Bài viết này đề xuất mô hình dự kiến về tác
động của hiệu quả quản trị doanh nghiệp đến
hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua lược
khảo tất cả nghiên cứu trước và các lý thuyết
về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bài viết cung
cấp tổng quan cơ bản cho các nhà quản lý
hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông
qua hoạt động quản trị doanh nghiệp, đồng
thời gia tăng hoạt động của quản trị doanh
nghiệp với mục tiêu nâng cao chất lượng báo
cáo tài chính. Bài viết căn cứ vào các bằng
chứng thực nghiệm nghiên cứu trước, với lập
luận riêng cho rằng hiệu quả quản trị doanh
nghiệp thông qua hai yếu tố hội đồng quản trị
và ban kiểm soát có tác động tiêu cực làm hạn
chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể hội
đồng quản trị với quy mô nhỏ, thành viên độc
lập nhiều, có kinh nghiệm về tài chính và họp
thường xuyên thì hiệu quả giám sát càng cao;
ban kiểm soát với nhiều thành viên, đa số độc
lập, có kinh nghiệm về tài chính và hoạt động
tích cực hơn làm gia tăng hiệu quả giám sát,
hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
10 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi điều chỉnh lợi nhuận: Tổng quan và mô hình nghiên cứu dự kiến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45
HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH
LỢI NHUẬN: TỔNG QUAN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU DỰ KIẾN
Ngô Nhật Phương Diễm*
TÓM TẮT
Bài viết này đề xuất mô hình dự kiến về tác
động của hiệu quả quản trị doanh nghiệp đến
hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua lược
khảo tất cả nghiên cứu trước và các lý thuyết
về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bài viết cung
cấp tổng quan cơ bản cho các nhà quản lý
hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông
qua hoạt động quản trị doanh nghiệp, đồng
thời gia tăng hoạt động của quản trị doanh
nghiệp với mục tiêu nâng cao chất lượng báo
cáo tài chính. Bài viết căn cứ vào các bằng
chứng thực nghiệm nghiên cứu trước, với lập
luận riêng cho rằng hiệu quả quản trị doanh
nghiệp thông qua hai yếu tố hội đồng quản trị
và ban kiểm soát có tác động tiêu cực làm hạn
chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể hội
đồng quản trị với quy mô nhỏ, thành viên độc
lập nhiều, có kinh nghiệm về tài chính và họp
thường xuyên thì hiệu quả giám sát càng cao;
ban kiểm soát với nhiều thành viên, đa số độc
lập, có kinh nghiệm về tài chính và hoạt động
tích cực hơn làm gia tăng hiệu quả giám sát,
hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Từ khóa: quản trị doanh nghiệp, điều chỉnh
lợi nhuận, hội đồng quản trị, ban kiểm soát
THE EFFECTIVENESS OF CORPORATE GOVERNANCE AND EARNINGS
MANAGEMENT: LITERATURE REVIEW AND PROPOSED FRAMEWORK
ABSTRACT
This paper proposes a model of the
impact corporate governance effectiveness
to earnings management through a literature
review of all prior research and theories of
behavior of earnings management. The article
provides a basic overview for managers
to limit the earnings management through
corporate governance while increasing the
performance of corporate governance with
the aim establishing a high level of financial
reporting’s quality. The paper is based on
previous empirical research evidence, with
individual arguments that the effectiveness
of corporate governance through two factors
that are the boards of directors and the
audit committees which affects and limits
the earnings management in a negative way.
The boards of directors who are smaller in
size, have more independent directors, are
equipped with financial expertise and frequent
meetings are effective in their monitoring
role. In the same way, audit committees who
are with more members, mostly independent,
more financial expertise and more active are
suggested to have a higher oversight function
and earnings management will be limited.
Keywords: corporate governance, earnings
management, boards of director, audit committees.
* ThS. Giảng viên khoa Kế toán-Kiểm toán, trường Đại học Tài chính Marketing, ĐT: 0914308588
Email: ngodiem@ufm.edu.vn;
Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ...
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. GIỚI THIỆU
Hiện nay các vấn đề về quản trị doanh
nghiệp (QTDN) và điều chỉnh lợi nhuận đều
đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ chính
phủ, tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán
viên cũng như sự quan tâm của công chúng.
Đặc biệt từ sau sự sụp đổ hay sự bê bối của các
công ty hàng đầu như Enron, Worldcom thì
các câu hỏi về vai trò giám sát của Hội đồng
quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát (BKS) đối với
thông tin trên báo cáo tài chính như thế nào?
Theo nghiên cứu của Defond và Francis (2005)
cho rằng chính sự sụp đổ của các doanh nghiệp
cần phải có góc nhìn mới về QTDN. Hơn nữa
các nhà quản lý cũng tin rằng hiệu quả của hoạt
động QTDN chính là hiệu quả của hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát mang lại lợi ích cho cổ
đông, tạo sự tin tưởng của các cổ đông.
Để ra các quyết định của mình, các cổ
đông hoàn toàn dựa vào thông tin trên báo cáo
tài chính (BCTC), chính vì thế họ hoàn toàn
phụ thuộc vào hoạt động giám sát của HĐQT
đối với ban giám đốc, và vì thế hiệu quả giám
sát của HĐQT càng cao thì chất lượng BCTC
càng cao. Trong hầu hết các nghiên cứu trước
đây (Abbott & Parker 2000; Chen và cộng sự,
2005) đều tập trung vào vai trò của BKS trong
việc đảm bảo tính trung thực của thông tin tài
chính và trong việc xử lý các vấn đề liên quan
đến kiểm toán độc lập bên ngoài. Tuy nhiên
với điều kiện là HĐQT có quyền bổ nhiệm,
bãi nhiệm các thành viên trong BKS cũng
như thành viên kiểm toán thuê ngoài và vai
trò của HĐQT cũng rất to lớn trong việc nâng
cao chất lượng thông tin tài chính trên BCTC.
Một số nghiên cứu của Boo &Sharma (2008);
Cohen et al (2002); Collier & Gregory (1996);
Menor & Willianes (1994) cho rằng hiệu quả
của BKS phụ thuộc vào thành phần, đặc điểm
của HĐQT. Vì vậy bài viết này đề cập đến vai
trò giám sát của HĐQT và BKS được lập luận
là rất quan trọng để nâng cao chất lượng của
BCTC hay là những nhân tố làm hạn chế hành
vi điều chỉnh lợi nhuận.
Bài viết này tổng hợp lại các nghiên cứu
thực nghiệm trên thế giới về hiệu quả của
QTDN (QTDN) tác động đến hành vi điều
chỉnh lợi nhuận với kết quả dự kiến của tác
giả là các công ty có hoạt động của HĐQT
và BKS càng hiệu quả thì khả năng hạn chế
hành vi điều chỉnh lợi nhuận càng lớn và phù
hợp với những kết luận từ các nghiên cứu của
Carcello et al (2002).
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRƯỚC
2.1. Quản trị doanh nghiệp
Có rất nhiều định nghĩa về QTDN nhưng
những nghiên cứu hiện nay cho rằng không
có một định nghĩa chính xác nào về QTDN
(Solomon, 2007). Cụ thể theo định nghĩa của
Cadbury (1992, trang 15) QTDN: “là một hệ
thống mà ở đó công ty được kiểm soát và điều
hành”. Cũng theo tác giả này thì định nghĩa
này thể hiện rất rõ vai trò của các bên trong
công ty đó là: (1) cổ đông có trách nhiệm đề
bạt giám đốc, kiểm toán viên và đảm bảo hệ
thống quản trị phù hợp; (2) giám đốc có chức
năng điều hành công ty và (3) kiểm toán viên
có vai trò cung cấp sự kiểm tra độc lập về
thông tin trên báo cáo tài chính cho cổ đông.
Solomon (2007, trang 14) định nghĩa
QTDN là “hệ thống kiểm soát sự cân bằng
cả bên trong và bên ngoài công ty, có trách
nhiệm giải trình cho tất cả các bên liên quan
và hành động có trách nhiệm đối xã hội trong
lĩnh vực kinh doanh của mình”. Trong khi đó
Shleifer &Vishny (1997, trang 737) mô tả về
QTDN “ giải quyết các yêu cầu của các nhà
đầu tư tài chính vào công ty với mức lợi nhuận
mong muốn” tương đồng với định nghĩa của
Denis (2001, trang 192) “ QTDN là tập hợp tất
cả đặc điểm thể chế thị trường để nhà quản lý
tự tin tối đa lợi ích dòng tiền mang lại đứng từ
góc độ các cổ đông”.
47
Như vậy có khá nhiều định nghĩa, giải
thích về QTDN ở nhiều khía cạnh và lý thuyết
khác nhau. Đó là (1) Quản trị doanh nghiệp
với mục đích tối đa lợi nhuận cho cổ đông
(Cadbury, 1992; Shleifer và Vishny, 1997;
Denis, 2001) bị chi phối bởi lý thuyết cơ quan;
(2) QTDN ngoài mục đích tối đa hóa sự giàu
có của các cổ đông thì QTDN còn quan tâm
đến vấn đề xã hội và môi trường (Solomon,
2007) theo lý thuyết đại diện.
Bài viết này chỉ đề cập đến hoạt động
QTDN đối với chất lượng thông tin trên báo
cáo tài chính. Như vậy trọng tâm của bài viết
là xem xét tác động của QTDN đến hành vi
điều chỉnh lợi nhuận chứ không phải xem xét
tác động của QTDN đến môi trường và xã hội.
2.1.1. Vai trò của QTDN và chất lượng
báo cáo tài chính
Sự thành công của doanh nghiệp có đóng
góp một phần rất quan trọng của HĐQT, họ là
những người chịu trách nhiệm thiết lập mục
tiêu, chiến lược và giá trị của công ty để phù
hợp với mục tiêu của cổ đông. Hơn nữa họ
còn chịu trách nhiệm về sự minh bạch và trung
thực của các số liệu trên BCTC. Theo quy định
hiện hành, số liệu BCTC muốn công bố cho
các cổ đông sử dụng thì phải được kiểm toán
bởi các kiểm toán độc lập bên ngoài hay nói
cách khác thì HĐQT phải chịu trách nhiệm
cho tất cả hoạt động, chiến lược và tình hình
tài chính của công ty bao gồm cả những chi
nhánh của công ty.
BKS là một bộ phận của HĐQT và được
thiết lập bởi HĐQT, BKS có mối quan hệ
với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo Wolnieder (1995) tranh cãi về 3 nhiệm
vụ quan trọng của BKS như sau: (1) Xem xét
BCTC; (2) Cung cấp các khuyến nghị cho các
kiểm toán viên bên ngoài, đánh giá mức phí
kiểm toán, đánh giá kế hoạch kiểm toán, đảm
bảo tính độc lập của kiểm toán viên và phân
bổ nguồn lực cho các thành viên nội bộ; (3)
Tạo thuận lợi cho mối quan hệ giữa HĐQT và
kiểm toán viên độc lập, xem xét và tuân thủ
chính sách đạo đức, quy tắc ứng xử của công
ty. Các nhà quản lý doanh nghiệp cho rằng
khi BKS thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của
mình theo nghiên cứu của Wolnieder (1995)
kỳ vọng tăng tính tín nhiệm, tăng độ tin cậy
của các số liệu trên báo cáo tài chính, nâng cao
hiệu quả quản lý, tăng hiệu quả giám sát của
kiểm soát nội bộ, tăng cường vai trò và nâng
cao hiệu quả của HĐQT. Hay nói chun, khi
BKS thực hiện đầy đủ 3 nhiệm vụ thì có thể
cải thiện được hoạt động QTDN và tăng cao
chất lượng BCTC.
Tương tự vào năm 1994, Menon và
Williams (1994) cho rằng việc thành lập
BKS sẽ tạo ra hai thuận lợi to lớn cho hoạt
động QTDN cụ thể: (1) Các thành viên độc
lập của BKS có thể đánh giá độc lập chức
năng của kiểm toán viên nội bộ cũng như
dịch vụ kiểm toán bên ngoài nên làm gia tăng
tính minh bạch và trung thực của báo cáo tài
chính; (2) BKS gia tăng hiệu quả hoạt động
của HĐQT. Hơn nữa theo The Blue Ribbon
Committees (1999, trang 19) thừa nhận việc
thành lập BKS làm gia tăng uy tín của BCTC
và tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư, cụ thể
“BKS có hiệu quả trong việc gia tăng tính
minh bạch và trung thực của BCTC và do đó
duy trì niềm tin của nhà đầu tư nên thị trường
chứng khoán của chúng tôi gia tăng tốt nhất
và thanh khoản nhất”
2.1.2. Vai trò giám sát của QTDN
HĐQT ra các quyết định chủ yếu cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và họ có đủ quyền lực để giải quyết
toàn bộ các quyết định của các nhà quản lý
cấp cao (Fama và Jensen (1983)). Hơn nữa
khi HĐQT ra các quyết định từ lúc ban đầu
cho đến thực hiện nên tách biệt 2 chức năng
Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ...
48
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phê chuẩn và giám sát của một quyết định
nhằm đảm bảo tính hiệu quả chức năng giám
sát của HĐQT.
Lý thuyết đại diện cho rằng để đảm bảo
tính hiệu quả của chức năng giám sát, thành
viên HĐQT nên có một thành viên độc lập từ
bên ngoài (thành viên độc lập là thành viên
không tham gia điều hành) độc lập hoàn toàn
với hoạt động quản lý và thành viên này có
khả năng thực hiện vai trò giám sát với hiệu
quả cao (Dalton et al (1998)). Các thành viên
độc lập không tham gia điều hành thường là
các chuyên gia trong từng lĩnh vực, có thể
phát huy những thế mạnh chuyên môn trong
việc kiểm soát việc đưa ra các quyết định và
giám sát việc thực hiện các quyết định của
ban điều hành (Fama và Jensen (1983)).
Để nâng cao tính hiệu quả của QTDN,
ngoài yêu cầu cần có thành viên độc lập không
tham gia điều hành trong HĐQT và BKS thì
các nghiên cứu thực nghiệm (Carcello và cộng
sự, 2002; Abbott và cộng sự, 2003; Abbott và
cộng sự, 2004; Chen &Zhou, 2007; Krishnan
&Lee, 2009; Ronen &Yaari, 2008) đề nghị
quy mô, kiến thức, kinh nghiệm, tần suất họp
làm gia tăng vai trò giám sát của HĐQT và
BKS tương thích với đề nghị của Zahra &
Pearce (1983) và Walker (2004).
2.2. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận
Theo các quy định của GAAP (những
nguyên tắc kế toán được chấp nhận) nhà quản
lý có thể lựa chọn các ước tính và các giả
định theo quy định của luật pháp để áp dụng
phù hợp với tình hình kinh doanh của riêng
doanh nghiệp mình. Chính vì vậy tạo cơ hội
cho các nhà quản lý thực hiện hành vi điều
chỉnh lợi nhuận (Walt và Zimmerman, 1990;
Fields et al, 2001), do đó nhà đầu tư, chủ nợ
không thể đánh giá chính xác tình hình tài
chính thực của công ty.
Có khá nhiều định nghĩa về hành vi điều
chỉnh lợi nhuận (earnings management) như
định nghĩa của (Schipper, 1989) cho rằng
“Hành vi điều chỉnh lợi nhuận được coi là
hành động có mục đích đối với quy trình lập
và trình bày báo cáo tài chính nhằm đạt được
các lợi ích cá nhân”. Hơn 10 năm sau, hai nhà
nghiên cứu Healy và Wahlen (1999) đã định
nghĩa hành vi điều chỉnh lợi nhuận với phạm
vi rộng rãi hơn “Hành vi điểu chỉnh lợi nhuận
xuất hiện khi nhà quản lý dùng các xét đoán
của mình trên báo cáo tài chính và trong cấu
trúc các sự kiện giao dịch kinh tế phát sinh
nhằm làm thay đổi BCTC, làm cho các đối
tượng có liên quan hiểu sai về tình trạng hoạt
động của DN”. Tuy nhiên theo hai định nghĩa
này thì hành vi điều chỉnh lợi nhuận được xem
xét là hành động của nhà quản lý nhằm gây ra
nhầm lẫn cho đối tượng sử dụng BCTC về tình
hình kinh doanh của DN. Do vậy định nghĩa
này chưa thể hiện đầy đủ các vấn đề về hành
vi chi phối lợi nhuận.
Vào năm 2008, với nghiên cứu của Ronen
và Yaari (2008, trang 27) đã định nghĩa hành
vi điều chỉnh lợi nhuận “là tập hợp các quyết
định quản lý mà kết quả sẽ dẫn đến không phản
ánh đúng lợi nhuận thực trong ngắn hạn, có
tính chất tối đa hóa giá trị doanh nghiệp mà
nhà quản lý đã biết về chúng. Hành vi điều
chỉnh lợi nhuận có thể là mang lại lợi ích
(cung cấp tín hiệu về giá trị trong dài hạn),
nguy hại (che giấu giá trị ngắn hạn hoặc dài
hạn) hoặc trung tính (che giấu giá trị ngắn
hạn hoặc dài hạn)” Như vậy, định nghĩa này
không chỉ bao gồm hai loại hành vi chi phối
lợi nhuận kế toán (chi phối thông qua việc lựa
chọn chính sách kế toán hay biến dồn tích và
chi phối thông qua các hoạt động kinh tế) mà
còn bao gồm cả các quyết định quản lý khác
nhằm trình bày lợi nhuận khác với lợi nhuận
thực sự theo hiểu biết của nhà quản lý. Đồng
49
thời, định nghĩa này cũng bao gồm cả hành vi
chi phối lợi nhuận kế toán nhằm mục đích gây
nhầm lẫn hoặc cung cấp thông tin sai lệch cho
người sử dụng báo cáo tài chính.
Nhà quản lý thực hiện hành vi điều
chỉnh lợi nhuận vì nhiều lý do như tiền
lương, thưởng (Healy, 1985; Gaver và cộng
sự, 1995; Holthausen và cộng sự, 1995;
Murphy, 1999), tránh vi phạm các cam kết
nợ (Sweeney, 1994), tăng lợi nhuận và ngăn
chặn lỗ (Bugstahler và Dichev, 1997), bù đắp
các chi phí theo quy định (Cahan, 1992; Han
và Wang, 1998).
Theo Murphy (1999) tiền lương có mối
quan hệ chặt chẽ với quy mô doanh nghiệp.
Thông thường, nhà quản lý ký hợp đồng lao
động với các nhà quản trị với các điều khoản
được trình bày chi tiết và rõ ràng các khoản
mà nhà quản lý nhận được. Đồng thời theo
nghiên cứu của Gao và Shrieves (2002) cũng
đã chỉ ra mối quan hệ giữa lương và hành vi
chi phối lợi nhuận kế toán. Theo nghiên cứu
của Healy (1995), Gaver (1995) và các tác giả
khác thì tiền thưởng có tác động đến hành vi
chi phối lợi nhuận kế toán. Nhà quản lý có
xu hướng làm tăng tối đa các khoản thưởng
họ được nhận bằng cách điều chỉnh kết quả
hoạt động kinh doanh. Đồng ý kiến trên còn
có nghiên cứu của Gao và Shrieves (2002).
Tóm lại, những nghiên cứu này cho thấy kế
hoạch thưởng tạo động cơ cho các nhà quản
lý tác động đến lợi nhuận kế toán để tối đa
các khoản thưởng được hưởng. Trong khi đó
nghiên cứu của Sweeney (1994) phát hiện nhà
quản lý của những công ty có nguy cơ vi phạm
các cam kết nợ có khả năng báo cáo thêm các
khoản thu nhập để bù đắp các khoản nợ đến
hạn thanh toán.
Theo Burgstahler and Dichev (1997) nhà
quản lý có xu hướng che giấu các khoản lỗ vì
điều này tác động đến nhà đầu tư rất lớn, tâm
lý nhà đầu tư luôn thích công ty kinh doanh
có lãi. Việc trình bày các khoản lãi hay lỗ trên
báo cáo tài chính có khuynh hướng ảnh hưởng
đến thị giá cổ phiếu (Hayn, 1995). Ngoài ra
nếu doanh nghiệp không đạt được kỳ vọng
của thị trường thì có thể gây tác động tiêu cực
lên giá cổ phiếu chính vì vậy lợi nhuận của
công ty có thể bị chi phối để đạt theo hướng
mong muốn mà chuyên chuyên phân tích tài
chính đã dự báo (Kinney và cộng sự, 2002;
Louis, 2004)
Tóm lại, từ bằng chứng nghiên cứu thực
nghiệm trên cho thấy nhà quản lý với các
động cơ của riêng mình đã tác động đến các
chính sách kế toán hay hoạt động kinh tế để
điều chỉnh lợi nhuận theo mong muốn. Vì
vậy yêu cầu về vai trò giám sát của HĐQT
và BKS đặt ra để hạn chế hành vi điều chỉnh
lợi nhuận.
3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU DỰ KIẾN
Căn cứ vào các nghiên cứu đã đề cập
trên, nhằm xác định mối quan hệ giữa hiệu
quả QTDN và hành vi điều chỉnh lợi nhuận,
bài viết xây dựng mô hình dự kiến (bảng 1)
với đặc điểm QTDN là biến độc lập (gồm hai
nhóm biến HĐQT và BKS) và hành vi điều
chỉnh lợi nhuận là biến phụ thuộc. Trong
bài viết này, mô hình dự kiến chỉ nhằm giải
thích tác động của QTDN đến hành vi chi
phối lợi nhuận, cụ thể các giả thuyết nghiên
cứu dự kiến:
y Hiệu quả của hội đồng quản trị
Theo nghiên cứu của Fama và Jensen
(1983) công bố rằng HĐQT là cơ quan tối cao
trong doanh nghiệp đại diện cho chủ sở hữu
thực hiện chức năng giám sát hoạt động của
các nhà quản lý.
Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ...
50
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 1. Mô hình nghiên cứu dự kiến
Nguồn: tác giả tổng hợp
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy đặc
điểm HĐQT thể hiện hiệu quả hoạt động
giám sát của mình, cụ thể: tỷ lệ thành viên
độc lập không tham gia điều hành, quy mô
HĐQT, kinh nghiệm tài chính và số lần họp
của HĐQT.
+ Tỷ lệ thành viên độc lập không tham
gia điều hành
Klein (2002) và Peasnell et al (2005) cho
rằng tính độc lập của HĐQT đóng vai trò
quan trọng tác động đến hành vi điều chỉnh
lợi nhuận. Cũng theo Fama (1980) và Fama
&Jensen (1983) thì tính độc lập của HĐQT
càng cao thì có thể tránh được xung đột lợi
ích với nhà quản lý và chức năng giám sát của
HĐQT được đảm bảo. Tương tự các nghiên
cứu Carcello và cộng sự (2002), Davidson và
cộng sự (2005), Xie và cộng sự (2003) cũng
cho rằng tính các công ty có HĐQT có thành
viên độc lập không tham gia điều hành càng
nhiều thì hành vi điều chỉnh lợi nhuận càng
giảm. Như vậy, tất cả các nghiên cứu điều
thừa nhận tính độc lập của HĐQT có tác động
tiêu cực đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, do
dó bài viết này xây dựng giả thuyết:
y H1a: Sự độc lập của HĐQT làm giảm mức
độ điều chỉnh lợi nhuận.
+ Kinh nghiệm, trình độ tài chính của
HĐQT
Hội đồng quản trị có kiến thức và kinh
nghiệm về tài chính là một yếu tố đảm
bảo tính hiệu quả của hoạt động giám sát.
Nghiên cứu của Carcello và cộng sự (2002)
cho thấy các thành viên độc lập trong HĐQT
51
có kinh nghiệm về tài chính thì yêu cầu về
chất lượng kiểm toán càng cao. Trong khi
đó với nghiên cứu của Chtourou và cộng
sự (2001), Xie và cộng sự (2003), Bedard
và cộng sự (2004) tranh luận hành vi điều
chỉnh lợi nhuận ít tồn tại trong những công
ty mà thành viên độc lập của HĐQT có kinh
nghiệm, trình độ về tài chính hay HĐQT mà
có kinh nghiệm về tài chính thì hạn chế hành
vi điều chỉnh lợi nhuận. Như vậy, các nghiên
cứu đều nhận ra rằng HĐQT có kinh nghiệm
trình độ và tài chính thì hạn chế được hành
vi điều chỉnh lợi nhuận. Do đó giả thuyết
được đề xuất:
y H1b: trình độ, kinh nghiệm tài chính của
HĐQT làm giảm mức độ điều chỉnh lợi
nhuận.
+ Quy mô hội đồng quản trị
Có rất nhiều nghiên cứu về qui mô HĐQT,
cụ thể theo nghiên cứu của Persons (2006)
cho rằng quy mô HĐQT có vai trò quan trọng
đến hiệu quả hoạt động giám sát và hiệu quả
kinh doanh của đơn vị. Hội đồng quản trị có
quy mô càng lớn thì càng gia tăng hiệu quả
giám sát (Dalton et al (1998)), Pearce and
Zahra (1992) và John and Senbet (1998).
Trong khi đó thì nghiên cứu của Lipton và
Lorsch (1992), Jensen (1993), Yermack
(1996), Eisenberg và cộng sự (1998) nhận
thấy HĐQT có quy mô nhỏ thì thực hiện chức
năng giám soát tốt hơn nên giảm hành vi điều
chỉnh lợi nhuận. Đồng thời theo nhận định
của tác giả, HĐQT có quy mô quá lớn thì
thiếu sự liên kết và kém hiệu quả trong việc
truyền đạt, chi phí duy trì quá lớn đối ngược
với HĐQT có quy m