Về Lâm nghiệp, nấm Linh chi là một trong những loại nấm phá gỗ, đặc biệt trên các cây thuộc bộ Đậu (Fabales). Nấm xuất hiện nhiều vào mùa mưa, trên thân cây hoặc gốc cây. Có những loài đa niên, tai nấm phát triển qua nhiều năm, và những loài hằng niên, tai nấm chỉ phát triển qua một mùa. Nấm Linh chi có ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong thiên nhiên, nấm này thường chỉcó nơi rừng rậm, ít ánh sáng và 
độ ẩm cao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 22 trang
22 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4625 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giới thiệu về nấm Linh chi Ganoderma lucidum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1. Giới thiệu về nấm Linh chi Ganoderma lucidum 
1.1.1. Giới thiệu tổng quát [6][, [12], [28] 
1.1.1.1. Phân loại 
Tên gọi: Nấm Linh chi, nấm lim, nấm trường thọ,.. 
Tên khoa học: Ganoderma lucidum 
Phân loại khoa học Giới: Nấm 
 Ngành: Nấm đảm 
 Lớp: Agaricomycetes 
 Bộ: Polyporales 
 Họ: Ganodermataceae (Nấm gỗ) 
 Giống: Ganoderma 
 Loài: Ganoderma lucidum 
1.1.1.2. Phân bố 
Về Lâm nghiệp, nấm Linh chi là một trong những loại nấm phá gỗ, đặc biệt trên 
các cây thuộc bộ Đậu (Fabales). Nấm xuất hiện nhiều vào mùa mưa, trên thân cây hoặc 
gốc cây. Có những loài đa niên, tai nấm phát triển qua nhiều năm, và những loài hằng 
niên, tai nấm chỉ phát triển qua một mùa. Nấm Linh chi có ở vùng nhiệt đới và cận 
nhiệt đới. Trong thiên nhiên, nấm này thường chỉ có nơi rừng rậm, ít ánh sáng và 
độ ẩm cao. 
1.1.1.3. Hình thái quả thể 
Nấm Linh chi có chung một đặc điểm là tai nấm hóa gỗ; mũ xoè tròn, bầu dục 
hoặc hình thận; có cuống ngắn hoặc dài hay không cuống. Mặt trên mũ có vân đồng 
tâm và được phủ bởi lớp sắc tố bóng láng như verni. Mặt dưới phẳng, màu trắng 
 2
hoặc vàng; có nhiều lỗ li ti, là nơi hình thành và phóng thích bào tử nấm. Bào tử 
nấm dạng trứng cụt với hai lớp vỏ, giữa hai lớp vỏ có nhiều gai nhọn nối từ trong 
ra ngoài. 
Hình 1.1. Hình thái quả thể nấm Linh chi 
1.1.1.4. Cách nuôi cấy và nhân giống 
Việc nuôi trồng nấm Linh chi được ghi nhận từ 1621 (theo Wang X.J.), 
nhưng để nuôi trồng công nghiệp bắt đầu từ 1936, với thành công của GS Dật Kiến 
Vũ Hưng (Nhật). Năm 1971, Naoi Y. nuôi trồng tạo được quả thể trên nguyên liệu 
là mạt cưa. Năm 1979, sản lượng nấm khô ở Nhật đạt 5 tấn/ năm, năm 1995, sản 
lượng lên gần 200 tấn/ năm. Như vậy, trong vòng 16 năm, sản lượng nấm Linh chi 
của Nhật đã tăng gấp 40 lần. Qui trình nuôi trồng ở Nhật sử dụng chủ yếu là gỗ 
khúc và phủ đất, nên cho tai nấm to và năng suất cao, nhưng lại dễ bị sâu bệnh và 
cạn kiệt nguồn gỗ. 
¾ Trồng trên gỗ khúc: Ưu điểm của cách trồng này là có được tai nấm to, 
chắc, gần với thiên nhiên, nhược điểm là cho một chu kì sản xuất dài (1 năm) ngoài 
ra vì trồng bằng thân gỗ nên không thể bổ sung những chất dinh dưỡng cần thiết 
cho quá trình sinh trưởng và phát triển của nấm. 
¾ Trồng bằng mạt cưa gỗ: Ưu điểm của phương pháp này là tận dụng được 
rất nhiều phế liệu, phụ phẩm của nông, lâm nghiệp, chu kì sản xuất ngắn hơn, chỉ từ 
 3
4 đến 6 tháng tuỳ chủng loại nấm, do đó vòng quay nhanh. Có thể phối trộn đầy đủ 
các chất dinh dưỡng cần thiết vào cơ chất, kể cả bổ sung các nguyên tố khóang như 
selenium, germanium… Trên cùng một diện tích sẽ cho sản lượng cao vì đặt trên 
kệ. Không lệ thuộc lắm vào thời tiết, khí hậu nhưng tai nấm chỉ nặng khoảng từ 
25 g đến 60 g, không có những tai nấm to. 
Ở Việt Nam, nấm Linh chi được nuôi trồng bằng mạt cưa cao su và một số 
thành phần phế liệu của nông nghiệp. Phương pháp trồng phổ biến là sử dụng túi 
nhựa 1,2 - 1,5 kg. Quá trình nuôi ủ và tưới đón nấm được thực hiện trên các kệ và 
dây treo. Ngoài việc tránh nguồn bệnh từ đất, còn tăng được diện tích nuôi trồng. 
Nếu chỉ tính riêng Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay tổng sản lượng nấm Linh chi 
nuôi trồng từ 20 - 25 tấn khô/năm. 
1.1.2. Những nghiên cứu về nấm Linh chi [6], [12], [23], [27], [31] 
1.1.2.1. Nghiên cứu về hóa học 
Các nghiên cứu về hóa học nấm Linh chi đầu tiên được tiến hành vào đầu thế 
kỷ 20, khi các nhà khoa học quan tâm đến lớp vỏ láng của nấm và đã phát hiện các 
chất như ergosterol, các enzym phenoloxidase và peroxidase. 
Thành phần hóa học của Ganoderma lucidum gồm các chất: lignin (13 - 14 %), 
hợp chất nitơ (1,6 - 2,1 %), hợp chất phenol (0,1 %), chất béo (2 %), hợp chất steroid 
(0,11 - 0,16 %), chất khử (4 - 5 %), cellulose (54 - 56 %), các nguyên tố vô cơ như: Ag, 
Br, Ca, Fe, K, Na, Mg, Mn, Zn, Bi… Hai nguyên tố quan trọng nhất là selenium 
và germanium. 
Cho đến nay đã thống kê được hàng trăm hợp chất hữu cơ có chứa trong nấm 
Ganoderma lucidum như: terpenoid, acid amin, alcaloid, polysaccharid, nguyên tố 
vi và đa lượng. Gần đây bằng phương pháp kích hoạt phóng xạ, đã xác định được 
90 nguyên tố hóa học trong nấm Linh chi. 
 4
Bảng 1.1. Thành phần hóa học của nấm Linh chi [27] 
 Nhóm chất Chất 
Heteroglucan PL1, PL2 
Polysaccharid 
Homoglucan PL3 
Terpenoid và 
steroid 
24-Methylcholesta-7,22-dien-3β-ol 
24-Methylcholesta-5,7,22-dien-3β-ol ergosterol 
24-Methylcholesta-7-en-3β-ol ergosterol 
Ergosterol 
Ergosta-7,22-dien-3β-yl palmitate 
Ergosta-7,22-dien-3β-yl linoleate 
Ergosta-7,22-dien-3β-yl pentadecanoate 
Ergosta-7-dien-3β-yl linoleate 
Triterpenoid ester 
Ganoderic acid A, B, H 
Ganoderic acid methyl ester 
Ganoderic acid V1 (24E)-3β,20ξ−dihydroxy-7,11,15-trioxo-5α-
lanosta-8,24-dien-26-oic acid 
Triterpenoid 
Ganoderma acid T, S, R, P,Q,0 
Ganoderemic D 
Ganoderiol A, B, F 
Ganodermanontriol 
Cervisterol 
Polyoxygenate 
lanostanoid 
triterpen 
Lanosta-7,9(11),24-trien-3β,15α−dihydroxy-26-oic acid 
Lanosta-7,9(11),24-trien-3β,22α−diacetoxy−15α−dihydroxy-26-
oic acid 
Lanosta-7,9(11),24-trien-15α ,22α−diacetoxy−3β−dihydroxy-26-
oic acid 
Peptidoglycan Ganoderan B, C 
Protein Lingzhi - 8 
Acid béo Oleic acid 
 5
1.1.2.2. Nghiên cứu về tác dụng sinh học 
Bảng 1.2. Thành phần các chất có hoạt tính ở Linh chi 
Nhóm chất Chất Hoạt tính 
Alcaloid Trợ tim 
Polysaccharid β-D-glucan 
Ganoderan A, B, C 
D- 6 
Chống ung thư, tăng tính miễn dịch 
Hạ đường huyết 
Tăng tổng hợp protein, tăng chuyển hóa acid 
nucleic 
Steroid Ganodosteron 
Lanosporeric acid A 
Lanosterol 
Giải độc gan 
Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol 
Triterpenoid 
Ganodermic acid 
Mf,T-O 
Ganodermic acid R, 
S 
Ganoderic acid 
B,D,F,H, K,S,Y... 
Ganodermadiol 
Ganosporelacton A, 
B 
Lucidon A 
Lucidol 
Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol 
Ức chế giải phóng Histamin 
Hạ huyết áp, ức chế ACE 
Chống khối u 
Bảo vệ gan 
Nucleosid Adenosin dẫn xuất Ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn cơ, giảm đau 
Protein Lingzhi – 8 Chống dị ứng phổ rộng, điều hoà miễn dịch 
Acid béo Oleic acid Ức chế giải phóng Histamin 
Hai nhóm được quan tâm nhiều nhất của Linh chi là polysaccharid và 
triterpenoid. 
 6
¾ Trong số các thành phần hóa học của nấm Linh chi nuôi trồng, 
polysacchardid và polysaccharid liên kết protein được nghiên cứu nhiều nhất. 
Chúng có tác dụng tăng cường miễn dịch, diệt tế bào khối u thông qua kích hoạt các 
tế bào miễn dịch. Đó là các polysaccharid như hetero-β-D-glucan có chứa các mạch 
nhánh 1-3,1-6-β-D-glucan; glucurono-β-D-glucan; arabinoxylo-β-D-glucan; xylo-β-
D-glucan; mano-β-D-glucan và các polysaccharid liên kết protein như: Glucoxylan-
protein; galactoxyloglucan-protein; glucogalactan-protein; ganoderan B, C và 
glucoprotein. [6] 
• Polysaccharid gồm 2 loại chính : 
GL-A: Gal: Glu: Rham: Xyl (3,2: 2,7: 1,8; 1,0) M= 23.000 Da 
GL-B: Glu: Rham: Xyl (6,8: 2,0: 1,0) M= 25.000 Da 
GL-A có thành phần chính là Gal, nên gọi là Galactan, còn GL-B có thành 
phần chính là Glu, nên gọi là Glucan. 
1-3-β-D-glucan, khi phức hợp với một protein, có tác dụng chống ung thư rõ 
rệt (Kishida & al., 1988). 
• Polysaccharid có nguồn gốc từ Linh chi dùng điều trị ung thư đã được công 
nhận sáng chế ở Nhật. Năm 1976, công ty Kureha Chemical Industry sản xuất chế 
phẩm trích từ Linh chi có tác dụng kháng các tác nhân gây ung thư. Năm 1982, 
công ty Teikoko Chemical Industry sản xuất sản phẩm từ Linh chi có gốc 
glucoprotein làm chất ức chế sự tăng sản tế bào ung thư. Bằng sáng chế Mỹ 
4051314, do Ohtsuka & al. (1977), sản xuất từ Linh chi chất mucopolysaccharid 
dùng chống ung thư. 
¾ Triterpenoid đặc biệt là acid ganoderic có tác dụng chống dị ứng, ức chế sự 
giải phóng histamin, tăng cường sử dụng oxy và cải thiện chức năng gan. Hiện nay, 
đã tìm thấy trên 80 dẫn xuất từ acid ganoderic. Trong đó ganodosteron được xem là 
chất kích thích hoạt động của gan và bảo vệ gan. 
 7
Theo B. K. Kim, H. W. Kim & E. C. Choi (1994), dịch chiết nước và methanol của 
quả thể Linh chi ức chế sự nhân lên của virus. Hiệu quả cũng nhận thấy trên tế bào 
lympho T của người nhiễm HIV-1. Phân đoạn hỗn hợp methanol kháng virus rất mạnh. 
Các phân đoạn khác, như hexan, etyl acetat, trung tính, kiềm... đều có tác dụng kháng 
virus tốt. 
Phân tích thành phần nguyên tố của nấm Linh chi, còn phát hiện thấy có rất 
nhiều nguyên tố (khoảng 40), trong đó phải kể đến germanium. Germanium có liên 
quan chặt chẽ với hiệu quả lưu thông khí huyết, tăng cường vận chuyển oxy vào 
mô, đặc biệt là giảm bớt đau đớn cho người bị ung thư ở giai đoạn cuối 
¾ Protein: Ling Zhi (LZ)-8 là một protein được phân lập từ G. lucidum, có cấu 
trúc giống vùng thay đổi trên chuỗi nặng của phân tử Ig về trình tự và cấu trúc dự 
đoán thứ 2. Hoạt tính sinh học của LZ-8 giống như lectin, tăng khả năng phân bào 
của tế bào lá lách chuột và tế bào lympho ngoại biên ở người và gây ngưng kết tế 
bào hồng cầu cừu in vitro. 
¾ Steroid: Ergosterol (tiền vitamin D2) được báo cáo là có khoảng 0,3 - 0,4 % 
trong Linh chi. Thử nghiệm lại xác định thành phần chính của steroid là 24-
methylcholesta-7, 22-dien-3,6-ol. Ergosterol và 24-methylcholesta-7, 22-dien-3,6-ol 
là thành phần phụ. Hiện nay ganodesterone vẫn đang được phân lập.[23] 
1.1.2.3. Nghiên cứu tác dụng dược lý lâm sàng 
Nấm Linh chi được sử dụng như một dược liệu quý, để chữa trị nhiều bệnh. 
Cho đến nay, kết quả nghiên cứu dược lý học hiện đại cho thấy, Linh chi có tác 
dụng dược lý khá phong phú: 
- Có khả năng tiêu trừ các gốc tự do, trợ giúp men superoxyd dismutase để khử 
độc tính của các gốc superoxyd. 
- Ổn định và cải thiện chức năng sinh lý của màng tế bào, tăng cường năng lực 
tổng hợp DNA, RNA và protein. 
- Nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, đặc biệt là hệ thống miễn dịch tế bào, 
làm tăng sức đề kháng, chống lão hóa và kéo dài tuổi thọ. 
 8
- Cải thiện năng lực cung ứng oxy của huyết dịch, hạ thấp lượng oxy tiêu hao 
của tổ chức trong trạng thái nghỉ ngơi. 
- Làm giảm độ nhớt của máu, tăng sức co bóp cơ tim, tăng lưu lượng tuần hoàn động 
mạch vành tim và động mạch não, có tác dụng điều chỉnh nhịp tim và làm hạ huyết áp. 
- Làm giảm đường huyết và điều chỉnh rối loạn lipid máu. 
- Có khả năng giải độc, bảo vệ tế bào gan, chống ung thư, chống ảnh hưởng độc 
hại của tia phóng xạ và các chất độc đối với cơ thể. 
1.2. Giới thiệu về nấm Vân chi Trametes versicolor [8], [17], [18], [19], 
[20], [22] 
1.2.1. Giới thiệu tổng quát 
1.2.1.1. Phân loại 
Phân loại khoa học Giới: Nấm 
Ngành: Basidiomycota 
Lớp: Hymenomycetes 
Bộ: Aphyllophorales 
Họ: Polyporaceae 
Loài: Trametes versicolor 
1.2.1.2. Phân bố 
Nấm Vân chi phân bố hầu khắp thế giới. Được tìm thấy nhiều ở các vùng rừng 
ôn đới ở Bắc Mỹ, ở châu Á và châu Âu 
1.2.1.3. Hình thái quả thể [8] 
Nấm Vân chi là nấm hàng năm, đây là loại nấm gây mục trắng (white rot 
fungi), chất da-hóa gỗ. Mặt trên tán phủ lông dày, mịn, rất biến đổi về màu sắc. 
Thường thể quả chồng chất xen kẽ nhau như ngói lợp. Mặt tán nấm có nhiều vòng 
 9
đồng tâm màu sắc từ vàng xám, xanh xám, xám nâu, xám đen, xanh đen, nâu đen. 
Kích thước thay đổi với đường kính tán trung bình cỡ 2 – 7 cm, dày cỡ 2,5 - 4 mm. 
Thịt nấm mỏng, màu kem hơi vàng, dày 0,6 - 2,5 mm, trên lát cắt hiển vi thấy rõ lớp 
sắc tố đen-xanh đặc trưng bên dưới lớp lông. Tiếp xuống dưới là lớp bào tầng gồm 
các ống nấm dài cỡ 0,6 -1,8 mm, miệng ống tròn xẻ răng cưa, đôi khi có dạng 
nhiều góc, có các gờ nổi gân, có 3 - 7 ống/mm, bề mặt phủ lớp lông tơ rất mịn với 
đảm và bào tử dày đặc, màu trắng kem hơi vàng. Mặt dưới của nấm màu trắng, có 
hàng ngàn lỗ nhỏ thay vì vách tia . 
Hình 1.2. Hình thái nấm Vân chi 
1.2.1.4. Cách nuôi cấy và nhân giống 
Trồng nấm Vân chi trên các túi màng mỏng chứa một trong các môi trường 
sau đây : 
- Mùn cưa 78 %, cám gạo 20 %, đường cát 1 %, bột thạch cao 1%. 
- Mùn cưa 40 %, bã mía 40 %, rơm nghiền 20 %. 
- Thân sắn (khoai mỳ) nghiền nhỏ 80 %, bột thạch cao 20 %. 
Trộn các nguyên liệu này với nước để có độ ẩm khoảng 60 %. Cho vào túi 
màng mỏng PP loại dày khoảng 5 mm, kích thước 17 x 33cm hay 25 x 35cm. Mỗi 
túi đựng khoảng 250 - 300 g nguyên liệu. Khử trùng bằng hơi nước sôi như khi luộc 
bánh chưng, thường hấp trong 10 giờ, sau đó để qua đêm cho nguội hẳn mới lấy các 
bịch này ra. 
 10
Đưa vào phòng cấy giống, mở nút bông ra và cấy giống bằng thao tác vô 
trùng với thìa sắt hơ trên ngọn lửa đèn cồn. Lượng giống cấy thường từ 0,7 - 1 % 
so với nguyên liệu. Để giống cấy được sâu vào trong túi nên chuẩn bị một cái dùi 
gỗ để có thể tạo ra một hình phễu khi ấn mạnh vào giữa khối nguyên liệu từ 
trên xuống. 
Đậy nút bông lại và xếp các túi lên giá hay treo nối tiếp nhau 
Đợi đến khi sợi nấm mọc trắng hết bịch thì chuẩn bị rạch túi để nấm Vân chi 
mọc ra. Điều kiện tốt nhất để sợi nấm mọc nhanh là giữ nhiệt độ phòng trong phạm 
vi 19 – 25 0C. 
1.2.2. Những nghiên cứu về nấm Vân chi 
1.2.2.1. Nghiên cứu về hóa học [20] 
Các thành phần hóa học chính: 
- Polysaccharopeptid Krestin (PSK) 
- Polysaccharopeptid (PSP) 
- Triterpenoid 
Trong các nấm dùng làm dược liệu, polysaccharopeptid thu nhận từ nấm 
Vân chi được thương mại hóa nhiều nhất. 
Những polysaccharopeptid của nấm Vân chi có giá trị thương mại được 
biết nhiều nhất là polysaccharopeptid Krestin (PSK) và polysaccharopeptid 
(PSP).Cả hai sản phẩm này đều được ly trích từ hệ sợi của nấm Vân chi. PSK 
thương mại được tạo ra từ hệ sợi của chủng CM-101 và PSP thương mại từ chủng 
Cov-1 của nấm Vân chi. Cả hai chất đều thu nhận từ sự lên men mẻ. 
PSK được tách chiết lần đầu tiên ở Nhật Bản vào cuối thập kỷ 60, trong khi 
đó PSP được phân lập tại Trung Quốc vào năm 1983. 
 11
Về tính chất vật lý, PSK và PSP thông thường tồn tại ở dạng bột màu nâu 
sẫm hoặc nâu sáng, không mùi vị, tan và bền trong nước nóng nhưng không tan 
trong các dung môi như methanol, benzen, pyridin, clorofom và hexan. Các 
polysaccharid này có khả năng chống chịu với tác dụng của các enzym thuỷ 
phân protein. 
PSK và PSP có cấu trúc hóa học cũng như các tính chất sinh lý học khá 
tương đồng. Chúng đều là những hỗn hợp của các chuỗi đường liên kết với một số 
protein. Cả hai đều có trọng lượng phân tử khoảng 100 kDa. Thành phần polypeptid 
của chúng có chứa một lượng lớn axit aspartic và axit glutamic. Thành phần 
polysaccharid của cả PSK và PSP đều được kết cấu bởi các mạch đường đơn 
monosaccharid được liên kết với nhau bởi các cầu nối α-(1-4) và β-(1-3) glucosid. 
PSK và PSP khác nhau chủ yếu ở chỗ PSK có chứa đường fucose và PSP 
chứa đường rhamnose và arabinose. Ngoài ra cả hai còn chứa galactose, mannose 
và xylose. 
1.2.2.2. Nghiên cứu tác dụng sinh học [17], [18], [19], [20], [22] 
Trong y học cổ truyền của Trung Quốc và Nhật Bản, thân nấm Vân chi được 
thu hái, phơi khô, tán thành bột và chế biến thành trà. 
 Trong y học cổ truyền, hoạt chất chiết xuất từ nước nóng của nấm được 
dùng để trừ thấp, tiêu nhọt, bổ phế và tăng lực. Trong cuốn y thư xuất bản dưới triều 
Minh có ghi: Nấm Vân chi màu đen và xanh lục có tác dụng dưỡng thần, tăng sức, 
mạnh gân cốt. Nếu dùng Vân chi trong thời gian dài sẽ làm tăng sức khỏe và 
tuổi thọ. 
Đặc tính chữa bệnh của các dịch chiết từ nấm Vân chi rất được các nhà khoa 
học Nhật và Trung Quốc quan tâm, và vì thế việc nghiên cứu về khả năng trị bệnh 
của các dịch chiết này được tiến hành trên diện rộng. 
Một vài tác dụng chính của polysaccharopeptid nấm Vân chi như là: 
 + Tác dụng tăng cường miễn dịch 
 12
 + Tác dụng điều trị ung thư 
 + Tác dụng chuyển hóa sinh học các chất phế thải 
¾ Tác dụng tăng cường miễn dịch và điều trị ung thư 
Polysaccharopeptid nấm Vân chi có tiềm năng miễn dịch bằng cách cảm 
ứng sự sản xuất của interleukin-6, interferons, immunoglobulin-G, đại thực bào và 
tế bào lympho T. Nó có tác dụng chống lại sự ức chế miễn dịch do hóa trị và xạ 
trị gây nên và đối kháng lại với sự ức chế miễn dịch do khối u gây ra. [20] 
Một vài thử nghiệm đã chứng minh rằng PSK có tiềm năng rất lớn trong liệu 
pháp điều trị ung thư bằng tá dược, có kết quả với những bệnh ung thư như dạ dày, 
thực quản, vú và phổi. Và trong những thực nghiệm này cũng cho thấy PSK đóng 
vai trò như là chất điều biến miễn dịch. Cơ chế phân tử cụ thể tạo ra hoạt tính sinh 
học của PSK vẫn chưa được giải thích một cách đầy đủ. [19] 
Thử nghiệm để khảo sát tác động trực tiếp in vitro của PSK trên sự tăng sinh 
của các dòng tế bào ung thư được tiến hành và tác động của nó lên tế bào lympho 
máu ngoại vi người cũng được phân tích: PSK được ly trích từ dịch chiết nước nóng 
hệ sợi nuôi cấy của nấm Vân chi. Thử nghiệm tiến hành trên 7 dòng ung thư {B16 
(ung thư hắc sắc tố chuột), B9 (MCA-induced fibrosarcoma chuột), Ando-2 (ung 
thư hắc sắc tố người), AGS (ung thư dạ dày người), A-549 (ung thư phổi người), 
Hela (ung thư cổ tử cung người) và Jurkat T lymphoma leukemia}. NKL (NK cell 
line) được phân tách từ các tế bào lympho máu ngoại vi của một bệnh nhân bị mắc 
bệnh LGL leukemia. 
Kết quả thu được cho thấy PSK ức chế sự tăng sinh cúa các dòng tế bào ung 
thư từ 22 - 84 % so với đối chứng. Tỉ lệ ức chế sự tăng sinh của AGS (ung thư dạ 
dày người) là cao nhất (84 %), kế đó là A-549 (ung thư phổi người) là 80 %.Thấp 
nhất là 22 % ở dòng tế bào fibrosarcoma chuột (B9). Cơ chế của sự ức chế được xác 
định là do sự ngăn chặn chu trình tế bào (với sự tích lũy tế bào ở pha G0/G1, sự biểu 
hiện của caspase-3, tăng hiện tượng apoptosis ở tế bào). Những kết quả này cho 
 13
thấy PSK có hoạt tính gây độc tế bào trực tiếp in vitro, ức chế sự tăng sinh của tế 
bào ung thư. 
Các tế bào ung thư được xử lý với PSK cho thấy có sự thay đổi về hình thái (tế 
bào co lại, hình tròn, sự tạo các thể không bào nhỏ tăng lên) và một lượng lớn các tế 
bào bị bong tróc ra khỏi bề mặt dụng cụ nuôi cấy. Thử nghiệm này cho thấy PSK cảm 
ứng apoptosis ở dòng tế bào AGS (ung thư dạ dày người), nhưng không phải trên tất 
cả các dòng tế bào ung thư đem phân tích, và cảm ứng sự biểu hiện của caspase-3 
trên một vài dòng tế bào ung thư nhưng không phải là tất cả. Những kết quả này 
chứng tỏ rằng PSK có thể gây ra hoạt tính độc tế bào bởi những cơ chế phân tử khác. 
Kết quả của thực nghiệm cho thấy rằng đặc tính chống khối u của PSK có thể mang 2 
đặc tính sinh học kép: hoạt tính gây độc tế bào trực tiếp lên tế bào ung thư và hoạt 
tính điều biến miễn dịch gây ra sự hoạt hóa các tế bào NK (Natural killer cell, tế bào 
diệt tự nhiên) một cách mạnh mẽ và gián tiếp thông qua tế bào NK để tiêu diệt khối u. 
Trong thử nghiệm cũng cho thấy PSK có tác động hiệp trợ với IL-2 cảm ứng sự 
tăng sinh của các tế bào máu ngoại vi. PSK có vai trò tương tự như IL-2 trong việc 
cảm ứng sự tăng sinh và hoạt tính của tế bào NKL. Do đó, PSK có tác động độc tế 
bào trên tế bào ung thư và tác động nguyên phân trên tế bào lympho và tế 
bào NK. [19] 
Trong một nghiên cứu khác về hoạt tính chống ung thư của nấm Vân chi, 
dịch chiết ethanol - nước (thành phần chính trong dịch chiết là các polysacharid và 
triterpenoid) của nấm Vân chi mọc hoang dại được thử nghiệm trên 3 dòng tế bào: 
2 dòng tế bào promyelocytic leukemia người (HL-60, NB-4) và dòng B-cell 
lymphoma (Raji). Kết quả nghiên cứu cho thấy, với sự phụ thuộc liều sử dụng, dịch 
chiết có tác động ức chế rất rõ sự tăng sinh trên cả 3 dòng tế bào HL-60, NB-4 và 
Raji, bằng sự cảm ứng apoptosis. Tuy nhiên, dịch chiết không thể hiện tính độc tế 
bào trên dòng tế bào gan bình thường (WLR) trong cùng thử nghiệm. Ngược lại, 
nhóm nghiên cứu thấy rằng, mitomycin C (MMC) - một thuốc chống ung thư gây 
ức chế ít nhất là 90% sự phát triển trên tất cả các dòng tế bào mà không có sự chọn 
lọc, kể cả dòng tế bào gan bình thường (WLR). Những kết quả này cho thấy, khi so 
 14
sánh với việc sử dụng thuốc chống ung thư hóa học thông thường, việc sử dụng 
dịch chiết nấm Vân chi (mặc dù với liều lượng cao hơn) vừa có tác dụng diệt khối u 
vừa lại k