Giới thiệu về nấm Linh chi Ganoderma lucidum

Về Lâm nghiệp, nấm Linh chi là một trong những loại nấm phá gỗ, đặc biệt trên các cây thuộc bộ Đậu (Fabales). Nấm xuất hiện nhiều vào mùa mưa, trên thân cây hoặc gốc cây. Có những loài đa niên, tai nấm phát triển qua nhiều năm, và những loài hằng niên, tai nấm chỉ phát triển qua một mùa. Nấm Linh chi có ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong thiên nhiên, nấm này thường chỉcó nơi rừng rậm, ít ánh sáng và độ ẩm cao.

pdf22 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4393 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giới thiệu về nấm Linh chi Ganoderma lucidum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giới thiệu về nấm Linh chi Ganoderma lucidum 1.1.1. Giới thiệu tổng quát [6][, [12], [28] 1.1.1.1. Phân loại Tên gọi: Nấm Linh chi, nấm lim, nấm trường thọ,.. Tên khoa học: Ganoderma lucidum Phân loại khoa học Giới: Nấm Ngành: Nấm đảm Lớp: Agaricomycetes Bộ: Polyporales Họ: Ganodermataceae (Nấm gỗ) Giống: Ganoderma Loài: Ganoderma lucidum 1.1.1.2. Phân bố Về Lâm nghiệp, nấm Linh chi là một trong những loại nấm phá gỗ, đặc biệt trên các cây thuộc bộ Đậu (Fabales). Nấm xuất hiện nhiều vào mùa mưa, trên thân cây hoặc gốc cây. Có những loài đa niên, tai nấm phát triển qua nhiều năm, và những loài hằng niên, tai nấm chỉ phát triển qua một mùa. Nấm Linh chi có ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong thiên nhiên, nấm này thường chỉ có nơi rừng rậm, ít ánh sáng và độ ẩm cao. 1.1.1.3. Hình thái quả thể Nấm Linh chi có chung một đặc điểm là tai nấm hóa gỗ; mũ xoè tròn, bầu dục hoặc hình thận; có cuống ngắn hoặc dài hay không cuống. Mặt trên mũ có vân đồng tâm và được phủ bởi lớp sắc tố bóng láng như verni. Mặt dưới phẳng, màu trắng 2 hoặc vàng; có nhiều lỗ li ti, là nơi hình thành và phóng thích bào tử nấm. Bào tử nấm dạng trứng cụt với hai lớp vỏ, giữa hai lớp vỏ có nhiều gai nhọn nối từ trong ra ngoài. Hình 1.1. Hình thái quả thể nấm Linh chi 1.1.1.4. Cách nuôi cấy và nhân giống Việc nuôi trồng nấm Linh chi được ghi nhận từ 1621 (theo Wang X.J.), nhưng để nuôi trồng công nghiệp bắt đầu từ 1936, với thành công của GS Dật Kiến Vũ Hưng (Nhật). Năm 1971, Naoi Y. nuôi trồng tạo được quả thể trên nguyên liệu là mạt cưa. Năm 1979, sản lượng nấm khô ở Nhật đạt 5 tấn/ năm, năm 1995, sản lượng lên gần 200 tấn/ năm. Như vậy, trong vòng 16 năm, sản lượng nấm Linh chi của Nhật đã tăng gấp 40 lần. Qui trình nuôi trồng ở Nhật sử dụng chủ yếu là gỗ khúc và phủ đất, nên cho tai nấm to và năng suất cao, nhưng lại dễ bị sâu bệnh và cạn kiệt nguồn gỗ. ¾ Trồng trên gỗ khúc: Ưu điểm của cách trồng này là có được tai nấm to, chắc, gần với thiên nhiên, nhược điểm là cho một chu kì sản xuất dài (1 năm) ngoài ra vì trồng bằng thân gỗ nên không thể bổ sung những chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình sinh trưởng và phát triển của nấm. ¾ Trồng bằng mạt cưa gỗ: Ưu điểm của phương pháp này là tận dụng được rất nhiều phế liệu, phụ phẩm của nông, lâm nghiệp, chu kì sản xuất ngắn hơn, chỉ từ 3 4 đến 6 tháng tuỳ chủng loại nấm, do đó vòng quay nhanh. Có thể phối trộn đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết vào cơ chất, kể cả bổ sung các nguyên tố khóang như selenium, germanium… Trên cùng một diện tích sẽ cho sản lượng cao vì đặt trên kệ. Không lệ thuộc lắm vào thời tiết, khí hậu nhưng tai nấm chỉ nặng khoảng từ 25 g đến 60 g, không có những tai nấm to. Ở Việt Nam, nấm Linh chi được nuôi trồng bằng mạt cưa cao su và một số thành phần phế liệu của nông nghiệp. Phương pháp trồng phổ biến là sử dụng túi nhựa 1,2 - 1,5 kg. Quá trình nuôi ủ và tưới đón nấm được thực hiện trên các kệ và dây treo. Ngoài việc tránh nguồn bệnh từ đất, còn tăng được diện tích nuôi trồng. Nếu chỉ tính riêng Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay tổng sản lượng nấm Linh chi nuôi trồng từ 20 - 25 tấn khô/năm. 1.1.2. Những nghiên cứu về nấm Linh chi [6], [12], [23], [27], [31] 1.1.2.1. Nghiên cứu về hóa học Các nghiên cứu về hóa học nấm Linh chi đầu tiên được tiến hành vào đầu thế kỷ 20, khi các nhà khoa học quan tâm đến lớp vỏ láng của nấm và đã phát hiện các chất như ergosterol, các enzym phenoloxidase và peroxidase. Thành phần hóa học của Ganoderma lucidum gồm các chất: lignin (13 - 14 %), hợp chất nitơ (1,6 - 2,1 %), hợp chất phenol (0,1 %), chất béo (2 %), hợp chất steroid (0,11 - 0,16 %), chất khử (4 - 5 %), cellulose (54 - 56 %), các nguyên tố vô cơ như: Ag, Br, Ca, Fe, K, Na, Mg, Mn, Zn, Bi… Hai nguyên tố quan trọng nhất là selenium và germanium. Cho đến nay đã thống kê được hàng trăm hợp chất hữu cơ có chứa trong nấm Ganoderma lucidum như: terpenoid, acid amin, alcaloid, polysaccharid, nguyên tố vi và đa lượng. Gần đây bằng phương pháp kích hoạt phóng xạ, đã xác định được 90 nguyên tố hóa học trong nấm Linh chi. 4 Bảng 1.1. Thành phần hóa học của nấm Linh chi [27] Nhóm chất Chất Heteroglucan PL1, PL2 Polysaccharid Homoglucan PL3 Terpenoid và steroid 24-Methylcholesta-7,22-dien-3β-ol 24-Methylcholesta-5,7,22-dien-3β-ol ergosterol 24-Methylcholesta-7-en-3β-ol ergosterol Ergosterol Ergosta-7,22-dien-3β-yl palmitate Ergosta-7,22-dien-3β-yl linoleate Ergosta-7,22-dien-3β-yl pentadecanoate Ergosta-7-dien-3β-yl linoleate Triterpenoid ester Ganoderic acid A, B, H Ganoderic acid methyl ester Ganoderic acid V1 (24E)-3β,20ξ−dihydroxy-7,11,15-trioxo-5α- lanosta-8,24-dien-26-oic acid Triterpenoid Ganoderma acid T, S, R, P,Q,0 Ganoderemic D Ganoderiol A, B, F Ganodermanontriol Cervisterol Polyoxygenate lanostanoid triterpen Lanosta-7,9(11),24-trien-3β,15α−dihydroxy-26-oic acid Lanosta-7,9(11),24-trien-3β,22α−diacetoxy−15α−dihydroxy-26- oic acid Lanosta-7,9(11),24-trien-15α ,22α−diacetoxy−3β−dihydroxy-26- oic acid Peptidoglycan Ganoderan B, C Protein Lingzhi - 8 Acid béo Oleic acid 5 1.1.2.2. Nghiên cứu về tác dụng sinh học Bảng 1.2. Thành phần các chất có hoạt tính ở Linh chi Nhóm chất Chất Hoạt tính Alcaloid Trợ tim Polysaccharid β-D-glucan Ganoderan A, B, C D- 6 Chống ung thư, tăng tính miễn dịch Hạ đường huyết Tăng tổng hợp protein, tăng chuyển hóa acid nucleic Steroid Ganodosteron Lanosporeric acid A Lanosterol Giải độc gan Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol Triterpenoid Ganodermic acid Mf,T-O Ganodermic acid R, S Ganoderic acid B,D,F,H, K,S,Y... Ganodermadiol Ganosporelacton A, B Lucidon A Lucidol Ức chế sinh tổng hợp Cholesterol Ức chế giải phóng Histamin Hạ huyết áp, ức chế ACE Chống khối u Bảo vệ gan Nucleosid Adenosin dẫn xuất Ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn cơ, giảm đau Protein Lingzhi – 8 Chống dị ứng phổ rộng, điều hoà miễn dịch Acid béo Oleic acid Ức chế giải phóng Histamin Hai nhóm được quan tâm nhiều nhất của Linh chi là polysaccharid và triterpenoid. 6 ¾ Trong số các thành phần hóa học của nấm Linh chi nuôi trồng, polysacchardid và polysaccharid liên kết protein được nghiên cứu nhiều nhất. Chúng có tác dụng tăng cường miễn dịch, diệt tế bào khối u thông qua kích hoạt các tế bào miễn dịch. Đó là các polysaccharid như hetero-β-D-glucan có chứa các mạch nhánh 1-3,1-6-β-D-glucan; glucurono-β-D-glucan; arabinoxylo-β-D-glucan; xylo-β- D-glucan; mano-β-D-glucan và các polysaccharid liên kết protein như: Glucoxylan- protein; galactoxyloglucan-protein; glucogalactan-protein; ganoderan B, C và glucoprotein. [6] • Polysaccharid gồm 2 loại chính : GL-A: Gal: Glu: Rham: Xyl (3,2: 2,7: 1,8; 1,0) M= 23.000 Da GL-B: Glu: Rham: Xyl (6,8: 2,0: 1,0) M= 25.000 Da GL-A có thành phần chính là Gal, nên gọi là Galactan, còn GL-B có thành phần chính là Glu, nên gọi là Glucan. 1-3-β-D-glucan, khi phức hợp với một protein, có tác dụng chống ung thư rõ rệt (Kishida & al., 1988). • Polysaccharid có nguồn gốc từ Linh chi dùng điều trị ung thư đã được công nhận sáng chế ở Nhật. Năm 1976, công ty Kureha Chemical Industry sản xuất chế phẩm trích từ Linh chi có tác dụng kháng các tác nhân gây ung thư. Năm 1982, công ty Teikoko Chemical Industry sản xuất sản phẩm từ Linh chi có gốc glucoprotein làm chất ức chế sự tăng sản tế bào ung thư. Bằng sáng chế Mỹ 4051314, do Ohtsuka & al. (1977), sản xuất từ Linh chi chất mucopolysaccharid dùng chống ung thư. ¾ Triterpenoid đặc biệt là acid ganoderic có tác dụng chống dị ứng, ức chế sự giải phóng histamin, tăng cường sử dụng oxy và cải thiện chức năng gan. Hiện nay, đã tìm thấy trên 80 dẫn xuất từ acid ganoderic. Trong đó ganodosteron được xem là chất kích thích hoạt động của gan và bảo vệ gan. 7 Theo B. K. Kim, H. W. Kim & E. C. Choi (1994), dịch chiết nước và methanol của quả thể Linh chi ức chế sự nhân lên của virus. Hiệu quả cũng nhận thấy trên tế bào lympho T của người nhiễm HIV-1. Phân đoạn hỗn hợp methanol kháng virus rất mạnh. Các phân đoạn khác, như hexan, etyl acetat, trung tính, kiềm... đều có tác dụng kháng virus tốt. Phân tích thành phần nguyên tố của nấm Linh chi, còn phát hiện thấy có rất nhiều nguyên tố (khoảng 40), trong đó phải kể đến germanium. Germanium có liên quan chặt chẽ với hiệu quả lưu thông khí huyết, tăng cường vận chuyển oxy vào mô, đặc biệt là giảm bớt đau đớn cho người bị ung thư ở giai đoạn cuối ¾ Protein: Ling Zhi (LZ)-8 là một protein được phân lập từ G. lucidum, có cấu trúc giống vùng thay đổi trên chuỗi nặng của phân tử Ig về trình tự và cấu trúc dự đoán thứ 2. Hoạt tính sinh học của LZ-8 giống như lectin, tăng khả năng phân bào của tế bào lá lách chuột và tế bào lympho ngoại biên ở người và gây ngưng kết tế bào hồng cầu cừu in vitro. ¾ Steroid: Ergosterol (tiền vitamin D2) được báo cáo là có khoảng 0,3 - 0,4 % trong Linh chi. Thử nghiệm lại xác định thành phần chính của steroid là 24- methylcholesta-7, 22-dien-3,6-ol. Ergosterol và 24-methylcholesta-7, 22-dien-3,6-ol là thành phần phụ. Hiện nay ganodesterone vẫn đang được phân lập.[23] 1.1.2.3. Nghiên cứu tác dụng dược lý lâm sàng Nấm Linh chi được sử dụng như một dược liệu quý, để chữa trị nhiều bệnh. Cho đến nay, kết quả nghiên cứu dược lý học hiện đại cho thấy, Linh chi có tác dụng dược lý khá phong phú: - Có khả năng tiêu trừ các gốc tự do, trợ giúp men superoxyd dismutase để khử độc tính của các gốc superoxyd. - Ổn định và cải thiện chức năng sinh lý của màng tế bào, tăng cường năng lực tổng hợp DNA, RNA và protein. - Nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, đặc biệt là hệ thống miễn dịch tế bào, làm tăng sức đề kháng, chống lão hóa và kéo dài tuổi thọ. 8 - Cải thiện năng lực cung ứng oxy của huyết dịch, hạ thấp lượng oxy tiêu hao của tổ chức trong trạng thái nghỉ ngơi. - Làm giảm độ nhớt của máu, tăng sức co bóp cơ tim, tăng lưu lượng tuần hoàn động mạch vành tim và động mạch não, có tác dụng điều chỉnh nhịp tim và làm hạ huyết áp. - Làm giảm đường huyết và điều chỉnh rối loạn lipid máu. - Có khả năng giải độc, bảo vệ tế bào gan, chống ung thư, chống ảnh hưởng độc hại của tia phóng xạ và các chất độc đối với cơ thể. 1.2. Giới thiệu về nấm Vân chi Trametes versicolor [8], [17], [18], [19], [20], [22] 1.2.1. Giới thiệu tổng quát 1.2.1.1. Phân loại Phân loại khoa học Giới: Nấm Ngành: Basidiomycota Lớp: Hymenomycetes Bộ: Aphyllophorales Họ: Polyporaceae Loài: Trametes versicolor 1.2.1.2. Phân bố Nấm Vân chi phân bố hầu khắp thế giới. Được tìm thấy nhiều ở các vùng rừng ôn đới ở Bắc Mỹ, ở châu Á và châu Âu 1.2.1.3. Hình thái quả thể [8] Nấm Vân chi là nấm hàng năm, đây là loại nấm gây mục trắng (white rot fungi), chất da-hóa gỗ. Mặt trên tán phủ lông dày, mịn, rất biến đổi về màu sắc. Thường thể quả chồng chất xen kẽ nhau như ngói lợp. Mặt tán nấm có nhiều vòng 9 đồng tâm màu sắc từ vàng xám, xanh xám, xám nâu, xám đen, xanh đen, nâu đen. Kích thước thay đổi với đường kính tán trung bình cỡ 2 – 7 cm, dày cỡ 2,5 - 4 mm. Thịt nấm mỏng, màu kem hơi vàng, dày 0,6 - 2,5 mm, trên lát cắt hiển vi thấy rõ lớp sắc tố đen-xanh đặc trưng bên dưới lớp lông. Tiếp xuống dưới là lớp bào tầng gồm các ống nấm dài cỡ 0,6 -1,8 mm, miệng ống tròn xẻ răng cưa, đôi khi có dạng nhiều góc, có các gờ nổi gân, có 3 - 7 ống/mm, bề mặt phủ lớp lông tơ rất mịn với đảm và bào tử dày đặc, màu trắng kem hơi vàng. Mặt dưới của nấm màu trắng, có hàng ngàn lỗ nhỏ thay vì vách tia . Hình 1.2. Hình thái nấm Vân chi 1.2.1.4. Cách nuôi cấy và nhân giống Trồng nấm Vân chi trên các túi màng mỏng chứa một trong các môi trường sau đây : - Mùn cưa 78 %, cám gạo 20 %, đường cát 1 %, bột thạch cao 1%. - Mùn cưa 40 %, bã mía 40 %, rơm nghiền 20 %. - Thân sắn (khoai mỳ) nghiền nhỏ 80 %, bột thạch cao 20 %. Trộn các nguyên liệu này với nước để có độ ẩm khoảng 60 %. Cho vào túi màng mỏng PP loại dày khoảng 5 mm, kích thước 17 x 33cm hay 25 x 35cm. Mỗi túi đựng khoảng 250 - 300 g nguyên liệu. Khử trùng bằng hơi nước sôi như khi luộc bánh chưng, thường hấp trong 10 giờ, sau đó để qua đêm cho nguội hẳn mới lấy các bịch này ra. 10 Đưa vào phòng cấy giống, mở nút bông ra và cấy giống bằng thao tác vô trùng với thìa sắt hơ trên ngọn lửa đèn cồn. Lượng giống cấy thường từ 0,7 - 1 % so với nguyên liệu. Để giống cấy được sâu vào trong túi nên chuẩn bị một cái dùi gỗ để có thể tạo ra một hình phễu khi ấn mạnh vào giữa khối nguyên liệu từ trên xuống. Đậy nút bông lại và xếp các túi lên giá hay treo nối tiếp nhau Đợi đến khi sợi nấm mọc trắng hết bịch thì chuẩn bị rạch túi để nấm Vân chi mọc ra. Điều kiện tốt nhất để sợi nấm mọc nhanh là giữ nhiệt độ phòng trong phạm vi 19 – 25 0C. 1.2.2. Những nghiên cứu về nấm Vân chi 1.2.2.1. Nghiên cứu về hóa học [20] Các thành phần hóa học chính: - Polysaccharopeptid Krestin (PSK) - Polysaccharopeptid (PSP) - Triterpenoid Trong các nấm dùng làm dược liệu, polysaccharopeptid thu nhận từ nấm Vân chi được thương mại hóa nhiều nhất. Những polysaccharopeptid của nấm Vân chi có giá trị thương mại được biết nhiều nhất là polysaccharopeptid Krestin (PSK) và polysaccharopeptid (PSP).Cả hai sản phẩm này đều được ly trích từ hệ sợi của nấm Vân chi. PSK thương mại được tạo ra từ hệ sợi của chủng CM-101 và PSP thương mại từ chủng Cov-1 của nấm Vân chi. Cả hai chất đều thu nhận từ sự lên men mẻ. PSK được tách chiết lần đầu tiên ở Nhật Bản vào cuối thập kỷ 60, trong khi đó PSP được phân lập tại Trung Quốc vào năm 1983. 11 Về tính chất vật lý, PSK và PSP thông thường tồn tại ở dạng bột màu nâu sẫm hoặc nâu sáng, không mùi vị, tan và bền trong nước nóng nhưng không tan trong các dung môi như methanol, benzen, pyridin, clorofom và hexan. Các polysaccharid này có khả năng chống chịu với tác dụng của các enzym thuỷ phân protein. PSK và PSP có cấu trúc hóa học cũng như các tính chất sinh lý học khá tương đồng. Chúng đều là những hỗn hợp của các chuỗi đường liên kết với một số protein. Cả hai đều có trọng lượng phân tử khoảng 100 kDa. Thành phần polypeptid của chúng có chứa một lượng lớn axit aspartic và axit glutamic. Thành phần polysaccharid của cả PSK và PSP đều được kết cấu bởi các mạch đường đơn monosaccharid được liên kết với nhau bởi các cầu nối α-(1-4) và β-(1-3) glucosid. PSK và PSP khác nhau chủ yếu ở chỗ PSK có chứa đường fucose và PSP chứa đường rhamnose và arabinose. Ngoài ra cả hai còn chứa galactose, mannose và xylose. 1.2.2.2. Nghiên cứu tác dụng sinh học [17], [18], [19], [20], [22] Trong y học cổ truyền của Trung Quốc và Nhật Bản, thân nấm Vân chi được thu hái, phơi khô, tán thành bột và chế biến thành trà. Trong y học cổ truyền, hoạt chất chiết xuất từ nước nóng của nấm được dùng để trừ thấp, tiêu nhọt, bổ phế và tăng lực. Trong cuốn y thư xuất bản dưới triều Minh có ghi: Nấm Vân chi màu đen và xanh lục có tác dụng dưỡng thần, tăng sức, mạnh gân cốt. Nếu dùng Vân chi trong thời gian dài sẽ làm tăng sức khỏe và tuổi thọ. Đặc tính chữa bệnh của các dịch chiết từ nấm Vân chi rất được các nhà khoa học Nhật và Trung Quốc quan tâm, và vì thế việc nghiên cứu về khả năng trị bệnh của các dịch chiết này được tiến hành trên diện rộng. Một vài tác dụng chính của polysaccharopeptid nấm Vân chi như là: + Tác dụng tăng cường miễn dịch 12 + Tác dụng điều trị ung thư + Tác dụng chuyển hóa sinh học các chất phế thải ¾ Tác dụng tăng cường miễn dịch và điều trị ung thư Polysaccharopeptid nấm Vân chi có tiềm năng miễn dịch bằng cách cảm ứng sự sản xuất của interleukin-6, interferons, immunoglobulin-G, đại thực bào và tế bào lympho T. Nó có tác dụng chống lại sự ức chế miễn dịch do hóa trị và xạ trị gây nên và đối kháng lại với sự ức chế miễn dịch do khối u gây ra. [20] Một vài thử nghiệm đã chứng minh rằng PSK có tiềm năng rất lớn trong liệu pháp điều trị ung thư bằng tá dược, có kết quả với những bệnh ung thư như dạ dày, thực quản, vú và phổi. Và trong những thực nghiệm này cũng cho thấy PSK đóng vai trò như là chất điều biến miễn dịch. Cơ chế phân tử cụ thể tạo ra hoạt tính sinh học của PSK vẫn chưa được giải thích một cách đầy đủ. [19] Thử nghiệm để khảo sát tác động trực tiếp in vitro của PSK trên sự tăng sinh của các dòng tế bào ung thư được tiến hành và tác động của nó lên tế bào lympho máu ngoại vi người cũng được phân tích: PSK được ly trích từ dịch chiết nước nóng hệ sợi nuôi cấy của nấm Vân chi. Thử nghiệm tiến hành trên 7 dòng ung thư {B16 (ung thư hắc sắc tố chuột), B9 (MCA-induced fibrosarcoma chuột), Ando-2 (ung thư hắc sắc tố người), AGS (ung thư dạ dày người), A-549 (ung thư phổi người), Hela (ung thư cổ tử cung người) và Jurkat T lymphoma leukemia}. NKL (NK cell line) được phân tách từ các tế bào lympho máu ngoại vi của một bệnh nhân bị mắc bệnh LGL leukemia. Kết quả thu được cho thấy PSK ức chế sự tăng sinh cúa các dòng tế bào ung thư từ 22 - 84 % so với đối chứng. Tỉ lệ ức chế sự tăng sinh của AGS (ung thư dạ dày người) là cao nhất (84 %), kế đó là A-549 (ung thư phổi người) là 80 %.Thấp nhất là 22 % ở dòng tế bào fibrosarcoma chuột (B9). Cơ chế của sự ức chế được xác định là do sự ngăn chặn chu trình tế bào (với sự tích lũy tế bào ở pha G0/G1, sự biểu hiện của caspase-3, tăng hiện tượng apoptosis ở tế bào). Những kết quả này cho 13 thấy PSK có hoạt tính gây độc tế bào trực tiếp in vitro, ức chế sự tăng sinh của tế bào ung thư. Các tế bào ung thư được xử lý với PSK cho thấy có sự thay đổi về hình thái (tế bào co lại, hình tròn, sự tạo các thể không bào nhỏ tăng lên) và một lượng lớn các tế bào bị bong tróc ra khỏi bề mặt dụng cụ nuôi cấy. Thử nghiệm này cho thấy PSK cảm ứng apoptosis ở dòng tế bào AGS (ung thư dạ dày người), nhưng không phải trên tất cả các dòng tế bào ung thư đem phân tích, và cảm ứng sự biểu hiện của caspase-3 trên một vài dòng tế bào ung thư nhưng không phải là tất cả. Những kết quả này chứng tỏ rằng PSK có thể gây ra hoạt tính độc tế bào bởi những cơ chế phân tử khác. Kết quả của thực nghiệm cho thấy rằng đặc tính chống khối u của PSK có thể mang 2 đặc tính sinh học kép: hoạt tính gây độc tế bào trực tiếp lên tế bào ung thư và hoạt tính điều biến miễn dịch gây ra sự hoạt hóa các tế bào NK (Natural killer cell, tế bào diệt tự nhiên) một cách mạnh mẽ và gián tiếp thông qua tế bào NK để tiêu diệt khối u. Trong thử nghiệm cũng cho thấy PSK có tác động hiệp trợ với IL-2 cảm ứng sự tăng sinh của các tế bào máu ngoại vi. PSK có vai trò tương tự như IL-2 trong việc cảm ứng sự tăng sinh và hoạt tính của tế bào NKL. Do đó, PSK có tác động độc tế bào trên tế bào ung thư và tác động nguyên phân trên tế bào lympho và tế bào NK. [19] Trong một nghiên cứu khác về hoạt tính chống ung thư của nấm Vân chi, dịch chiết ethanol - nước (thành phần chính trong dịch chiết là các polysacharid và triterpenoid) của nấm Vân chi mọc hoang dại được thử nghiệm trên 3 dòng tế bào: 2 dòng tế bào promyelocytic leukemia người (HL-60, NB-4) và dòng B-cell lymphoma (Raji). Kết quả nghiên cứu cho thấy, với sự phụ thuộc liều sử dụng, dịch chiết có tác động ức chế rất rõ sự tăng sinh trên cả 3 dòng tế bào HL-60, NB-4 và Raji, bằng sự cảm ứng apoptosis. Tuy nhiên, dịch chiết không thể hiện tính độc tế bào trên dòng tế bào gan bình thường (WLR) trong cùng thử nghiệm. Ngược lại, nhóm nghiên cứu thấy rằng, mitomycin C (MMC) - một thuốc chống ung thư gây ức chế ít nhất là 90% sự phát triển trên tất cả các dòng tế bào mà không có sự chọn lọc, kể cả dòng tế bào gan bình thường (WLR). Những kết quả này cho thấy, khi so 14 sánh với việc sử dụng thuốc chống ung thư hóa học thông thường, việc sử dụng dịch chiết nấm Vân chi (mặc dù với liều lượng cao hơn) vừa có tác dụng diệt khối u vừa lại k