + Trồng bằng hạt (gồm 5 bước sau):[54] 1. Ngâm hạt trong nước lạnh 24 giờ. 2. Lấy hạt ra rồi bỏ trong bao nylon, đặt bao nylon vào chỗ ấm nóng và tối để hạt nảy mầm, không thêm nước vào bao nylon. 3. Sau vài ba ngày hạt giống sẽ nảy mầm, đem hạt ra trồng vào chậu có lớp đất mỏng phủ lên trên. 4. Trồng trong chậu khoảng 8 tuần trước khi đem trồng ngoài đất, trồng cây cách nhau khoảng 2 - 3 m. 5. Cây Moringa thích nắng, chịu khô hạn. Có thể tưới nước nhưng đừng để rễ cây bị úng nước. Cây 1 tháng tuổi Cây 75 ngày Thu hái Lá và cành non Hình 1.2. Trồng và thu hái Chùm ngây ngoài tự nhiên [56]. - 7 - 1.3.2. Nghiên cứu về nuôi cấy in-vitro Chồi bất định từ các cây trồng ngoài tự nhiên và chồi đỉnh của cây con in-vitro được sử dụng làm mô cấy trên môi trường MS và Wood Plant Medium (WPM). Khử trùng bằng NaOCl 0,25% trong 10 phút, chồi bất định và chồi đỉnh được nuôi cấy trên môi trường MS và WPM sau 12 ngày sau đó được chuyển vào vào môi trường MS có bổ sung Benzylaminopurine (BAP) với các nồng độ ( 0,05; 0,25; 1,25; và 6,25 µmol). Tỷ lệ nảy chồi cao nhất là 89 %. Đồng thời khảo sát sự tạo rễ bằng cách bổ sung AIB với các nồng độ 0,05; 0,25; 1,25 µmol (Prof. Francisco A.P. Campos Fortaleza, 2006) [41]. 1.4. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY Cây Chùm ngây Moringa oleifera Lam. là "Cây thần diệu" Moringa rất có ý nghĩa trong việc chống suy dinh dưỡng tại các khu vực đói nghèo. Nhiều bộ phận của cây như quả, lá non, hoa các nhánh non đều có thể dùng. Theo các nghiên cứu thì cây Chùm ngây không chỉ là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao mà còn chứa nhiều khoáng chất và acid amin tốt cho cơ thể [5]. So sánh giá trị dinh dưỡng của nó với một số thực phẩm tự nhiên thường dùng hàng ngày, cho thấy giá trị dinh dưỡng của lá cây Chùm ngây cao hơn nhiều. Lượng vitamin C cao hơn gấp 7 lần so với lượng vitamin C có trong quả cam; gấp 4 lần lượng can-xi và 2 lần lượng protein của sữa; hơn 4 lần vitamin A của cà rốt và hơn 3 lần potassium của chuối [26]. Phân tích giá trị dinh dưỡng và khoáng chất trong 100g lá khô của cây Chùm ngây được thể hiện ở bảng 1.1 [51]. 1.4.1. Công dụng trong thực phẩm [36] Lá của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng như: chất đạm, vitamins, beta- carotene, acid amin và nhiều hợp chất khó gặp tại các cây khác như zeatin, nhóm hợp chất flavonoid (quercetin, rutin, ß-sistosterol, acid caffeoylquinic và kaempferol….(U Eilert, B Wolters, A Nahrstedt, 1981). Vì vậy được ứng dụng rất nhiều trong thực - 8 - phẩm, như làm trà túi lọc moringa, nước uống Zija [55]. Bảng 1.1: Thành phần dinh dưỡng trong 100 gram lá khô Moringa oleifera Lam. [51] Protein (g) 27.1 Carbohydrate (g) 38.2 Fiber (g) 19.2 Fat (g) 2.3 Ca (mg) 2,003 MG (mg) 368 P (mg) 204 K (mg) 1,324 Cu (mg) 0.57 Fe (mg) 28.2 S (mg) 870 Vitamin A-B Carotene (mg) 16.3 Arginine (g/16gN) 1.33 % Vitamin B1 - Thiamin (mg) 2.64 Histidine (g/16gN) 0.61 % Vitamin B2 - Riboflavin (mg) 20.5 Lysine (g/16gN) 1.32 % Vitamin B3 - Nicotinic acid (mg) 8.2 Tryptophan (g/16gN) 0.43 % Vitamin C Ascorbic acid (mg) 17.3 Phenylanaline (g/16gN) 1.39 % Vitamin E Tocopherol acetate mg) 113 Methionine (g/16gN) 0.35 % Threonine (g/16gN) 1.19 % Leucine (g/16gN) 1.95 % Isoleucine (g/16gN) 0.83 % Valine (g/16gN) 1.06 % Calories 205 Moisture 7.5 % Oxalic acid (mg) 1.6 % 1.4.2. Công dụng trong xử lý nước Việc nghiên cứu xử lý nước từ hạt của cây Chùm ngây đã được biết từ lâu, và cho đến năm 1970 có những báo cáo về hoạt tính lọc nước của hạt Chùm ngây. Những nghiên cứu về hoạt chất ngưng kết, làm trong nước và diệt khuẩn có trong hạt Chùm ngây, đồng thời thử nghiệm qui trình lọc nước của hạt của cây Chùm ngây đã được - 9 - nhiều người quan tâm [27]. Dùng hột Chùm ngây để lọc nước, làm sạch nước và diệt vi khuẩn (Nguyễn Hữu Thành và cs, 1996 – 1997) [10]. Tác dụng lắng lọc, diệt khuẩn gây bệnh đường ruột trong việc xử lý nước bẩn có thể áp dụng cho các vùng lũ ở việt Nam. Chùm ngây là lọai cây rất gần gũi với đời sống của chúng ta, có rất nhiều giá trị mà chúng ta chưa biết khai thác hết công năng của nó. Hạt Chùm ngây có chứa một số hợp chất 'đa điện giải' (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước. Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005) [18]. 1.4.3. Công dụng trong y dược học [9], [25], [42], [48], [53], [54] Các bộ phận của cây đã được sử dụng làm dược liệu tại nhiều nước trên thế giới: ¾ Campuchia: vỏ cây được dùng làm thuốc cho phụ nữ sau khi sinh đẻ uống như là nước chóng lại sức. ¾ Thái Lan: vỏ thân được dùng làm thuốc thông hơi. Quả dùng trị bệnh đau gan và tỳ, đau khớp, uốn ván và chứng liệt. ¾ Việt Nam: theo Võ Văn Chi (1999) [3], Phạm Hoàng Hộ (2006) [7] các bộ phận của cây như quả, lá non, hoa các nhánh non đều có thể dùng làm rau ăn, nhưng phải nấu chín. Lá cây kích thích tiêu hóa, trái nồng, dùng trong cari, dầu từ hột là dầu ăn. Rễ cây có tác dụng làm giảm sự thụ thai, chứa một isothiocyanate chống nhiều vi khuẩn trong đó có Mycobacterium phlei, chống siêu vi khuẩn trái rạ, toi gà ngoài ra rễ Chùm ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gôm) từ thân có tác dụng làm dịu cơn đau.[1], [4]. Vỏ chứa - 10 - alkaloid moringenin, moringin phấn khích tim. Vỏ rễ diệt khuẩn (Vibrio cholerae) [4]. ¾ Ấn Độ: Chùm ngây là một trong những cây thuốc dân gian rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Coccinia cordifolia, hạt mướp và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen và Chìa vôi). Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu; quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương; lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh; dầu từ hạt để trị phong thấp [47], [53]. ¾ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cách sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như: Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp vào bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai. Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt, phong thấp, gout, sưng gan và lá lách. Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng [53]. ¾ Trung Mỹ: Hạt Chùm ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán. ¾ Saudi Arabia: Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông [35]. - 11 - 1.5. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ HỢP CHẤT THỨ CẤP FLAVONOID 1.5.1. Gới thiệu chung về hợp chất thứ cấp [1], [23], [32] Thực vật sản xuất ra môt lượng lớn các chất hưu cơ mà có một số chất không tham gia trực tiếp vào quá trình sinh trưởng và phát triển của cây, những chất này được gọi là sản phẩm thứ cấp, sản phẩm thứ cấp khác các sản phẩm sơ cấp ở chỗ có sự phân bố giới hạn trong thực vật, các sản phẩm thứ cấp chuyên biệt chỉ được tìm thấy trong một loài nhất định hoặc chỉ liên quan trong một nhóm loài được phân loại, trong khi các con đường sơ cấp cơ bản được tìm thấy xuyên suốt trong giới thực vật [1]. Ở thực vật có những hợp chất thứ cấp đóng vai trò quan trọng gồm có alkaloids, terpenoids, phenolics, steroids và flavonoids. Các chất này rất đa dạng về cấu trúc và kích thước, và được tìm thấy trong rất nhiều loài thực vật khác nhau, mỗi loài có một dẫn xuất khác nhau. Cho đến nay, người ta đã tìm thấy gần 100.000 các hợp chất thứ cấp ở thực vật khác nhau, và hàng năm một số lượng lớn các chất mới được phát hiện thêm. Nguồn gốc của các chất thứ cấp là các điểm cuối cùng của quá trình biến dưỡng, với chức năng ít chuyên biệt (Harborne & Tomas-Barberan 1991) [32]. Lượng hợp chất thứ cấp được tạo ra thường rất nhỏ. Nhưng chúng có khả năng tiềm ẩn họat tính sinh học rất mạnh ngay cả khi chúng được sản xuất thấp hơn 1% trọng lượng mô thực vật. Các hợp chất thứ cấp có thể được sản xuất trong các loại tế bào đặc biệt như tế bào tuyến tiết, lông tơ, biểu bì… nơi mà chúng được tiết ra có chức năng như các chất xua đuổi, tự vệ hay dẫn dụ. Một trong những chức năng dễ nhận thấy nhất ở các chất thứ cấp đó là có vai trò sinh hóa trong cơ chế bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh và xâm hại (Edwads R., and Gatehouse J. A., 1999) [23]. Có nhiều phương pháp để thu nhận hợp chất thứ cấp ở thực vật, một trong những cách đơn giản đó là thu nhận từ các cơ quan: rễ, thân, lá trong thực vật, tất cả các cơ quan này ở thực vật đều có thể sản xuất hợp chất thứ cấp, đó là nguồn cung cấp nguồn nguyên liệu cho dược học. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi trồng tự nhiên năng suất của các hợp chất thứ cấp không ổn định theo các giai đoạn phát triển của thực vật, - 12 - vì do sự ảnh hưởng của tuổi cây, thời gian thu hoạch, điều kiện dinh dưỡng…Do vậy, để thu nhận một lượng lớn hợp chất thứ cấp ổn định về hàm lượng và xác định đúng thời gian thu hoạch là một điều chúng ta cần quan tâm trong công tác thu hái làm dược liệu. Bên cạnh đó các kỹ thuật phân tích và kiểm tra hoạt tính của các sản phẩm thứ cấp cũng là những yếu tố quan trọng, để có thể tạo được nguồn nguyên liệu phục vụ trong sản xuất ở qui mô công nghiệp trong y dược học [1], [23], [32]. 1.5.2. Hợp chất flavonoid và quercetin [11] ¾ Flavonoid: Flavonoid là một nhóm hợp chất tự nhiên lớn thường gặp trong thực vật, phần lớn có màu vàng. Về cấu trúc hoá học flavonoid có khung cơ bản theo kiểu C6 – C3 - C6 (2 vòng benzen A và B nối với nhau qua một mạch 3 carbon) và được chia làm nhiều nhóm khác nhau. Cũng giống vitamin C, các flavonoid được khám phá bởi một trong những nhà sinh hóa nổi tiếng nhất của thế kỷ 20: Albert Szent-Gyorgyi (1893- 1986). Ông nhận giải Nobel năm 1937 với những khám phá quan trọng về các đặc tính của vitamin C và flavonoid [11]. Flavonoid thuộc nhóm hợp chất thứ cấp lớn gồm nhiều loại polyphenols như anthocyanins, flavanonse, flavanols, flavones, flavonols, isoflavonoids…Các hợp chất flavonoids được tạo ra ở trong mô thực vật nhằm chống lại tia UV (Harborne and Williams 2000) [31]. Có khoảng trên 6000 hợp chất flavonoids tự nhiên có trong thực vật và nói chung là có nhiều trong thực vật bậc cao (Harborne & Williams 2000), một số hợp chất là sắc tố trong thực vật nhưng cũng là những hợp chất có hoạt tính sinh học. Hầu hết các flavonoid đều ở dạng glycoside, đều tan trong nước và tích lũy trong không bào của tế bào thực vật [31]. Flavonoid là nhóm hợp chất thứ cấp ở thực vật có rất nhiều chức năng quan trọng và hữu ích cho sức khoẻ con người, từ việc tách chiết RNA và phân tích sự biểu hiện gen cho thấy có sự xuất hiện 5 đoạn cDNA biểu hiện cho 5 enzyme trong quá trình sinh tổng hợp flavonoid (phenylalanine ammonia-lyase/chalcone synthase/ - 13 - flavanone 3-hydroxylase/ dihydroflavanol 4-reductase and anthocyanidin synthase). Sự hoạt hoá của các gens trong quá trình sinh tổng hợp flavonoid đồng thời có sự tập trung flavonoids và acid hydroxycinnamic được xác định trong lá đang phát triển dưới điều kiện trực tiếp của ánh sáng mặt trời so với lá trong tối của một số thực vật tương tự. Cyanidin của anthocyanins và quercetin flavonol có vai trò ưu thế hơn trong việc chống lại ánh sáng cao của mặt trời trong lá Vaccinium myrtillus L. Flavonoid có vai trò trong việc bảo vệ thực vật chống lại bức xạ cao của mặt trời [43]. ¾ Quercetin: Quercetin là một flavonoid làm xương sống cho nhiều loại flavonoids khác như rutin, quercitrin và các flavonoid khác. Quer