Hiệp định chống bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa kỳ và thách thức, khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

I. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa kỳ. I. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ2 II. Những thách thức và khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam 7 III. Một số đề xuất, kiến nghị15

docx22 trang | Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiệp định chống bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa kỳ và thách thức, khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi ích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở một nền thương mại và đầu tư công bằng. Nhưng trong khi các quốc gia thành viên WTO đang phải dẫn dỡ bỏ các rào cản thuế quan và thuế hoá các rào cản phi thuế quan thì các biện pháp tự vệ, thuế chống phá giá và thuế đối kháng vẫn ngày càng được nhiều quốc gia phát triển áp dụng một cách triệt để, nhất là, nhiều nước đang phát triển và kém phát triển phải đối mặt với tình trạng hàng hoá nhập khẩu bán phá giá tại thị trường của mình, và gánh chịu những thiệt hại cho sản xuất trong nước. Cho nên việc tìm các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng - biện pháp chống bán phá giá, đang được rất nhiều nước quan tâm, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên không phải nước nào áp dụng biện pháp chống bán phá giá một cách đúng đắn, đôi khi mang tính chủ quan áp đặt mang tính chính trị.... Hàng hoá của Việt Nam cũng đã gặp phải những biện pháp chống bán phá giá mà nước sở tại áp dụng. Sự việc đó cũng đã ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá của chúng ta. Trong bài viết này đề cập đến vấn đề “Hiệp định chống bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa kỳ và thách thức, khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam” Nội dung I. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa kỳ. Các cách hiểu về phá giá: Mặc dù hiện tại phá giá và chống bán phá giá đã được WTO thống nhất và đưa ra các tiêu chí và thủ tục để đánh giá song khi nói đến phá giá, giới kinh doanh vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau: - Phá giá là giảm giá để tranh giành thị trường và/hoặc tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Phá giá là bán dưới giá thành. Phá giá là bán dưới mức giá bình thường. Định nghĩa về phá giá và cách xác định phá giá của WTO đã được quy định tại Điều 6 của GATT: “ Phá giá là hành vi mà sản phẩm của một quốc gia được bán ở quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường và làm thiệt hại hay đe doạ làm thiệt hại về mặt vật chất một ngành của quốc gia khác hoặc làm chậm trễ sự thiết lập một ngành ở quốc gia khác”. Hai khái niệm quan trong quy định này là giá trị thông thường và thiệt hại về vật chất. Một quốc gia bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nếu: Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại thông thường đối với sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu, hoặc Nếu không thể xác định mức giá nội địa đó thì: + Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường, hoặc + Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng với một tỷ lệ hợp lý chi phí và lợi nhuận bán hàng. 2. Biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế Trong thương mại quốc tế, khi hàng hoá bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (antiduming) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán pháp giá và biện pháp phổ biến nhất hiện nay. Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng hoá bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phán giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại (nói chính xác đó là một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước). Thuế này đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hoá của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra những Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hoá bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc giá khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định. Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp bán phá giá nào cũng bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO cũng luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được áp đặt khi hàng hoá được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy, nếu một hàng hoá được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện pháp chống bán phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về số lượng, mức tiêu thụ trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm cho người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành sản xuất trong nước. Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: 1 - Biên độ phá giá từ 2% trở lên; 2 - Số lượng, trị giá hàng hoá bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hoá tương tự mới nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hoá tương tự của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%). Theo quy định của WTO, biên độ phá giá được xác định thông qua việc so sánh với mức giá có thể so sánh được của hàng hoá tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá cộng thêm khoản chi phí hợp lý cho quản trị, bán hàng, các chi phí chung khác và một khoản lợi nhuận. Như vậy, có thể hiểu rằng biên độ phá giá là mức chênh lệch giá thông thường của hàng hoá tương tự với mức giá xuất khẩu hiện tại. Việc xác định giá thông thường được tính toán rất phức tạp dựa trên cơ sở sổ sách và ghi chép của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi và phán ảnh được một cách hợp lý của chi phí. Để xác định hàng hoá có bị bán phá giá hay không, việc bán phá giá có thể gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hay không để áp đặt các biện pháp chống phá giá thì điều quan trọng nhất và phức tạp nhất này ở quá trình điều tra về bán pháp giá. ở những quốc gia khác nhau, việc điều tra sẽ được thực hiện bở các cơ quan chức năng khác nhau. Theo quy định trong Hiệp định về chống bán pháp giá của WTO thì việc điều tra chỉ được tiến hành khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người dân dành cho ngành sản xuất trong nước. Đơn yêu cầu sẽ được coi là đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này nhận được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bày tỏ ý kiến tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra. Trên thực tế, quá trình điều tra về bán phá giá của EU, Mỹ và một số nước khác cho thấy việc xác định giá trị thông thường của hàng hoá để làm căn cứ xác định biên độ phá giá quá phức tạp và đôi khi không minh bạch, vẫn còn rất nhiều áp đặt. Theo luật pháp của Mỹ thì một khi không thể xác định được giá trị thông thường tại nước xuất khẩu, người ta có thể lấy mức giá của hàng hoá tương tự trong điều kiện thương mại bình thường ở một nước thứ ba có người trình độ phát triển như của nước bị điều tra bán phá giá. Đây chính là cái cơ quan trọng mà trong vụ kiện phi lý về Thương mại Mỹ đã tính toán giá trị thông thường theo giá tại Băng - la - đét với lập luận rằng. Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường, vì vậy các chi phí và các số liệu của các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp là không phản ảnh trung thực và không tin cậy được. Có thể nói rằng, thuế chống bán phá gía là một công cụ bảo hộ rất mạnh và rất lợi hại. Cơ chế chống bán phá giá của Mỹ Đoạn 800-801 của Đạo Luật chống bán phá giá của Mỹ quy định: “Bất cứ người nào thực hiện hay giúp đỡ thực hiện việc nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Mỹ một cách phổ biến và có hệ thống để bán những hàng hoá đó ở mức giá thấp hơn đáng kể giá thực tế thị trường, hay giá bán buôn của những hàng hoá đó tại thị trường nơi nó được sản xuất hay tại thị trường nước ngoài khác mà các hàng hoá đó thường được xuất khẩu sau khi đã cộng giá bán buôn, chi phí vận tải, thuế, và các chi phí và lệ phí cần thiết khác đều bị coi là vi phạm pháp luật nếu những hành vi kể trên được thực hiện với dự định phá hoại, hay gây tổn thất một ngành của Mỹ, hay ngăn cản việc thiết lập một ngành tại Mỹ, hay tạo sự kiềm chế hoặc độc quyền về hàng hoá đó tại Mỹ”. Các thủ tục hành chính áp dụng cho việc chống phá giá được quy định trong Đạo Luật chống phá giá 1916; Đạo luật chống phá giá 1921; Mục VII của Đạo Luật thuế 1930. Thủ tục chủ đạo đó là: thay vì dựa trên hành động của chính phủ hay cá nhân trước toà án, luật chống phá giá cho phép thực hiện các thủ tục tố tụng. Cụ thể là, những người đại diện cho một ngành ở Mỹ có thể lấy các lá phiếu biểu quyết và trình cho Bộ Thương Mại Mỹ (DOC). DOC sẽ quyết định có tồn tại việc phá giá hay không và ITC có trách nhiệm tìm kiếm bằng chứng và chứng minh sự tồn tại các tổn thất. Yêu cầu về việc có dự định hay không có dự định từ phía bên bị không quan trọng. Nếu ITC phát hiện ra tồn tại phá giá và tổn thất phá giá, thuế chông phá giá sẽ được áp dụng. Bên bị sẽ không phải chịu các trừng phạt dân sự hay hình sự nào. II. những thách thức và khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam Việc bán phá giá đang diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các quốc gia kể cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Mặc dù là nước đang phát triển ở trình độ thấp, nhưng vài năm trở lại đây hàng hoá của Việt Nam đã dần thâm nhập vào các thị trường khác nhau và các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bị nước ngoài tiến hành điều tra bán phá giá tới 8 lần (tính từ 1994 - 2002). Trong số 8 vụ các doanh nghiệp Việt Nam bị áp đặt thuế chống phá giá. Vụ kiện bán phá giá cá tra, các ba - sa của Việt Nam tại Mỹ (năm 2002) được coi là một vụ kiện có quy mô lớn và có rất nhiều áp đặt bất công từ phía Mỹ. Các ngành đã từng bị kiện phá giá của Việt Nam là tỏi, giày dép, bột ngọt, cá tra, cá basa, bật lửa gas. Canada kiện Việt Nam hai vụ liên quan tới giày dép và tỏi. Thuế chống phá giá áp dụng cho tỏi của Việt Nam là 1,48 CAĐ/kg. EU kiện Việt Nam hai vụ liên quan tới giày dép và bột ngọt. Mức thuế chống phá đối với bột ngọt là 16,8%. Riêng đối với mặt hàng giày dép, EU đã không đánh thuế chống bán phá giá đối với Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các quốc gia khác là Trung Quốc, Inđônêxia và Thái Lan. Ba Lan kiện Việt Nam một vụ về bật lửa gas. Thuế chống phá giá là 0,09 EUR/chiếc. Mỹ kiện Việt Nam một vụ về cá tra, cá basa. Thuế chống phá giá áp đặt cho Việt Nam từ 38% đến 64%. Phương thức mà Hiệp hội cá tra, cá ba sa (CFA) của Mỹ đã thực hiện trong vụ tranh chấp với Việt Nam có thể tóm tắc như sau: + Trước hết, CFA đã gây sức ép bắt các nhà xuất khẩu Việt Nam phải thay đổi tem dán để phân biệt các của Việt Nam với cá của Mỹ. + Sau đó, CFA kiện Việt Nam đã phá giá cá tra, cá basa trên thị trường Mỹ. Gạo của Việt Nam đã từng bị Columbia kiện vào năm 1994 với biên phá giá là 9,7% nhưng sau đó Columbia quyết định rằng Việt Nam đã không gây thiệt hại về vật chất với việc sản xuất gạo của Columbia nên không áp dụng thuế chống bán phá giá. Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm trong việc đương đầu với các vụ kiện phá giá và vận dụng cơ chế chống bán phá giá. Qua các vụ kiện phá giá chúng ta có cơ hội nhìn nhận rõ hơn thực trạng thương mại quốc tế hiện nay. EU đã bác bỏ vụ kiện DN Việt Nam bán phá giá bật lửa gas vào thị trường này với lý lẽ, DN Việt Nam hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, Hoa Kỳ lại kết luận Việt Nam có nền kinh tế phi thị trường. Việc xem xét Việt Nam là nền kinh tế thị trường hay phi thị trường hoàn toàn mang tính chính trị, không phụ thuộc vào yếu tố kỹ thuật, mặc dù phía Mỹ có đưa ra 5 yếu tố kỹ thuật để xem xét. Như vậy, kinh tế thị trường chỉ là cái cớ mà nguyên nhân sâu xa chính là giá bán. Với mức giá 1kg các basa khoảng 3USD thì các DN Hoa Kỳ cạnh tranh nổi, khi đó hình thức kiện phá giá được sử dụng nhiều nhất. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch Hoa Kỳ đã phát triển đến một mức tinh vi với các nước có nền kinh tế phát triển, đôi khi lại trắng trợn theo lối đơn phương - áp đặt, nhất là với các nền kinh tế nhỏ bé. Cách tốt nhất là chúng ta không không để xảy ra kiện cáo bán phá giá. Thực tế chúng ta không bán phá giá nhưng không tìm hiểu xem đối tác của ta ở nước sở tại chi phí sản xuất như thế nào, bán gía bao nhiêu. Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ, sẽ đưa được mức giá phù hợp, không gây mâu thuẫn về lợi ích với DN Hoa kỳ thì chắc chắn việc kiện cáo sẽ ít sảy ra. Mặt khác, ngay cả trong tình hình xuất khẩu thuận lợi, chúng ta cũng nên san sẻ sang các thị trường khác, bởi cứ gia tăng sản lượng xuất khẩu vào một thị trường sẽ bị DN nước sở tại phản ứng một cách tiêu cực. Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ mới đây đã có báo cáo kết luận rằng luật chống bán phá giá trên thực tế đã gây tổn hao cho nền kinh tế Mỹ nhất là qua vụ kiện tôm được nhiều nước quan tâm hiện nay, John McQuaid công tác tại tờ “The Times picayune” đã tập hợp ý kiến của các nhà kinh tế nhằm chỉ ra những điểm phi lý trong luật chống bán phá giá của Mỹ. “Bán phá giá” gợi lên hình ảnh Công ty nước ngoài theo đuổi chiến lược có chủ ý, có sự phân phối hợp nhằm cản trở DN trong nước bằng hàng NK giá rẻ tràn ngập thị trường. Đây chính là điệp khúc mà ngành côngnghiệp đánh bắt tôm ở Mỹ viện làm lý do khơi kiện. Ngư dân đánh bắt tôm ở Mỹ nói riêng họ bị áp đảo bởi xu hương hàng NK bán phá giá từ 6 nước nuôi tôm đang gia tăng, khiến mặt hàng tôm rơi giá. Liên minh tôm miền nam nước Mỹ (SSA), đại diện cho 8 bang trong đó Louisiana, đã đệ đơn theo luật chống phá giá, yêu cầu chính phủ Mỹ áp thuế đối với mặt hàng tôm NK và trợ giá sản phẩm của họ. Trên thực tế, luật chống phá giá của Mỹ không đòi hỏi bằng chứng cho thấy các Công ty nước ngoài bị cáo buộc bán phá gía đang phối hợp hành động hay có ý định đẩy mặt hàng của họ tràn ngập thị trường Mỹ. Các nhà kinh tế nói rằng luật chống phá giá được soản thảo khái quát và nhiều trình tự cho luật nàylà thủ tục hoạt động tiêu chuẩn đổi mới các DN tại Mỹ và trên thế giới. Sự khác biệt giữa văn bản luật và thực tiễn là điều bình thường trong thế giới của chống phá mà những người đánh bắt tôm ở Mỹ bước vào. Khi toàn cầu hoá gây ra làn sóng đổ vỡ xuyên suốt nền kinh tế Mỹ. Thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề chính trị tại Lousiana, cũng như với nhiều bang khác phải chống chọi với nguy cơ mất việc làm do sự cạnh tranh từ nước ngoài. Luật chống phá giá mở ra phương thức giúp các ngành công nghiệp gặp khó khăn có được khoản trợ cấp kinh tế tạm thời. Luật này cũng được xem xét là một chiếc van an toàn về chính trị. Mặc dù các quyết định về chống phá giá có ảnh hưởng trên toàn thế giới, nhưng chúng lại được quyết định trong phạm vi một nhóm nhỏ, thiển cận ở Oashinhtơn. Những ý kiến chỉ trích nói rằng các vụ kiện bị chi phối bởi những quy định mà ít người bên ngoài có thể hiểu được và đầy rẫy những mâu thuẫn. Những người đề xướng việc kiện tụng nói rằng luật chống phá giá có thể “làm cân bằng sân chơi” thương mại quốc tế, nơi làm các Công ty nước ngoài thường không chơi công bằng và cách chơi của họ đe dạo việc làm của Mỹ. Luật chống phá giá mà Quốc hội Mỹ ban hành được xem như một vũ khí tự vệ của các ngành công nghiệp. Mục tiêu của luật này là để cân bằng thương mại bất công. Khái niệm luật chống phá giá cũng tương tự như luật chống độc quyền, nó có tác dụng sắp xếp lại thị trường nhằm duy trì khả năng cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng về lâu dài. Nhiều ý kiến chỉ trích, trong đó có những người ủng hộ thương mại tự do và nhiều nhà kinh tế chủ đạo, đồng tình rằng thương mại toàn cầu thường không công bằng. Nhưng họ cũng nói rằng luật chống phá giá và các quy định của luật này, đặc biệt là những công thức phức tạp mà Chính phủ áp dụng để tính thuế, là mang tính độc đoán và gây trở ngại cho các Công ty đang hoạt động theo các nguyên tắc thông thường tại thị trường quốc tế. Họ nói rằng về cơ bản luật này là một hình thức bảo hộ và do đó nó là kẻ thù của thương mại tự do. Vụ kiện chống phá giá tôm chỉ là một trong cả chục vụ kiện xẩy ra mỗi năm. Bên nguyên đơn cáo buộc sáu nước, Trung Quốc, Ecuađo, ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam - đã xuất ồ ạt sản phẩm và thị trường Mỹ với giá thấp hơn giá thành sản xuất. Những người đánh bắt tôm ở Mỹ đòi hỏi chính phủ áp thuế tôm NK từ 25,76% (mức thấp nhất đối với Việt Nam) đến 349% (mức cao nhất đối với Braxin). Chính phủ Mỹ đã sử dụng hệ thống hai cấp, phức tạp để phân tích vụ kiện bán phá giá. Bộ Thương mại Mỹ (DOC) có quyền quyết định liệu vấn đề bán phá giá có xảy ra trên thực tế hay không và mức thuế nào sẽ được áp đặt. Uỷ ban Thương mại quôc tế Mỹ (USITC) là cơ quan đưa ra phán quyết cuối cùng, quyết định xem liệu DN Mỹ - trong vụ kiện này là các DN tôm có bị “thiệt hại vật chất” do hàng NK hay không. Cho tới nay của DOC và USITC đều có những phán quyết sơ bộ ủng hộ người đánh bắt tôm ở Mỹ. Theo luật hiện nay, khoản tiền thuế sẽ được dành để trợ cấp cho ngành công nghiệp tôm nội địa. Nhìn chung, Chính phủ Mỹ thường có xu hướng đứng về phía các ngành công nghiệp Mỹ. Theo nhà kinh tế Bruce Blonigen của Đại học tổng hợp bang Oregon, một chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực chống phá giá, có tới 80% vụ kiện có kết luận là xảy ra tình trạng bán phá giá, khoảng 60% vụ kiện kết luận rằng các DN nội địa bị ảnh hưởng bởi hàng NK. Thomas Prusa, nhà kinh tế của Đại học tổng hợp Rutgers chuyên nghiên cứu về các vụ kiện thương mại và chống phá giá nói: “DOC gần như không bao giờ kết luận là không xảy ra tình trạng bán phá giá”. Các nhà kinh tế còn nhiều quan tâm đến khác biệt về mục tiêu chính sách cơ bản của luật chống phá giá. Một số coi luật này là phương thức nuôi dưỡng chủ nghĩa bảo hộ. Một số khác bảo vệ khái niệm mày như một công cụ giữ gìn việc làm và giúp giảm bớt tại hoạ của kinh tế toàn cầu. Clyde Prestowitz, Chủ tịch Viện chiến lược kinh tế, một nhóm nghiên cứu thiên tả có trụ sở tại Oasinhtơn, nói: “Khái niệm chống phá giá là hoàn toàn hợp pháp và đã được đưa vào các quy định của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) bởi đây là công cụ để đối phó với một số vấn đề thực tế”. Nhưng nhiều nhà kinh tế nói rằng cách thức mà DOC phân xử vụ kiện tôm đã bị “bóp méo” nhằm chống lại các Công ty nước ngoài và thiên vị các ngư dân đánh bắt tôm ở Mỹ. Theo các nhà kinh tế, yếu tố gây tranh cãi nhất về luật chống phá giá là cách thức DOC tính thuế chống phá giá. Các nhà kinh tế của DOC sẽ xem xét sự khác biệt giữa giá của sản phẩm NK với giá trị thị trường hợp lý. Nếu giá NK thấp hơn, có nghĩa là các Công ty nước ngoài đang bán sản phẩm vào Mỹ với giá quá rẻ, như vậy xuất hiện hiện tượng bán phá giá. Tuy nhiên, theo Michael Moore và một số nhà kinh tế khác, khó khăn chính ở đây là làm sao so sánh giá NK thực tế với “giá thị trường hợp lý” giả thuyết, ở một số trường hợp việc so sánh như vậy gần như là điều không thể, bởi hầu như chẳng ai biết rõ “giá thị trường hợp lý” sẽ là bao nhiều. Tuỳ thuộc vào tình huống vụ kiện. Chính phủ Mỹ xác định giá thị trường hợp lý theo những phương thức khác nhau. Trong trường hợp đơn giản nhất, Chính phủ Mỹ so sánh giá tại nước XK với giá tại Mỹ. Nhưng trong hầu hết các vụ kiện chống phá giá, phương thức xác định không đơn giản như vậy: Trong số sáu nước bị kiện, SSA nói rằng chỉ duy nhất Braxin có thị trường nội địa đáng kể về mặt hàng tôm, các nước khác hoặc không có thị trường lớn về mặt hàng này hoặc là những nước bị quy vào diện không có nền kinh tế thị trường. Trong những trường h
Tài liệu liên quan