Đặt vấn đề: Đau sau phẫu thuật thay khớp háng ảnh hưởng tiêu cực đến vận động và tâm lý của bệnh
nhân. Xử trí đau không hợp lý có thể gây ra một số biến chứng làm giảm chất lượng cuộc sống, tăng ngày nằm
viện và tăng phí chăm sóc. Giảm đau thường quy không đáp ứng được yêu cầu giảm đau của người bệnh. Giảm
đau đa mô thức đang là xu thế hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Là đánh giá hiệu quả của phương pháp giảm đau đa mô thức so với phương pháp
giảm đau thường quy trong phẫu thuật thay khớp háng bán phần (tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các trường hợp có chỉ định phẫu thuật thay khớp háng bán
phần không xi măng tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 10/2012 đến 01/2014. Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn loại
trừ được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: nhóm A áp dụng giảm đau đa mô thức, nhóm B áp dụng giảm đau theo
cách thường quy. Đánh giá cường độ đau theo thang điểm VAS (Visual Analogue Scale), mức độ đau nhiều nhất
và ít nhất theo thang điểm BPI (Brief Pain Inventory) vào ngày 1, 2, 3, 4, ngày 7 sau phẫu thuật. Đánh giá biên
độ vận động khớp và thời điểm hợp tác tập vật lý trị liệu. Ghi nhận các biến chứng liên quan đau, tác dụng phụ
của thuốc giảm đau, các biến chứng do thủ thuật.
Kết quả: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tuổi và giới tính, thời gian mổ. Mặc dù điểm đau VAS ở
hai nhóm tương tự nhau vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật, nhưng có sự khác biệt đáng kể vào 4 ngày đầu sau phẫu
thuật. Nhóm A có điểm đau ở mức độ nhẹ chiếm đa số, ít sử dụng giảm đau khẩn cấp, phục hồi biên độ khớp sớm,
hợp tác sớm với vật lý trị liệu, bệnh nhân rất hài lòng và xuất viện sớm. Trong khi ở nhóm B có điểm đau ở mức
độ trung bình và nặng chiếm đa số trong các ngày đầu sau phẫu thuật, sử dụng nhiều giảm đau khẩn cấp, phục
hồi biên độ khớp chậm, hợp tác muộn với vật lý trị liệu, bệnh nhân ít hài lòng và xuất viện muộn. Ngoài ra các
biến chứng nguy hiểm liên quan đau như ức chế hô hấp, viêm phổi, huyết khối tĩnh mạch chỉ xảy ra ở nhóm B mà
không xảy ra ở nhóm A. Nhóm A xảy ra các tác dụng phụ nhẹ và không đáng kể.
Kết luận: Giảm đau đa mô thức cho hiệu quả vượt trội hơn giảm đau thường quy. Giảm đau đa mô thức là
phương pháp giảm đau an toàn.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả kiểm soát đau bằng giảm đau đa mô thức trong thay khớp háng bán phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 52
HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT ĐAU BẰNG GIẢM ĐAU ĐA MÔ THỨC
TRONG THAY KHỚP HÁNG BÁN PHẦN
Lâm Đạo Giang*, Đinh Hữu Hào*, Đỗ Phước Hùng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đau sau phẫu thuật thay khớp háng ảnh hưởng tiêu cực đến vận động và tâm lý của bệnh
nhân. Xử trí đau không hợp lý có thể gây ra một số biến chứng làm giảm chất lượng cuộc sống, tăng ngày nằm
viện và tăng phí chăm sóc. Giảm đau thường quy không đáp ứng được yêu cầu giảm đau của người bệnh. Giảm
đau đa mô thức đang là xu thế hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Là đánh giá hiệu quả của phương pháp giảm đau đa mô thức so với phương pháp
giảm đau thường quy trong phẫu thuật thay khớp háng bán phần (tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các trường hợp có chỉ định phẫu thuật thay khớp háng bán
phần không xi măng tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 10/2012 đến 01/2014. Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn loại
trừ được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: nhóm A áp dụng giảm đau đa mô thức, nhóm B áp dụng giảm đau theo
cách thường quy. Đánh giá cường độ đau theo thang điểm VAS (Visual Analogue Scale), mức độ đau nhiều nhất
và ít nhất theo thang điểm BPI (Brief Pain Inventory) vào ngày 1, 2, 3, 4, ngày 7 sau phẫu thuật. Đánh giá biên
độ vận động khớp và thời điểm hợp tác tập vật lý trị liệu. Ghi nhận các biến chứng liên quan đau, tác dụng phụ
của thuốc giảm đau, các biến chứng do thủ thuật.
Kết quả: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tuổi và giới tính, thời gian mổ. Mặc dù điểm đau VAS ở
hai nhóm tương tự nhau vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật, nhưng có sự khác biệt đáng kể vào 4 ngày đầu sau phẫu
thuật. Nhóm A có điểm đau ở mức độ nhẹ chiếm đa số, ít sử dụng giảm đau khẩn cấp, phục hồi biên độ khớp sớm,
hợp tác sớm với vật lý trị liệu, bệnh nhân rất hài lòng và xuất viện sớm. Trong khi ở nhóm B có điểm đau ở mức
độ trung bình và nặng chiếm đa số trong các ngày đầu sau phẫu thuật, sử dụng nhiều giảm đau khẩn cấp, phục
hồi biên độ khớp chậm, hợp tác muộn với vật lý trị liệu, bệnh nhân ít hài lòng và xuất viện muộn. Ngoài ra các
biến chứng nguy hiểm liên quan đau như ức chế hô hấp, viêm phổi, huyết khối tĩnh mạch chỉ xảy ra ở nhóm B mà
không xảy ra ở nhóm A. Nhóm A xảy ra các tác dụng phụ nhẹ và không đáng kể.
Kết luận: Giảm đau đa mô thức cho hiệu quả vượt trội hơn giảm đau thường quy. Giảm đau đa mô thức là
phương pháp giảm đau an toàn.
Từ khóa: Giảm đau đa mô thức.
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF MULTIMODAL PAIN MANAGEMENT
AFTER HIP BIPOLAR HEMIARTHROPLASTY
Lam Dao Giang, Dinh Huu Hao, Do Phuoc Hung,
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 52 - 59
Background: Painafterhip replacement badlyaffects patient’s motionand mental function.
Impropermanagement of pain can causeanumber of complications, reducequality of life, increase costs and
duration of stay. Regular analgesics can not satisfy the patient’s requirement. Multimodal analgesicis is the trend
* Bệnh viện Nhân dân Gia Định
** Bộ môn Chấn thương chỉnh hình & Phục hồi chức năng ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc:BS. Lâm Đạo Giang ĐT: 0913152716 Email:bsgiang77@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 53
today.
Objectives: To evaluate the effectiveness of multimodal method versus conventional treatment for pain relief
of patients in bipolar hip replacement (at Nhan Dan Gia Dinh Hospital).
Materials and method: From 10/2012 to 01/2014 all cases indicated noncemented bipolar hip replacement
were involved at Nhan Dan Gia Dinh Hospital. Patients met selective criteria were randomized into 2 groups:
group A was applied multimodal analgesic, group B applied conventional analgesic. The level and intensity of
pain were assessed according to VAS (Visual Analogue Scale) and BPI scale (Brief Pain Inventory) on the 1st, 2nd,
3rd, 4th, 7th day of postoperation. ROM, the time to start collaborating physiotherapy, the complications associated
with pain, side effects of pain medications, and complications from the analgesic procedures were also recorded.
Results: There was no difference between the two groups relating age, gender, and operative time. Although
VAS scores were similar in both group sat the 7th day postoperation, but there was significant difference in the
first 4day postoperation. Group A had majority of mild pain, lessuse of urgentpainkillers, earlier restore of ROM
and cooperation with physiotherapy. Patients were very satisfied and discharged sooner. Group B had majority of
moderate and severe pain in the first day postoperation, more use of urgent pain reliefs, delayed restore of ROM
and cooperation with physiotherapy. Patients were less satisfied and discharged laterly. In addition, serious
complications associated with pain such as respiratory depression, pneumonia, venous thrombosis only
occurredingroup B.
Conclusions: Multimodal analgesiahas superior effectiveness over conventional analgesia in aspects of pain
relief and consequence of pain. Multimodal analgesia is a relative safe method.
Key word: Multimodal analgesia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ hơn 40 năm qua, đau sau phẫu thuật còn
là mối quan tâm của nhiều phẫu thuật viên và
kiểm soát đau sau phẫu thuật vẫn là một thách
thức. Một nghiên cứu của Warfield và Kahn 1995
cho thấy có đến 80% bệnh nhân bị đau từ trung
bình đến nặng sau phẫu thuật(18). Đau quá mức
được xem là thất bại sớm của thay khớp nếu như
không kiểm soát được nó, bởi nó có những ảnh
hưởng tiêu cực đến vận động của bệnh nhân và
sự hợp tác của bệnh nhân với vật lý trị liệu(14). Xử
trí đau không hợp lý có thể gây ra những nguy
cơ thuyên tắc tĩnh mạch, thiếu máu cơ tim, nhồi
máu cơ tim, viêm phổi, mất ngủ, rối loạn nhận
thức, chậm lành vết thương và như thế làm giảm
chất lượng cuộc sống và làm tăng ngày nằm
viện, tăng phí chăm sóc (14,17,4,7,8). Nếu đau nhiều
trong suốt giai đoạn sau phẫu thuật có thể dẫn
đến hội chứng đau mạn tính(1,3,14). Những tiến bộ
đáng kể hiểu biết sinh lý đau cho thấy cảm nhận
đau là quá trình phức tạp bao gồm nhiều giai
đoạn và nhiều yếu tố ảnh hưởng trên những giai
đoạn đó. Đó là nền tảng cho việc ra đời của
phương pháp giảm đau đa mô thức.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu can thiệp phân bổ ngẫu nhiên có
nhóm chứng tất cả các trường hợp có chỉ định
phẫu thuật thay khớp háng bán phần không xi
măng tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ
10/2012 đến 01/2014. Bệnh nhân được chia làm
hai nhóm ngẫu nhiên: nhóm A áp dụng phương
pháp giảm đau đa mô thức, nhóm B áp dụng
phương pháp giảm đau thường quy tại khoa.
Các bệnh nhân sau khi được thay khớp háng sẽ
được đánh giá:
- Các biến số liên quan đau: cường độ đau
theo thang điểm đau VAS (Visual Analog scale),
mức độ đau nhiều nhất, đau ít nhất theo BPI
(Brief pain Inventory).
- Các biến số liên quan hệ quả của đau: biên
độ vận động chủ động khớp háng, thời điểm
hợp tác tập vật lý trị liệu, sự hài lòng của bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 54
nhân sau mổ, dùng thuốc giảm đau khẩn cấp.
Các biến chứng sau phẫu thuật liên quan đau.
- Các biến số liên quan đến tác dụng phụ và
tai biến của thuốc hoặc tai biến của thủ thuật.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Bảng1: Đặc tính mẫu nghiên cứu (n=112)
Đặc tính mẫu
Nhóm A (n=56)
Nhóm B
(n=56) Giá trị
p
Tần số% Tần số%
Tuổi (trung bình ±
ĐLC)
67,66 ± 6,92 68,17 ± 5,81 0,0593
Giới
Nữ 41 73,21 38 67,86
0,534
Nam 15 26,79 18 32,14
Lượng máu mất
Trung vị; 25% - 75% 150 (150 – 200)
120 (150 –
200)
Thời gian mổ 62,68 ± 6,10 63,57 ± 6,59 0,4584
Số ngày nằm viện
Trung bình ± ĐLC 11,55 ±5,01 16,14 ± 4,49
Trung vị; 25% - 75% 11 (10 – 11) 16 (14 – 17) 0,000
Nhận xét: Độ tuổi, giới tính trung bình,
lượng máu mất, thời gian mổ tương đồng ở cả
hai nhóm nghiên cứu. Số ngày nằm viện ở nhóm
B cao hơn nhóm A ở mức có ý nghĩa thống kê.
Đau và những hệ quả của đau
Cường độ đau theo thang điểm VAS
Bảng 2: Cường độ đau theo thang điểm đau VAS sau
phẫu thuật
Thời
gian
nghiên
cứu
Nhóm A Nhóm B
Trung bình
(Độ lệch
chuẩn)
Trung vị
(p25 –
p75)
Trung bình
(Độ lệch
chuẩn)
Trung vị
(p25 –
p75)
Giá
trị p
VAS chung
Ngày
1(n=56)
2,54 (1,16) 2 (2 – 3) 6,69 (1,15) 7 (6 – 8)
<0,0
01
Ngày
2(n=56)
2,29 (1,06) 2 (2 – 3) 5,88 (0,94) 6 (5 – 7)
<0,0
01
Ngày
3(n=56)
2,54 (0,95) 2 (2 – 3) 5,23 (0,91) 5 (5 – 6)
<0,0
01
Ngày
4(n=56)
3,18 (0,79) 3 (3 – 4) 3,95 (0,59) 4 (4 – 4)
<0,0
01
Ngày
7(n=56)
2,69 (0,66) 3 (2 - 3) 2,98 (0,59) 3 (3 – 3)
0,05
12
P=0,0151 P < 0,0010
Nhận xét: NhómA có cường độ đau thấp
hơn so với nhóm B trong 4 ngày đầu sau phẫu
thuật. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p<0,001).
Mức độ đau nhiều nhất và ít nhất trong 24 giờ theo BPI
Bảng 3: Tần suất đau nhiều nhất và ít nhất theo thang điểm BPI
Đau nhiều nhất Không đau Tần số (%) Nhẹ Tần số (%) Trung bình Tần số (%) Nặng Tần số (%)
(n=56) A B A B A B
Ngày 1 -- 34 (60, 71) 20 (35,71) 10(17,86) 2(3,57) 46(82,14)
Ngày 2 -- 41 (73,21 ) 13 (23,21) 31(55,36) 2(3,57) 25(44,64)
Ngày 3 -- 38 (67,86) 17 (30,36) 47(63,93) 1(1,79) 9(16,07)
Ngày 4 -- 10 (17,86) 3(5,36) 46 (82,14) 53(94,64) --
Ngày 7 -- 27 (48,21) 17(30,36) 29 (51,79) 39(69,64) --
Bảng 4: Tần suất đau ít nhất theo thang điểm BPI
Đau ít nhất Không đau Tần số (%) Nhẹ Tần số (%) Trung bình Tần số (%) Nặng Tần số (%)
A B A B A B A B
Ngày 1 8 (14,29) 46 (82,14) 11 (19,64) 2 (3,57) 45 (80,36) --
Ngày 2 15 (26,79) 39 (69,64) 28 (50,00) 2 (3,57) 28 (50,00) --
Ngày 3 5 (8,93) 49 (87,50) 43 (76,79) 2 (3,57) 13 (23,21) --
Ngày 4 4 (7,14) 52 (92,86) 53 (94,64) -- 3 (5,36) --
Ngày 7 3 (5,36) 53 (94,64) 55 (98,21) -- 1 (1,79) --
Nhận xét: Ở nhóm A, lúc đau nhiều nhất thì
mức độ đau nhẹ chiếm đa số vào 3 ngày đầu sau
phẫu thuật, còn lúc đau ít nhất thì mức độ đau
nhẹ chiếm phần lớn ở các ngày sau phẫu thuật.
Ở nhóm B, lúc đau nhiều nhất thì mức độ đau
nặng chiếm đa số vào ngày đầu sau phẫu thuật
và mức độ đau trung bình chiếm phần lớn ở các
ngày còn lại. Lúc đau ít nhất thì mức độ đau
nhiều nhất chiếm đa số vào 2 ngày đầu sau phẫu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 55
thuật, các ngày còn lại thì mức độ đau nhẹ chiếm
đa số.
Tần suất sử dụng giảm đau khẩn cấp
Nhóm B cần giảm đau khẩn cấp nhiều vào
ngày đầu sau phẫu thuật và giảm dần vào ngày
2, 3 sau phẫu thuật. Nhóm A ít dùng giảm đau
khẩn cấp vào ngày 1 và không dùng vào ngày 2,
3 sau phẫu thuật.
Bảng 5: Tần suất sử dụng giảm đau khẩn cấp
Nhóm nghiên cứu
Nhóm A
(n=56)
Nhóm B
(n=56)
Tramadol 0,1 g/100ml Tần suất (%) Tần suất (%) Giá trị P
Ngày 1 2 (3,57 ) 46 (82,14 ) <0,001
Ngày 2 0 (0,00) 25 (44,64) <0,001
Ngày 3 0 (0,00) 9 (16,07) 0,001
Sự phục hồi biên độ gấp háng
Bảng 6: Biên độ gấp háng theo thời gian sau phẫu
thuật
Thời gian
nghiên
cứu
Nhóm A Nhóm B
Trung bình
(Độ lệch
chuẩn)
Trung
vị (p25
– p75)
Trung bình
(Độ lệch
chuẩn)
Trung
vị (p25
– p75)
Giá trị
p
Gấp
Ngày 1
(n=56)
60,21
(10,87)
63 (60 –
66)
28 (8,94)
28 (20 –
32)
<0,00
1
Ngày 2
(n=56)
70,75 (8,06)
72 (68 –
76)
41,32
(10,06)
40 (36 –
47)
<0,00
1
Ngày 3
(n=56)
79,04 (6,14)
78 (76 –
82)
53,96 (11,1)
56 (44 –
62)
<0,00
1
Ngày 4
(n=56)
86,57 (5,14)
86 (84 –
90)
65,79
(10,47)
68 (56 –
76)
<0,00
1
Ngày 7
(n=56)
96 (5,96)
96 (94 -
98)
74,75
(12,02)
76 (65 –
84)
<0,00
1
Nhận xét: Biên độ vận động khớp của bệnh
nhân ở nhóm A phục hồi khá tốt vào ngày đầu
tiên sau mổ với biên độ gấp > 60 độ và cải thiện
tăng dần vào các ngày hậu phẫu tiếp theo. Trong
khi biên độ gấp của nhóm B còn hạn chế vào
ngày đầu sau phẫu thuật, nhưng cũng cải thiện
dần đến ngày 7 sau phẫu thuật. So với nhóm A
thì biên độ gấp của nhóm B thấp hơn với mức có
ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Thời điểm bệnh nhân hợp tác tập vật lý trị liệu
sau mổ
Bảng 7: Thời điểm hợp tác tập vật lý trị liệu sau mổ
Thời điểm tập vật lý trị
liệu
Nhóm A Nhóm B Giá trị p
Thời điểm tập vật lý trị
liệu
Nhóm A Nhóm B Giá trị p
Trung bình ± ĐLC 1,54 ± 0,76 3,39 ± 0,68
<0,001
Trung vị (25% - 75%) 1 (1 – 2) 3 (3 – 4)
Nhận xét: Bệnh nhân ở nhóm A hợp tác tập
vật lý trị liệu vào ngày đầu sau mổ, trong khi
nhóm B thì hợp tác với vật lý trị liệu vào ngày 3
sau mổ.
Sự hài lòng của bệnh nhân sau phẫu thuật
Bảng 8: Bảng điểm về sự hài lòng của bệnh nhân sau
phẫu thuật
Điểm hài lòng
Nhóm A
Trung bình ±
DLC
Nhóm B
Trung bình ±
DLC
Giá trị P
Ngày 1 8,23 ± 0,94 5,31± 0,65 <0,001
Ngày 2 8,72± 1,10 5,41 ± 0,66 <0,001
Ngày 3 8,64 ± 1,23 5,47 ± 0,79 <0,001
Ngày 4 7,96 ± 1,12 6,13± 0,58 <0,001
Ngày 7 8,92 ± 1,24 6,24 ± 0,46 <0,001
Nhận xét: Bệnh nhân ở nhóm A rất hài lòng
vào ngày đầu sau phẫu thuật và kéo dài đến
ngày thứ 7 sau phẫu thuật. Trong khi ở nhóm B,
bệnh nhân ít hài lòng vào 3 ngày đầu và hài lòng
vào ngày thứ 4, 7 sau phẫu thuật.
Các biến chứng liên quan đau sau phẫu thuật
Nhận xét: Ức chế hô hấp (7,14%)viêm
phổi(3,57%) huyết khối tĩnh mạch (5,36%) chỉ xảy
ra ở nhóm B mà không xảy ra ở nhóm A. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Bí tiểu xảy
ra ở nhóm B (7,14%) cao hơn nhóm A (3,57%),
tuy nhiên sự khác biệt không có nghĩa thống kê
(P>0,05).
Biến chứng và tác dụng phụ của thuốc, tai biến
liên quan thủ thuật
Biến chứng và tác dụng phụ thuốc
Viêm dạ dày cũng có xảy ra ở nhóm B
(5,36%) và không có ở nhóm A. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (P<0,05). Buôn nôn và nôn xảy ra
ở nhóm B (32,14%) nhiều hơn ở nhóm A (5,36%).
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Chóng mặt xảy ra ở cả hai nhóm, ở nhóm A
(12,5%) thấp hơn nhóm B (16,07%). Tuy nhiên sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tê
chân (10,71%), ngủ gà ngủ gật (10,71%) chỉ xảy ra
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 56
ở nhóm A, không có ở nhóm B. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p=0,012). Ngoài ra, các biến
chứng khác như xuất huyết tiêu hóa, dị ứng
thuốc, tụt huyết áp, chúng tôi ghi nhận không
thấy xảy ra ở cả hai nhóm nghiên cứu.
Các tai biến liên quan thủ thuật
Các tai biến do thủ thuật như đau đầu, tê
toàn bộ tủy sống, hội chứng chùm đuôi ngựa,
viêm màng não do nhiễm trùng, tụ máu chèn ép
thần kinh không xảy ra ở cả hai nhóm. Đau lưng
xảy ra ở nhóm A (5,36%) không xảy ra ở nhóm B.
Nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05).
BÀN LUẬN
Hiệu quả vượt trội của phương pháp giảm đau
đa mô thức so với phương pháp giảm đau
thường quy
Thứ nhất, là đạt được hiệu quả giảm đau tốt
Xóa đi nỗi ám ảnh của đau, giúp bệnh nhân
hài lòng hơn vào những ngày đầu sau phẫu
thuật và cải thiện chất lượng cuộc sống vào
những ngày tiếp theo sau đó. Kết quả ở bảng 2
thể hiện trong 4 ngày đầu sau phẫu thuật điểm
đau VAS ở nhóm B lần lượt là 7; 6; 5; 4. Trong
khi điểm đau VAS trong 4 ngày đầu sau phẫu
thuật ở nhóm A lần lượt là 2; 2; 2; 3. Kết quả này
cho thấy có sự khác biệt đáng kể về điểm đau
giữa hai nhóm giảm đau. Sự khác biệt này thể
hiện ở chỗ cường độ đau của người bệnh ở
nhóm B còn cao và chiếm đa số ở mức độ trung
bình và nặng trong 4 ngày đầu sau phẫu thuật,
nhưng với nhóm A cường độ đau giảm xuống
thấp đáng kể và mức độ đau nhẹ chiếm đa số
trong 4 ngày đầu sau phẫu thuật. Khảo sát thêm
lúc người bệnh đau nhiều nhất và lúc đau ít nhất
trong 24 giờ của 3 ngày đầu sau phẫu thuật. Kết
quả ở bảng 3 cho thấy, người bệnh ở nhóm B lúc
nào cũng đau ở mức độ trung bình và có lúc đau
ở mức độ nặng, trong khi người bệnh ở nhóm A
lúc nào cũng đau ở mức độ nhẹ và có lúc không
đau.
Khi tham khảo các nghiên cứu về phương
pháp giảm đau đa mô thức trong phẫu thuật
thay khớp háng trên thế giới, chúng tôi thấy
rằng nhận định về hiệu quả giảm đau của
phương pháp giảm đau đa mô thức so với
phương pháp giảm đau thường quy của chúng
tôi cũng tương đồng với một số nghiên cứu của
các tác giả nước ngoài(6,12,13).
Nghiên cứu của Hebl JR và cộng sự (2005)(6)
cũng cho thấy hiệu quả giảm đau đáng kể của
phương pháp giảm đau đa mô thức so với
phương pháp giảm đau thường quy trong phẫu
thuật thay khớp háng. Tác giả so sánh với nhóm
chứng đã sử dụng phương pháp giảm đau
thường quy trước đó, kết quả cho thấy giảm
được trung bình của điểm đau tối đa VAS từ 7
điểm ở nhóm chứng xuống còn 2 điểm ở nhóm
giảm đau đa mô thức vào ngày đầu sau phẫu
thuật, các ngày hậu phẫu tiếp theo cũng cho thấy
điểm đau tối đa VAS giảm đáng kể của nhóm sử
dụng phương pháp giảm đau đa mô thức so với
nhóm chứng với mức có ý nghĩa thống kê
(p<0,001). Nghiên cứu can thiệp phân bổ ngẫu
nhiên có nhóm chứng của Parvataneni HK và
cộng sự (2007)(13) cho thấy, điểm đau VAS trung
bình trong 3 ngày đầu sau phẫu thuật ở nhóm sử
dụng phương pháp giảm đau thường quy (giảm
đau Morphine do bệnh nhân tự điều chỉnh) lần
lượt là 5,6; 4,1; và 4,5 giảm xuống còn 3,8; 2,8 và
2,6 ở nhóm sử dụng phương pháp giảm đau đa
mô thức và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05). Nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên có
nhóm chứng của Lee KJ và cộng sự (2009)(11). Kết
quả trong nghiên cứu này cho thấy hiệu quả
giảm đau rất đáng kể của phương pháp giảm
đau đa mô thức, như điểm đau VAS trung bình
vào 3 ngày đầu sau phẫu thuật lần lượt là 7,6; 4,9;
và 3,6 ở nhóm sử dụng phương pháp giảm đau
thường quy giảm xuống còn 3,0; 2,0 và 2,1 ở
nhóm sử dụng phương pháp giảm đau đa mô
thức.
Đau nhiều sau phẫu thuật khiến cho bệnh
nhân không hài lòng trong suốt quá trình nằm
viện, điều này được xem như là nỗi ám ảnh hay
tổn thương mặt tâm lý của bệnh nhân. Kết quả ở
bảng 7 cho thấy bệnh nhân ở nhóm giảm đau đa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 57
mô thức rất hài lòng vào ngày đầu sau phẫu
thuật, với điểm 8,23 ± 0,94 (theo thang điểm 10)
và kéo dài đến ngày 7 sau phẫu thuật với điểm
hài lòng là 8,92 ± 1,24 (theo thang điểm 10).
Trong khi bệnh nhân ở nhóm sử dụng giảm đau
thường quy ít hài lòng trong 3 ngày đầu sau
phẫu thuật, với điểm hài lòng lần lượt là 5,31 ±
0,65; 5,4 1 ± 0,66; 5,47 ± 0,79 và hài lòng vào ngày
7 sau phẫu thuật với điểm là 6,24 ± 0,46. Tham
khảo nghiên cứu các tác giả nước ngoài, cũng
cho thấy bệnh nhân rất hài lòng sau phẫu thuật
nếu được giảm đau tốt. Nghiên cứu của
Parvataneni HK và cộng sự (2007) ghi nhận,
điểm hài lòng lúc xuất viện lên đến 9,2 điểm ở
nhóm giảm đau đa mô thức, trong khi chỉ có 6,7
ở nhóm chứng(13). Nếu giảm đau không tốt thì
mức độ hài lòng thấp. Nghiên cứu khác của Post
ZD ghi nhân nếu chỉ sử dụng kết hợp các thuốc
giảm đau hoặc dùng giảm đau PCA cho thấy
điểm số hài lòng chỉ ở mức 5,0 vào ngày 1 và 5,5
vào ngày 2 sau phẫu thuật(16).
Thứ hai, là giảm sử dụng thuốc giảm đau khẩn
cấp
Giảm đau tốt làm giảm nhu cầu sử dụng
giảm đau khẩn cấp. Kết quả ở bảng 4 cho thấy:
tần suất sử dụng giảm đau khẩn cấp ở nhóm A
là 3,57% vào ngày 1, không có ca nào vào ngày 2
và 3 sau phẫu thuật. Trong khi ở nhóm B là
82,14% vào ngày 1, 44,64% vào ngày 2 và 16,07%
vào ngày 3 sau phẫu thuật. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,001). Như vậy, phương
pháp giảm đau đa mô thức làm giảm tần suất sử
dụng giảm đau khẩn cấp ở nhóm sử dụng giảm
đau thường quy, từ 82,14% xuống còn 3,57% vào
ngày đầu sau phẫu thuật, từ 44,64% và 16,07 %
xuống còn 0% vào ngày 2 và 3 sau phẫu thuật.
Trong nghiên cứu của các tác giả khác, vì giảm
đa