Thẻ ngân hàng được hiểu như một phương
tiện thanh toán được sử dụng để thực hiện dịch
vụ thanh toán qua ngân hàng bên cạnh các
phương tiện thanh toán khác; với những tính
năng ưu việt như gọn nhẹ, thuận lợi, thẻ ngân
hàng đã và đang được sử dụng khá phổ biến
ở nhiều nước trên thế giới nói chung, cũng
như ở Việt Nam nói riêng. Ngày nay, cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ mở ra
nhiều cơ hội cũng như những thách thức về
sự an toàn của các loại thẻ ngân hàng.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 499 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
HẠN CHẾ RỦI RO TRONG KINH DOANH THẺ
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Vũ Văn Thực*
TÓM TẮT
không những chỉ gây thiệt hại cho chính chủ
thẻ, ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến hình
ảnh, vị thế của chính các ngân hàng, cũng như
an ninh trật tự xã hội. Bài viết sẽ trình bày
khái quát về thực trạng rủi ro trong hoạt động
thẻ, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm hạn chế
rủi ro của loại hình dịch vụ này
Từ khóa: rủi ro kinh doanh thẻ, thẻ ngân
hàng
* TS. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh, chi nhánh Tân Bình.
Thẻ ngân hàng là một trong những loại
hình dịch vụ hiện đại, có ích cho lưu thông tiền
tệ của quốc gia và tính thuận tiện cao cho chủ
thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ, ngân hàng. Do đó,
dịch vụ thẻ được các ngân hàng ưu tiên phát
triển và ngày càng được nhiều khách hàng
sử dụng. Bên cạnh những mặt tích cực mang
lại thì dịch vụ thẻ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro,
RISK LIMITS ON TRADING IN CARDS
COMMERCIAL BANK
ABSTRACT
Bank card is a modern type of service,
which helps national currency’s circulation
and is highly convenience for parties such
as cardholders, card accepters and banks.
Therefore, cards are becoming a priority
development of banks and increasingly used
by customers. However, bank cards can imply
many risks, which are not only harmful for
cardholders, but also affect the image and
position of the banks themselves, not to mention
security and order of the society. This article
will present an overview in card operation
and propose risk mitigation measure of this
service.
Keywords: business card risk, bank card
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thẻ ngân hàng được hiểu như một phương
tiện thanh toán được sử dụng để thực hiện dịch
vụ thanh toán qua ngân hàng bên cạnh các
phương tiện thanh toán khác; với những tính
năng ưu việt như gọn nhẹ, thuận lợi, thẻ ngân
hàng đã và đang được sử dụng khá phổ biến
ở nhiều nước trên thế giới nói chung, cũng
như ở Việt Nam nói riêng. Ngày nay, cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ mở ra
nhiều cơ hội cũng như những thách thức về
sự an toàn của các loại thẻ ngân hàng. Vì thế,
đảm bảo an toàn, chính xác và hiệu quả trong
hoạt động kinh doanh thẻ là vấn đề tất yếu đặt
ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện
nay. Điều này không chỉ hạn chế rủi ro cho
bản thân ngân hàng, bảo toàn tài sản khách
hàng mà còn đảm bảo an ninh trật tự xã hội
của quốc gia.
35
2. THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG KINH
DOANH THẺ
Thời gian qua, hoạt động kinh doanh thẻ
tại các ngân hàng thương mại (NHTM) có sự
phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên bên cạnh đó rủi
ro về thẻ còn xảy ra ở nhiều ngân hàng, không
những ảnh hưởng trực tiếp đến khách hàng,
ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến an ninh trật
tự xã hội. Dưới đây là một số rủi ro trong hoạt
động kinh doanh thẻ tại các NHTM Việt Nam:
Mới đây, khách hàng của một ngân hàng
tại TP. Hồ Chí Minh đã bị kẻ gian đột nhập
vào nhà lấy cắp thẻ tín dụng mà khách hàng
không hề hay biết. Cho đến khi khách đang
ngồi nhà vào buổi tối thì tin nhắn điện thoại
rung lên, kiểm tra nội dung tin nhắn, khách
hàng tá hỏa thấy có hai giao dịch bằng thẻ tín
dụng của mình đã được thanh toán tại một cửa
hàng điện thoại di động với số tiền lên đến gần
40 triệu đồng. Khi đó khách hàng mới kiểm tra
thẻ tín dụng thì anh không thấy thẻ của mình
đâu. Ngay sau đó, anh đã gọi đến trung tâm
dịch vụ khách hàng phát hành thẻ của mình
để báo mất thẻ. Tuy nhiên khách hàng không
thể lấy được số tiền đã mất, bởi vì đây là lỗi
của anh, ngân hàng không thể bồi thường thiệt
hại cho lỗi của khách hàng. Qua đó ngân hàng
chỉ có thể phối hợp với khách hàng và cơ quan
điều tra để tìm ra thủ phạm. Một trường hợp
khác là chị Lan Anh, cư trú tại Hà Nội, trong
một lần đi TP. Hồ Chí Minh chị bị đánh rơi ví,
trong đó có thẻ tín dụng đứng tên chị sở hữu
và bị kẻ xấu lợi dụng quẹt thẻ của chị để mua
2 chiếc iPhone 6 tại một cửa hàng điện máy,
điện thoại di động.[6]
Chị Trang, đang sống và làm việc tại
TP.Hồ Chí Minh, mặc dù chị không đi đến
nước Anh, nhưng chị lại nhận tin nhắn thông
báo trừ tiền của ngân hàng với giao dịch để
mua thực phẩm tại nước Anh với tổng giá trị
174 bảng (khoảng 5,7 triệu đồng); tương tự
như chị Trang, một khách hàng khác đang
sống và làm việc tại tỉnh Nam Định cũng
giống chị Trang bị trừ cho 5 giao dịch, với số
tiền 48 triệu đồng được thanh toán online bằng
bảng Anh từ tài khoản Visa Debit trong khi
thẻ vẫn cất tủ. [6]
Gần đây, tại một ngân hàng ở tỉnh Khánh
Hòa đã phát hiện một số người nước ngoài vào
rút tiền ở máy ATM với nhiều nghi vấn như:
liên tục đưa hàng chục thẻ vào để rút, rút ở
nhiều địa điểm và rút liên tục. Sau khi phát
hiện, ngân hàng đã báo tin cho công an và qua
điều tra. Công an bắt Troian Aleksei, Kotets
Viacheslav, Bondarenko Yury, thu giữ gần
49.000 Euro, hơn 247 triệu đồng, gần 250 thẻ
ATM các loại cùng nhiều đồ vật, thiết bị khác.
Tại cơ quan công an, các đối tượng này khai
vào Việt Nam để thực hiện việc in, dập thẻ,
sao chép dữ liệu thông tin chủ thẻ và có sự trợ
giúp đắc lực của đồng phạm ở nước ngoài để
nạp thông tin cá nhân đánh cắp được vào thẻ
ATM giả, sau đó sử dụng thẻ tại các trụ ATM
ở Việt Nam để rút tiền. [5]
Vào lúc 12 giờ 32 phút ngày 21.8.2016,
anh Trương Đức Anh sử dụng thẻ tín dụng
Visa Credit Card mở tại ANZ anh có nhận
được tin nhắn từ dịch vụ SMS Banking của
ANZ, thông báo có giao dịch được hoàn thành
tại trang web tiki.vn và cungmua.com, có 6
- 7 giao dịch thành công trong vòng 5 phút
với mỗi giao dịch có giá trị từ 1.425.000 đồng
đến 2.425.000 đồng. Trong khi đó anh không
hề mua sắm hàng hóa dịch vụ tại các trang
web trên. Vì vậy anh gọi điện cho tổng đài
19001276 của ANZ để yêu cầu tạm khóa thẻ
tín dụng, trong khoảng thời gian trao đổi với
nhân viên hỗ trợ của ANZ, đã có thêm 4 giao
dịch nữa được thực hiện thành công với giao
dịch có giá trị cao nhất là 6.987.000 đồng.
Anh V.T.P ngụ tại TP. Hồ Chí Minh có mở
thẻ Master Debit tại Vietcombank. Sáng ngày
hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại
36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
16.8.2017 anh nhận được 14 tin nhắn thông
báo về phát sinh giao dịch trong tài khoản,
trong đó có 10 tin nhắn bị trừ tiền với tổng số
tiền gần 18 triệu đồng. Một liên quan khác đến
tài khoản thẻ tín dụng của khách hàng Phan
Diệu Chương, ngụ tại TP.Hà Nội, mở thẻ Visa
tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế
cũng đã nhận được 3 tin nhắn, với tổng số
tiền giao dịch hơn 1.500 USD. Khi đến ngân
hàng đối chiếu, ngân hàng đưa ra bằng chứng
thể hiện có người mua hàng ký xác nhận giao
dịch, song khách hàng khẳng định đó là chữ
ký giả, và tài khoản phụ đã bị hack. [2]
Một thủ đoạn khác cũng đang có chiều
hướng gia tăng đó là lách vay nóng từ thẻ, đó
là dịch vụ rút tiền từ thẻ tín dụng với mức phí
trả cho các đối tượng từ 1,5 đến 1,6% một lần
quẹt thẻ, trường hợp chủ thẻ tín dụng cần tiền
mặt, nếu rút từ ATM với mức phí lên tới từ 4
đến 6% tổng số tiền giao dịch, trong khi đó
sử dụng dịch vụ này thì chủ thẻ chịu phí thấp
hơn, do đó nhiều khách hàng bị hấp dẫn bởi
dịch vụ này. Thực chất rút tiền mặt từ thẻ tín
dụng qua máy POS gần như là một hình thức
lách vay tiền “nóng”, với lãi suất chỉ từ 1,5%
trong vòng một tháng đến một tháng rưỡi và
trong trường hợp đến hạn nếu chủ thẻ chưa
có tiền chi trả, đơn vị chấp nhận thẻ cung cấp
luôn dịch vụ đáo hạn thẻ tín dụng với mức phí
rất cao. [3]
Ngày 25/7/2017, Tòa án Nhân dân Hà Nội
mở phiên sơ thẩm xét xử Cao Thị Anh (36 tuổi,
nhân viên tín dụng Ngân hàng HSBC) về tội cố
ý làm trái các quy định của nhà nước về quản
lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Quá trình
làm việc, trước sức ép phải đạt chỉ tiêu đề ra,
cộng với hấp dẫn của số tiền thưởng nếu tiếp
thị được nhiều khách hàng mở thẻ tín dụng và
vay tín chấp nên Anh đã lợi dụng mối quan hệ
quen biết với các công ty tư nhân để nhờ xác
nhận chức vụ, mức lương khống cho một số
cá nhân để họ đủ điều kiện vay vốn. Theo đó,
Anh đã lập 19 bộ hồ sơ giả mở thẻ tín dụng
với hạn mức từ 20 tới 50 triệu đồng, trong 19
khách hàng chỉ có 4 người trả lại tiền, số còn
lại đang nợ hơn 1,7 tỷ đồng. Hội đồng xét xử
đã tuyên phạt Anh mức án 4 năm tù về tội làm
giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức. [1]
Một trường hợp khác, theo hồ sơ của
khách hàng Hoàng Thị Na Hương cung cấp,
Vietcombank đã xác định khách hàng đã truy
cập vào một trang web giả mạo, có địa chỉ là
ngày 28-7-2016 qua máy điện thoại cá nhân
của khách hàng. Từ việc truy cập này, thông
tin và mật khẩu của khách hàng đã bị kẻ gian
đánh cắp, sau đó tài khoản khách hàng đã bị lợi
dụng; các đối tượng lừa đảo đã chuyển tiền từ
tài khoản khách hàng tới nhiều tài khoản trung
gian tại 3 ngân hàng khác nhau tại Việt Nam,
sau đó, đối tượng lừa đảo đã rút 200 triệu đồng
qua ATM ở Malaysia. Vietcombank đã xử lý
các biện pháp khẩn cấp, kịp thời khoanh giữ
lại được 300 triệu đồng; đây là các giao dịch
chuyển khoản sang ngân hàng khác, chưa kịp
chuyển ra khỏi hệ thống Vietcombank.[7]
Lợi dụng sơ hở, kiểm soát của các thành
viên trong Ban quản lý ATM, đối tượng đã
thực hiện lấy cắp tiền từ các hộp tiền tiếp quỹ
ATM trong quá trình vận chuyển hộp tiền, đó
là trường hợp của Ông Nguyễn Thanh Nhàn,
cán bộ Agribank chi nhánh Bình Thạnh, từ
cuối năm 2011, Ông Nguyễn Thanh Nhàn đã
lợi dụng sự lấy cắp tiền trong quá trình vận
chuyển hộp tiền ATM trong thang máy và
xuống nhà xe. Khi đưa các hộp tiền vào máy
ATM, đối tượng Nhàn vẫn nhập đúng số tiền
tiếp quỹ. Qua điều tra, đối tượng Nhàn đã thừa
nhận lấy cắp tiền từ ATM với số tiền lên đến
hơn 20 tỷ đồng.[8]
Theo Hội Thẻ ngân hàng, rủi ro trong hoạt
động thẻ đang gia tăng, cụ thể về phát hành
37
thẻ, số thẻ bị nghi ngờ bị lộ dữ liệu trong 5
tháng đầu năm 2016 tương đương 38,2% so
với cả năm 2015, trong khi đó tội phạm về thẻ
tiếp tục đánh cắp dữ liệu thẻ khi chủ thẻ mua
sắm các thiết bị công nghệ cao, mua sắm ở
nước ngoài; sử dụng thẻ tại POS, các cửa hàng
điện tử, vàng bạc đá quý, các chuỗi siêu thị
lớn... Các chủ thẻ đi du lịch, công tác, du học
bị đánh cắp dữ liệu thẻ nhiều nhất ở các nước
như Mỹ, Canada, Anh, Pháp.[4]
3. NGUYÊN NHÂN RỦI RO TRONG KINH
DOANH THẺ
- Bộ máy tổ chức quản lý rủi ro hoạt động
chưa thực sự có hiệu quả, các văn bản, qui
định, qui trình mở, sử dụng, thanh toán thẻ và
quản lý rủi ro chưa thực sự hoàn chỉnh và còn
nhiều kẻ hở.
- Một số ngân hàng còn sử dụng thẻ từ,
tính bảo mật chưa cao, tội phạm thẻ dễ dàng
ăn cắp thông tin để phạm tội.
- Mặc dù được đầu tư nâng cấp trong
những năm gần đây, song hệ thống thanh
toán của ngân hàng còn chưa đạt được như
kỳ vọng, còn có khoảng cách nhất định so với
chuẩn mực quốc tế.
- Do áp lực yêu cầu phát triển, cũng như
khả năng thẩm định của cán bộ còn hạn chế,
dẫn đến còn có khách hàng không đủ tiêu
chuẩn điều kiện, còn có khách hàng lợi dụng
lừa đảo.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát chưa được
chú trọng đúng mức, việc kiểm soát còn qua
loa, đại khái để kẻ gian lợi dụng.
- Công tác tuyên truyền cho khách hàng sử
dụng thẻ về cách thức sử dụng, cảnh báo rủi ro
hoạt động trong sử dụng thẻ chưa được quan
tâm đúng mức.
- Nhiều khách hàng còn chủ quan trong
việc bảo quản thông tin về thẻ, bị mất cắp, thất
lạc Từ đó bị kẻ gian lợi dụng để trục lợi;
hoặc vẫn còn một số đơn vị chấp nhận thẻ lợi
dụng kẽ hở của NHTM để lừa đảo, trục lợi.
4. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG
KINH DOANH THẺ
Một là, hoàn thiện bộ máy tổ chức hoạt
động quản lý rủi ro trong hệ thống thẻ: hoàn
thiện bộ phận quản lý rủi ro trong kinh doanh
thẻ tại các ngân hàng thương mại như: nghiên
cứu hoàn thiện các văn bản, qui trình nghiệp
vụ, cũng như văn bản quản lý rủi ro và cảnh báo
rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ; thường
xuyên phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thẻ
quốc tế để được hỗ trợ, cập nhật thông tin về
quản lý rủi ro. Theo dõi chặt chẽ các báo cáo
giao dịch thanh toán thẻ và sử dụng thẻ nhằm
phát hiện, ngăn chặn kịp thời các trường hợp
thẻ bị nghi ngờ giả mạo, từ đó đưa ra các giải
pháp xử lý kịp thời nhằm hạn chế đến mức
thấp nhất tổn thất cho các ngân hàng thương
mại; phối hợp với cơ quan pháp luật để xử lý,
điều tra các trường hợp giao dịch giả mạo, thẻ
giả mạo, mất cắp, thất lạc...
Hai là, thay thế thẻ từ bằng thẻ chip: hiện
nay một số NHTM vẫn đang còn sử dụng thẻ
từ; trước tình trạng các thiết bị bị ăn cắp thông
tin có chiều hướng gia tăng như hiện nay thì
các NHTM cần khẩn trương phát hành thẻ chip
thay thế cho thẻ từ, đây là một trong những
giải pháp cấp bách cần được các NHTM triển
khai; thẻ chip là loại thẻ được sử dụng công
nghệ tiến tiến nhất hiện nay, sử dụng thẻ này
sẽ ngăn ngừa bọn tội phạm sử dụng các thiết bị
để đọc trộm thông tin mã hoá trong thẻ, qua đó
sẽ hạn chế được rủi ro cho hệ thống NHTM.
Ba là, thẩm định kỹ các điều kiện đối với
các đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ trước khi
khi ngân hàng ký kết hợp đồng chấp nhận
thanh toán thẻ với khách hàng, chú trọng thẩm
định ngành nghề đăng ký kinh doanh, địa
hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
điểm lắp đặt máy, năng lực pháp luật và năng
lực hành vi nhân sự của khách hàng, cũng như
uy tín và nhân thân của khách hàng, cũng như
qui mô kinh doanh và chiều hướng phát triển
của khách hàng.
Bốn là, các NHTM cần chủ động nghiên
cứu các qui chuẩn, nguyên tắc, điều kiện hệ
thống thanh toán thẻ, cũng như an ninh thẻ
cho phù hợp với thông lệ quốc tế, chẳng hạn
như chuẩn ISO 27001 cho hệ thống công nghệ
thông tin hoặc chuẩn PCI/DSS cho hệ thống
thanh toán thẻ. Nghiên cứu sử dụng công nghệ
bảo mật đa nhân tố trong giao dịch ngân hàng
để thay thế các công nghệ bảo mật cũ không
đảm bảo an toàn; ứng dụng hệ thống thanh
toán hiện đại đối với hạ tầng thanh toán của
mình theo chuẩn mực quốc tế.
Năm là, thường xuyên kiểm tra các máy
ATM, POS, đặc biệt chú trọng kiểm tra các
đơn vị chấp nhận thanh toán nhằm phòng
ngừa, ngăn chặn các hành vi gian lận; tăng
cường hệ thống đảm bảo an toàn, bảo mật cho
các giao dịch qua ATM, POS, cũng như các
giải pháp xác thực khách hàng khi giao dịch
tại ATM để phòng, chống các hành vi sử dụng
thẻ giả. Tăng cường kiểm tra thiết bị thanh
toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ nhằm đảm
bảo các đơn vị chấp nhận thẻ không sử dụng
các thiết bị có khả năng lưu trữ thông tin giao
dịch, không lắp đặt các thiết bị để skimming
thẻ; đối với đơn vị chấp nhận thẻ mới là doanh
nghiệp tư nhân, cá nhân kinh doanh cần thẩm
định và cân nhắc kỹ việc trang bị thiết bị POS
không dây, yêu cầu đơn vị chấp nhận thẻ phải
ký cam kết sử dụng đúng sim POS được cấp,
không cho mượn POS, sử dụng POS không
đúng mục đích.
Sáu là, xây dựng hệ thống dự phòng cho
hoạt động thẻ: hệ thống máy móc thiết bị, công
nghệ là nền tảng cho hoạt động thẻ và là cơ
sở quan trọng để quyết định đến sự vận hàng
thông suốt, liên tục của hoạt động thẻ của mỗi
ngân hàng. Do đó, các NHTM cần xây dựng
một hệ thống dự phòng đủ mạnh để đảm bảo
sự vận hành trơn tru, thông suốt, khi có sự cố
xảy ra thì hệ thống vẫn hoạt động bình thường.
Bảy là, thường xuyên tuyên truyền có hiệu
quả nhằm khuyến cáo chủ thẻ sử dụng, cũng
như phòng ngừa các rủi ro phát sinh về thẻ
như đăng ký sử dụng dịch vụ SMS Banking để
theo dõi sự biến động của số dư trong tài khoản
của mình, trong trường hợp phát hiện những
giao dịch phát sinh bất thường báo ngay cho
đường dây nóng của các ngân hàng để xử lý
kịp thời giao dịch gian lận. Khi mua sắm hàng
hóa dịch vụ trên mạng, chủ thẻ chỉ nên thanh
toán trực tuyến tại các Website tin cậy, có uy
tín, nguồn gốc rõ ràng, không nên thanh toán
qua những trang web kém minh bạch; khách
hàng cần bảo quản bí mật các thông tin về thẻ,
chẳng hạn như: số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ
thẻ, số PIN, mã số bí mật của thẻ..., đặc biệt
không để lộ các thông tin thẻ của mình cho
người khác biết, trường hợp phát hiện thỉ đổi
ngay mã PIN hoặc phát hành thẻ mới.
Tám là, với tình trạng skimmer thẻ có
chiều hướng gia tăng trong thời gian qua,
do đó để tránh bị đánh cắp dữ liệu thẻ bằng
skimmer, khách hàng nên hạn chế thực hiện
giao dịch ở các ATM có nguy cơ cao bị gắn
thiết bị skimmer như những ATM ít người qua
lại hoặc những ATM không có bảo vệ giám sát
thường xuyên. Khi giao dịch trên máy ATM,
nếu phát hiện đầu đọc thẻ có lung lay, hoặc
có điểm gì khác biệt so với các ATM khác thì
báo ngay cho ngân hàng biết để có hướng xử
lý kịp thời.
Chín là, khách hàng nên thường xuyên
kiểm tra tài khoản ngân hàng: trường hợp
không đăng ký dịch vụ biến động số dư, hoặc
có đăng ký cũng nên thường xuyên kiểm tra số
dư tài khoản của mình tại ngân hàng đề phòng
39
trường hợp hệ thống công nghệ thông tin của
ngân hàng bị lỗi; khách hàng kiểm tra bằng
kênh giao dịch trực tuyến nhằm kịp thời phát
hiện những giao dịch gian lận, trường hợp
phát hiện dấu hiệu bất thường khách hàng cần
báo ngay cho ngân hàng biết để xử lý kịp thời.
Mười là, các NHTM định kỳ nên xem lại
các video giám sát ATM để phát hiện các hành
vi bất thường của khách hàng, như người sử
dụng ATM nhưng không thực hiện giao dịch
nào hoặc phân tích lịch sử giao dịch của khách
hàng để phát hiện những giao dịch bất thường.
Nghiên cứu cho phép khách hàng chủ động
khoá thẻ trên các kênh giao dịch trực tuyến khi
nghi ngờ hay thấy có giao dịch gian lận nhằm
giảm thiểu sự phụ thuộc vào tổng đài chăm
sóc khách hàng.
Mười một là, các NHTM cần thông báo
cho khách hàng biết ngay những thay đổi của
ATM mỗi khi có sự thay đổi, qua đó sẽ giúp
khách hàng có thể kịp thời phát hiện những
điểm bất thường khi sử dụng thẻ để ngăn chặn
rủi ro có thể phát sinh.
Mười hai là, tăng cường tổ chức các khoá
đào tạo, bồi dưỡng cho nhân viên của các đơn
vị chấp nhận thẻ các kiến thức về nghiệp vụ
thẻ như: các thao tác cần thiết để thực hiện
thanh toán thẻ, cách nhận biết thẻ giả mạo,
skimming, kiểm tra và lưu trữ các hóa đơn
giao dịch, hướng dẫn đơn vị chấp nhận thẻ cần
tuyệt đối không cung cấp thông tin thẻ cho bên
thứ ba và bảo mật thông tin trong quá trình
truyền thông tin về ngân hàng; các ngân hàng
in các ấn phẩm hướng dẫn cách nhận biết và
thanh toán thẻ dưới dạng đề can, stick, sách,
tài liệu hướng dẫn, các thiết bị giúp phát hiện
thẻ giả như kính lúp.
5. KẾT LUẬN
Thẻ ngân hàng đã mang lại nhiều lợi ích
cho ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế;
trong những năm qua cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, cũng như sự tiến bộ không
ngừng của khoa học kỹ thuật thì dịch vụ thẻ
cũng có nhiều rủi ro, ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng và khách
hàng. Bài viết đã đánh giá khái quát về thực
trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
của các NHTM trong thời gian qua, đồng thời
đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro
đối với khách hàng, ngân hàng. Hy vọng rằng
những giải pháp đề xuất sẽ giúp ngân hàng,
khách hàng hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất
trong kinh doanh thẻ, cũng như sử dụng và
thanh toán thẻ trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. N.H (2017). “Kiều nữ ngân hàng” vào tù vì xác nhận khống. Công an Nhân dân
[2]. Anh Vũ(2016). Kẽ hở bảo mật ngân hàng: Rủi ro từ thẻ tín dụng. Báo Thanh Niên
[3]. Hồng Anh(2017). Rủi ro rút tiền từ thẻ tín dụng qua máy POS. Báo Nhân dân
[4]. Hồng Phúc(2016). Rủi ro thẻ - những cảnh báo. Thời báo kinh tế Sài Gòn
[5]. Thái Phương, Kỳ Nam, Chánh Trung (2015). Đủ chiêu trộm từ thẻ ATM. Báo người l