Để thực hiện tốt công việc kiểm toán, kiểm toán viên phải có hiểu biết nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề trong nền kinh tế để đưa ra được những ý kiến, những nhận xét đánh giá phù hợp với thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nêu rõ những tồn tại, thiếu sót, những điểm yếu cần phải khắc phục trong nội tại đơn vị và những bất cập về cơ chế, chế độ của
cơ quan quản lý cần phải sửa đổi cho phù hợp. Xuất phát từ tính cấp thiết và tầm quan trọng của việc cần
phải hiểu biết về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán, bài viết tập trung nghiên cứu việc nắm
chắc về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán trong suốt các giai đoạn của cuộc kiểm toán từ đó
đưa ra một số nội dung cần phải nắm rõ khi thực hiện kiểm toán mảng doanh nghiệp Quân đội.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 517 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiểu biết hoạt động sản xuất kinh doanh khi kiểm toán doanh nghiệp quân đội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 119 - tháng 9/2017
HIEÅU BIEÁT HOAÏT ÑOÄNG sAÛN XUAÁT
KINH DOANH KHI KIEÅM TOAÙN
DOANH NGHIEÄp QUAÂN ÑOÄI
CN. PHạM HOÀNG THáI*
*Kiểm toán nhà nước Chuyên ngành Ia
Để thực hiện tốt công việc kiểm toán, kiểm toán viên phải có hiểu biết nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề trong nền kinh tế để đưa ra được những ý kiến, những nhận xét đánh giá phù hợp với thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nêu rõ những tồn tại, thiếu sót, những điểm yếu cần phải khắc phục trong nội tại đơn vị và những bất cập về cơ chế, chế độ của
cơ quan quản lý cần phải sửa đổi cho phù hợp. Xuất phát từ tính cấp thiết và tầm quan trọng của việc cần
phải hiểu biết về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán, bài viết tập trung nghiên cứu việc nắm
chắc về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán trong suốt các giai đoạn của cuộc kiểm toán từ đó
đưa ra một số nội dung cần phải nắm rõ khi thực hiện kiểm toán mảng doanh nghiệp Quân đội.
Từ khóa: Hiểu biết kinh doanh, doanh nghiệp, quân đội
Understanding production and business operations when auditing Army’s Enterprises
In order to well perform the auditing work, the auditors must have knowledge in many fields and branches
of the economy in order to produce opinions and recommendation suitable to the actual state of enterprises’
operations, highlight the shortcomings, weaknesses that need to be overcome within the enterprise and
the inadequacies of mechanisms and policies of management agencies need to be amended accordingly.
Starting from the urgency and importance of understanding the subject matter of the audited entity, the
paper focuses on understanding the audited entity’s performance throughout the accounting periods. This
step of the audit provides some background on the audit of the Army’s business sector.
keywords: Business understanding, business, military
Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh
trong lĩnh vực kiểm toán được xem là những am
hiểu, những kinh nghiệm, những kiến thức cần
thiết về lĩnh vực kinh doanh của đơn vị được kiểm
toán nhằm kiểm tra, đánh giá các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh gắn với thực tế hoạt động của đơn
vị. Những hiểu biết đó là cơ sở quan trọng đưa
ra những xét đoán chuyên môn, những kết luận,
kiến nghị kiểm toán phù hợp với loại hình, ngành
nghề của đơn vị được kiểm toán. Hiểu biết hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp Quân đội bao
hàm sự hiểu biết về hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp nói chung và sự am hiểu về mô hình tổ chức
và cơ chế điều hành mang tính chất đặc thù riêng.
1. Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh
Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh
trong kiểm toán là rất quan trọng trong hoạt động
kiểm toán. Hiểu biết hoạt động kinh doanh được
đề cập trong một số chuẩn mực của Kiểm toán
nhà nước, nó mang tính định hướng và là khung
pháp lý giúp thực hiện kiểm toán. Nội dung về
hiểu biết hoạt động kinh doanh được thể hiện tại
đoạn 17 của chuẩn mực Kiểm toán nhà nước số
1315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng
yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán
và môi trường hoạt động của đơn vị trong kiểm
toán tài chính:
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 119 - tháng 9/2017
Kiểm toán viên nhà nước phải tìm hiểu các
thông tin sau:
(i) Lĩnh vực, ngành nghề quản lý hoạt động; các
quy định pháp lý và các yếu tố khác có liên quan
như: Lĩnh vực quản lý, hoạt động của đơn vị; chế
độ kế toán liên quan
(ii) Đặc điểm của đơn vị: Chức năng, nhiệm vụ;
cơ cấu tổ chức bộ máy, sự phân cấp và mối quan hệ
giữa các đơn vị trực thuộc trong hệ thống tổ chức
bộ máy; quy trình hoạt động và các thay đổi đáng
kể so với các kỳ trước trong hoạt động của đơn vị
(iii) Chính sách kế toán mà đơn vị đang áp dụng
và lý do thay đổi (nếu có), như: Các phương pháp
mà đơn vị sử dụng để hạch toán các nghiệp vụ kinh
tế; những thay đổi trong chính sách kế toán
(iv) Mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện và cách thức
đo lường, đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị:
Mục tiêu và nhiệm vụ về phát triển mở rộng ngành
nghề, quy mô hoạt động
Bên cạnh đó, Sự hiểu biết về hoạt động kinh
doanh còn được đề cập tại mục (iv), đoạn 37, Chuẩn
mực kiểm toán nhà nước số 200 - Các nguyên tắc
cơ bản của kiểm toán tài chính: Các năng lực và
kỹ năng cần thiết để thực hiện cuộc kiểm toán bao
gồm: “Hiểu biết về các ngành có liên quan thuộc
lĩnh vực được kiểm toán”. Nghĩa là để thực hiện
kiểm toán BCTC, Kiểm toán viên phải có kiến thức
đầy đủ về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của
đơn vị được kiểm toán.
Việc nắm rõ và hiểu biết về hoạt động kinh
doanh của đơn vị giúp kiểm toán đánh giá, phân
tích được các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thực
tiễn hoạt động của đơn vị, đem lại cho kiểm toán
viên cái nhìn tổng quát, rõ ràng về đối tượng kiểm
toán, về nghiệp vụ tài chính phản ánh hoạt động
kinh doanh, môi trường kinh doanh, quy định nội
bộ của đơn vị, của ngành mà doanh nghiệp đang áp
dụng, xác định được trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh của đơn vị
kiểm toán được sử dụng trong tất cả các giai đoạn
của cuộc kiểm toán cụ thể:
- Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán (lập Kế hoạch
kiểm toán):
Hiểu biết về hoạt động kinh doanh sẽ giúp kiểm
toán viên thu thập được các thông tin quan trọng
khi khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán, đánh giá trọng
yếu và rủi ro kiểm toán đối với đơn vị được kiểm
toán, bên cạnh đó việc hiểu biết về hoạt động kinh
doanh còn giúp kiểm toán viên thu thập các thông
tin cần thiết từ các nguồn bên ngoài thông qua báo
chí, mạng internet, ấn phẩm chuyên ngành, thảo
luận với chuyên gia trong lĩnh vực sắp kiểm toán
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 55Số 119 - tháng 9/2017
để hiểu sâu hơn về đơn vị được kiểm toán, về môi
trường hoạt động kinh doanh của đơn vị, qua đó
giúp kiểm toán viên có những kiến thức sâu rộng
về lĩnh vực của đơn vị được kiểm toán, xây dựng kế
hoạch và chương trình kiểm toán, lựa chọn thủ tục
kiểm toán, phương pháp kiểm toán nhằm đạt được
mục tiêu kiểm toán với thời gian ngắn nhất.
- Giai đoạn thực hiện kiểm toán: Sự hiểu biết
về hoạt động kinh doanh sẽ giúp kiểm toán viên
đưa ra được các đánh giá và nhận định phù hợp
với điều kiện, môi trường kinh doanh của đơn vị;
nhận định được rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát;
phân tích rủi ro kinh doanh, đánh giá phương án
giải quyết rủi ro trong kinh doanh của đơn vị được
kiểm toán; Việc hiểu biết về hoạt động kinh doanh
là căn cứ, yếu tố quan trọng giúp kiểm toán viên
thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán, đánh
giá tính thích hợp, sự phù hợp của các bằng chứng
này đối với kết luận và nhận xét của kiểm toán viên
về hoạt động của đơn vị và nghiệp vụ kinh tế có
liên quan. Ngoài ra, sự hiểu biết về hoạt động kinh
doanh còn giúp kiểm toán viên xác định mối liên
hệ giữa các bên liên quan, nghiệp vụ phát sinh giữa
các bên liên quan; các thông tin có mâu thuẫn với
số liệu báo cáo tài chính đồng thời xem xét sự phù
hợp của chế độ kế toán với các thông tin trình bày
trên báo cáo tài chính trong quá trình thực hiện
kiểm toán.
Thông qua hiểu biết về hoạt động kinh doanh,
kiểm toán viên lựa chọn các thủ tục kiểm toán cần
thiết để kiểm tra các nghiệp vụ kế toán có thực hiện
đúng với các văn bản chế độ hiện hành của Nhà
nước (chế độ kế toán, văn bản pháp luật về thuế, tài
chính và các chính sách pháp luật khác có liên quan
trong hoạt động của đơn vị), quy định nội bộ của
đơn vị, của ngành mà doanh nghiệp đang áp dụng
cho năm tài chính được kiểm toán và các năm có
liên quan. Qua đó, kiểm toán viên sẽ đưa ra những
kết luận phù hợp về tình hình tài chính của đơn vị,
chỉ ra những sai sót mà đơn vị cần phải sửa chữa,
khắc phục trong các nghiệp vụ kinh tế cũng như tư
vấn cho đơn vị được kiểm toán thực hiện đúng chế
độ, chính sách đang áp dụng, phù hợp với thực tiễn
ngành nghề kinh doanh của mình.
- Giai đoạn lập và gửi báo cáo kiểm toán: Ở
giai đoạn này, hiểu biết về tình hình kinh doanh
của đơn vị được kiểm toán sẽ giúp Tổ kiểm toán,
Đoàn kiểm toán đưa ra các kết luận kiến nghị kiểm
toán, đánh giá sự phù hợp của các kết luận kiến
nghị kiểm toán đặt trong điều kiện thực tế hoạt
động sản xuất kinh doanh của đơn vị xem có phù
hợp và mang tính chỉnh sửa hoạt động kinh doanh
cũng như nền nếp tài chính của đơn vị được kiểm
toán không? Các kiến nghị có giúp hoạt động của
đơn vị thay đổi và cải tiến theo hướng tốt lên hay
không? Để đảm bảo các kết luận, kiến nghị kiểm
toán mang tính thực tiễn và thực thi cao.
- Giai đoạn kiểm tra thực hiện kết luận, kiến
nghị kiểm toán: Trên cơ sở các kết luận, kiến nghị
kiểm toán mang tính thực tiễn và thực thi cao, phù
hợp với điều kiện thực tế hoạt động sản xuất kinh
doanh của đơn vị giúp đơn vị thực hiện kiến nghị
kiểm toán thuận lợi, rút ngắn thời gian kiểm tra
thực hiện kiến nghị, giảm bớt đầu mối kiểm tra
trong toàn ngành và nâng cao chất lượng báo cáo
kiểm tra thực hiện kiến nghị.
2. Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh
trong quân đội
Hiện nay, hoạt động sản xuất, xây dựng kinh
tế là một trong 3 chức năng nhiệm vụ của Quân
đội nhân dân Việt Nam. Lĩnh vực kinh doanh của
các doanh nghiệp trong Quân đội rất đa dạng gồm
nhiều ngành nghề, lĩnh vực như: Ngân hàng, bảo
hiểm; Viễn thông; Xuất nhập khẩu, Kinh doanh
xăng dầu; Xây dựng, giao thông; Kinh doanh vận
tải; Khai thác khoáng sản; đóng mới, sửa chữa máy
móc thiết bị khí tài, gia công cơ khí; may mặc, chế
biến lượng thực; trồng cây công nghiệp; kinh doanh
thương mại Các doanh nghiệp trong Quân đội
bên cạnh việc là đơn vị sản xuất sản phẩm cho xã
hội còn góp phần giữ vững tiềm lực quốc phòng,
thế trận chiến tranh, khi có tình huống xảy ra, các
doanh nghiệp này có thể chuyển trạng thái ngay
thành các Trung đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn, Binh
đoàn tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc.
Đến nay, số đầu mối doanh nghiệp Quân đội
là hơn 80 đầu mối. Nhiều doanh nghiệp quân đội
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN56 Số 119 - tháng 9/2017
trở thành những thương hiệu mạnh, có vị thế hàng
đầu trong ngành nghề kinh doanh của mình như:
Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB bank),
Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, Tổng công ty Xây
dựng Lũng Lô, Tổng công ty Đông Bắc, Tổng công
ty Trực thăng Việt Nam Chỉ tính riêng năm 2015,
doanh thu của các doanh nghiệp Quân đội đã đạt
hơn 335.000 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt hơn
49.000 tỷ đồng, nộp ngân sách hơn 44.000 tỷ đồng.
Thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng
năm, các Doanh nghiệp Quân đội tham gia đóng
góp tổng số kinh phí khá lớn cho NSNN và NSQP,
tạo việc làm cho hàng triệu lao động trong và ngoài
quân đội, góp phần ổn định kinh tế XH và phát
triển đất nước. (Nguồn: báo QĐND online)
Kiểm toán lĩnh vực doanh nghiệp Quân đội
trong những năm qua đã đạt được một số kết quả
nhất định đó là:
- Giúp nâng cao vai trò quản lý, giám sát của
nhà nước trong lĩnh vực kinh tế trong Quân đội;
- Kiến nghị cơ quan nhà nước sửa đổi cơ chế,
chính sách phù hợp với đặc thù hoạt động của
doanh nghiệp quân đội;
- Giúp các đơn vị được kiểm toán hoàn thiện bộ
máy, nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao năng
lực của đội ngũ kế toán trong doanh nghiệp;
- Tăng thu đáng kể cho Ngân sách nhà nước và
ngân sách Quốc phòng.
Để nâng cao chất lượng kiểm toán trong lĩnh
vực doanh nghiệp Quân đội, ngoài việc thực hiện
đầy đủ các chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy
trình kiểm toán, các văn bản pháp lý thì cần tập
trung nghiên cứu, tìm hiểu các nội dung đặc thù
liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp theo các nội dung cụ thể sau:
- Một là, về mô hình tổ chức, cơ cấu biên chế:
Bố trí một số lượng sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân viên quốc phòng phục vụ nhiệm
vụ quân sự;
- Hai là, về cơ chế quản lý, hoạt động: Giao một
số nhiệm vụ phục vụ quốc phòng bên cạnh nhiệm
vụ kinh tế, giao địa điểm đóng quân làm trụ sở, hỗ
trợ một số khoản kinh phí từ NSQP (chi giáo dục:
nhà trẻ, mẫu giáo, nâng cao năng lực sản xuất),
nộp điều tiết;
- Ba là, về cơ cấu vốn và tài sản: Gồm cả 2 nhóm
vốn cho sản xuất kinh doanh và tài sản quân sự
(đất, trang thiết bị, xe máy), với cơ chế huy động
vốn khó khăn, phức tạp;
- Bốn là, quan hệ hành chính quân sự và kinh tế
giữa công ty mẹ và công ty con (ví dụ như trường
hợp Tổng công ty XNK Vạn Xuân và Tổng công ty
XD Quân đội);
- Năm là, quan hệ quản lý hoạt động theo ngành
dọc như chịu sự quản lý theo ngành dọc của các
Cục Tài chính, Cục Kinh tế và các Cục Chuyên
ngành khác;
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
quân đội rất đa dạng và tương đối đặc thù. Ngoài
việc nắm chắc chuyên môn, nghiệp vụ các văn bản
pháp luật, chế độ kế toán hiện hành thì việc nắm
rõ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị được
kiểm toán luôn được xác định là việc làm quan
trọng và thường xuyên. Việc hiểu rõ, hiểu sâu về
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong quá
trình kiểm toán là thực sự cần thiết và phải luôn
được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của quá
trình kiểm toán, đồng thời kiểm toán viên cũng cần
phải thường xuyên cập nhập những thay đổi trong
hoạt động kinh doanh của đơn vị, sẽ giúp công việc
kiểm toán đạt hiệu quả cao, tiết kiệm thời gian và
kinh phí trong quá trình thực hiện kiểm toán, nâng
cao chất lượng, hiệu quả của cuộc kiểm toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 376/QĐ-KTNN ngày
15/4/2013 của Tổng KTNN ban hành hướng
dẫn kiểm toán lĩnh vực doanh nghiệp.
2. Hệ thống chuẩn mực Kiểm toán nhà nước
ban hành theo Quyết định số 02/2016/
QĐ-KTNN ngày 15/7/2016;
3. Phát huy tốt hơn vai trò của quân đội trong
nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế (báo
Quân đội Nhân dân online) - Thiếu tướng Võ
Hồng Thắng - Cục trưởng Cục Kinh tế - BQP.
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 57Số 119 - tháng 9/2017
CÔÛI MÔÛ VEà CHUÛ TrÖÔNG, KHOÙ DEÃ
TrONG THÖÏC THI
MINH ANH
Chính saùCh thueá vôùi doanh nghieäp:
Chính phủ đã có chủ trương giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực thi các chính sách này trong thực tiễn vẫn chưa đánh dấu những bước tiến đáng kể.
Theo bà Hương Vũ, Phó Tổng giám đốc Công
ty TNHH Ernst & Young Việt Nam (EY), hai văn
bản đáng chú ý nhất về môi trường kinh doanh
được Chính phủ ban hành thời gian gần đây là
Nghị quyết 35/2016 và Chỉ thị 20/CT-TTg ngày
17/5/2017.
Theo đó, tại Nghị quyết 35/2016 của Chính
phủ về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm
2020, các nội dung nổi bật được nêu là: cải cách
hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; tạo
dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; bảo
đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận
nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp;
giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Tại Chỉ thị 20, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu
tập trung chỉ đạo khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch
thanh tra hàng năm không để xảy ra tình trạng
thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh
nghiệp. Đồng thời chỉ đạo tiến hành các cuộc
thanh tra theo đúng định hướng, kế hoạch thanh
tra đã phê duyệt; nội dung thanh tra phải giới hạn
trong phạm vi quản lý nhà nước được giao; chủ
động kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch
thanh tra khi cần thiết theo hướng không làm tăng
số cuộc thanh tra; ban hành kết luận thanh tra phải
đúng thời hạn theo quy định.
Đây được đánh giá là những động thái chính
sách quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành
chính và có ảnh hưởng không nhỏ tới họat động
doanh nghiệp.
Dù vậy, đánh giá từ (EY) Việt Nam cho biết,
số lượng các cuộc thanh kiểm tra thuế tại doanh
nghiệp tăng đáng kể, trong đó, cơ quan thuế ngày
càng quan tâm và xem xét chặt chẽ bản chất, tài
liệu của các giao dịch với các bên liên kết, tính hợp
lý của phương thức xác định giá cũng như mức độ
liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. “Tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp cơ
quan thuế và hải quan đưa ra cách áp dụng thuế
không phù hợp khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn”, bà Hương Vũ chia sẻ.
Trường hợp của một doanh nghiệp tại Bắc Ninh
là ví dụ điển hình cho tình trạng này. Cách đây mấy
tháng, sau khi tham chiếu các quy định hiện hành,
một doanh nghiệp tại Bắc Ninh nộp hồ sơ đề nghị
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần lãi
tiền gửi phát sinh trên địa bàn. Doanh nghiệp này
đáp ứng đủ các điều kiện về thu nhập phát sinh từ
hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn ưu đãi,
địa điểm đặt cơ sở sản xuất kinh doanh tại địa bàn
được ưu đãi. Tuy nhiên, cơ quan thuế đã từ chối hồ
sơ này với lý do: “ngân hàng nhận và chi trả lãi tiền
gửi cho doanh nghiệp này không đóng tại địa bàn
ưu đãi”.
Đây là câu chuyện được bà Nguyễn Hương,
Giám đốc dịch vụ tư vấn thuế, EY Việt Nam chia sẻ
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN58 Số 119 - tháng 9/2017
tại hội thảo này. Điều này cho thấy cách vận dụng
các chính sách rất “linh hoạt” và đã gây bất lợi cho
doanh nghiệp theo hướng không thể dự đoán.
Bên cạnh đó, một số quy định vẫn còn chưa
được làm rõ nội dung khiến doanh nghiệp khó áp
dụng trong thực tiễn. Một trường hợp được nhắc
đến là Nghị định 20/2017 về quản lý thuế với công
ty có giao dịch liên kết mới có hiệu lực gần dây.
Nghị định này quy định lãi vay bị khống chế là tổng
chi phí lãi vay từ bên liên kết và chi phí lãi vay từ
bên độc lập. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn
chưa rõ chi phí lãi vay bị khống chế có bao gồm chi
phí lãi vay được vốn hóa trong kỳ hay không, chi
phí lãi vay bị khống chế là phần chi phí lãi vay trước
hay sau khi bù trừ với thu nhập từ lãi cho vay nhận
được. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 1/5/2017
song không quy định cách tính toán cho năm tài
chính 2017 cũng là điểm trở ngại khi doanh nghiệp
áp dụng trong thực tế.
Cũng liên quan đến nội dung này, ông Nguyễn
Tấn Phát, Phó Tổng Giám đốc EY Việt Nam chia
sẻ kinh nghiệm thực tiễn thanh tra về giá giao dịch
liên kết. Theo đó, cơ quan thuế so sánh tỷ suất lợi
nhuận trong các giao dịch/phân khúc kinh doanh
do chính công ty thực hiện với bên độc lập và với
bên liên kết. áp dụng tỷ suất lợi nhuận cho từng
phân khúc, lĩnh vực kinh doanh của người nộp
thuế. Truy vấn việc thay đổi phương pháp kê khai
cho cùng một giao dịch trong các kỳ tính thuế khác
nhau. Các công ty tương đồng trong nước được ưu
tiên lựa chọn. Đáng chú ý, cơ quan thuế có thể sử
dụng dữ liệu không công khai để ấn định giá giao
dịch liên kết.
Trong quá trình thanh tra, cơ quan thuế thường
gợi ý cho doanh nghiệp tự điều chỉnh giá giao dịch
liên kết hoặc tỷ suất lợi nhuận, đưa ra biên bản đề
xuất một mức lợi nhuận hoặc giá và yêu cầu doanh
nghiệp ký đồng ý. Cơ quan thuế cũng ra quyết định
điều chỉnh giá giao dịch liên kết, truy thu thuế và
phạt vi phạm.
Do đó, lời khuyên của các chuyên gia tư vấn
thuế dành cho doanh nghiệp là nên chuẩn bị chi
tiết các chứng từ chứng minh các giao dịch cùng
với các lý lẽ lập luận xác đáng khi làm việc với cơ
quan thuế để tránh bị áp thuế ở mức bất lợi cho
doanh nghiệp.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 59Số 119 - tháng 9/2017
HÖÔÙNG TÔÙI MUÏC TIEÂU
XUAÁT KHAÅU OÂ TOÂ
MINH DUY
Ñeà xuaát giaûm thueá nhaäp khaåu linh kieän oâ toâ veà 0%:
Bộ Tài chính vừa đề xuất hai phương án giảm thuế nhập khẩu linh kiện ô tô về 0% với nhận định việc điều chỉnh thuế nhập khẩu linh kiện ô tô sẽ khuyến khích doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô ở Việt Nam giảm giá bán, nâng cao sức cạnh tranh so với xe ô tô nhập khẩu.Tuy nhiên, việc giảm thuế nhập khẩu linh kiện cho dòng xe nào sẽ được cân nhắc và đảm bảo
mục tiêu đặt ra là tăng tỉ lệ nội địa hóa với ôtô, góp phần thúc đẩy ngành cô