Hiệu quả sát trùng da trước khi tiêm bằng swab tại Bệnh viện Thống Nhất

Mục tiêu: Sát trùng bằng Swab đã có mặt trên thị trường, nhưng hiệu quả như thế nào so với sát trùng thường qui dùng bông cồn trong hộp chưa được chứng minh. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục đích: Xác định tỉ lệ còn vi sinh vật (VSV) sau khi sát trùng da bằng Swab so với sát trùng da bằng bông cồn trong hộp. Khảo sát mối liên quan các yếu tố ảnh hưởng đến sự hiện diện VSV trên da sau sát trùng bằng Swab và bông cồn trong hộp như thời gian chế cồn vào hộp gòn, thời gian nằm viện của bệnh nhân. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện 76 mẫu phết da cấy khuẩn sau khi sát trùng tại chỗ tiêm với 37 mẫu bằng Swab và 39 mẫu bằng bông chứa cồn trong hộp tại bệnh viện Thống Nhất. Điều dưỡng thực hiện sát trùng tay theo quy định trước khi thực hiện sát trùng da, các mẫu phết da được đem cấy, kết quả cấy có sự hiện diện của VSV do sát trùng chưa tốt. So sánh 2 phương tiện sát trùng bằng Swab và bông cồn trong hộp theo thời gian cồn được đổ vào hộp trước và sau 4 giờ, thời gian bệnh nhân nằm viện trước và sau 1 tháng. Kết quả: Tỉ lệ còn VSV khi dùng Swab là 2/37 (5,4%), khi dùng bông cồn trong hộp 18/39 (46,2%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p= 0,001). Dùng bông cồn trong hộp sát trùng da, ta thấy có mối liên quan giữa tỉ lệ nhiễm VSV với thời gian chế cồn và thời gian nằm viện (p<0,05). Vi khuẩn mọc sau phết da cấy: tụ cầu chiếm 85%, Anterobacter. spp 10%, vi nấm 5%. Kết luận: Tỉ lệ vô khuẩn sau khi dùng Swab sát trùng tốt hơn dùng bông cồn trong hộp và càng hiệu quả hơn so với bông cồn để lâu hơn 4 giờ và với bệnh nhân nằm lâu trong bệnh viện hơn 1 tháng

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả sát trùng da trước khi tiêm bằng swab tại Bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 271 HIỆU QUẢ SÁT TRÙNG DA TRƯỚC KHI TIÊM BẰNG SWAB TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT Châu Đặng Kim Hoàng*, Đoàn Thị Ngần*, Nguyễn Thị Hồng*, Lý Kiều Chinh*, Nguyễn Viết Thanh*, Nguyễn Đức Công* TÓM TẮT Mục tiêu: Sát trùng bằng Swab đã có mặt trên thị trường, nhưng hiệu quả như thế nào so với sát trùng thường qui dùng bông cồn trong hộp chưa được chứng minh. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục đích: Xác định tỉ lệ còn vi sinh vật (VSV) sau khi sát trùng da bằng Swab so với sát trùng da bằng bông cồn trong hộp. Khảo sát mối liên quan các yếu tố ảnh hưởng đến sự hiện diện VSV trên da sau sát trùng bằng Swab và bông cồn trong hộp như thời gian chế cồn vào hộp gòn, thời gian nằm viện của bệnh nhân. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện 76 mẫu phết da cấy khuẩn sau khi sát trùng tại chỗ tiêm với 37 mẫu bằng Swab và 39 mẫu bằng bông chứa cồn trong hộp tại bệnh viện Thống Nhất. Điều dưỡng thực hiện sát trùng tay theo quy định trước khi thực hiện sát trùng da, các mẫu phết da được đem cấy, kết quả cấy có sự hiện diện của VSV do sát trùng chưa tốt. So sánh 2 phương tiện sát trùng bằng Swab và bông cồn trong hộp theo thời gian cồn được đổ vào hộp trước và sau 4 giờ, thời gian bệnh nhân nằm viện trước và sau 1 tháng. Kết quả: Tỉ lệ còn VSV khi dùng Swab là 2/37 (5,4%), khi dùng bông cồn trong hộp 18/39 (46,2%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p= 0,001). Dùng bông cồn trong hộp sát trùng da, ta thấy có mối liên quan giữa tỉ lệ nhiễm VSV với thời gian chế cồn và thời gian nằm viện (p<0,05). Vi khuẩn mọc sau phết da cấy: tụ cầu chiếm 85%, Anterobacter. spp 10%, vi nấm 5%. Kết luận: Tỉ lệ vô khuẩn sau khi dùng Swab sát trùng tốt hơn dùng bông cồn trong hộp và càng hiệu quả hơn so với bông cồn để lâu hơn 4 giờ và với bệnh nhân nằm lâu trong bệnh viện hơn 1 tháng. Từ khóa: sát khuẩn da, Swab, bông cồn trong hộp, vi sinh vật. ABSTRACT EFFECTS OF DEINFECTING SKIN BOFORE INJECTING BY SWAB AT THONG NHAT HOSPITAL Chau Đang Kim Hoang, Đoan Thi Ngan, Nguyen Thi Hong, Ly Kieu Chinh, Nguyen Viet Thanh, Nguyen Đuc Cong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 271 - 275 Objectives: Deinfection by Swab is now available in the market, but the effect of that compared to deinfection by alcohol cotton is not yet proved. The purpose of this research is to evaluate the proportion of microorganism infection by using Swab compared to that by using alcohol cotton. The research is to evaluate the relation between factors that affect microorganism appearing on skin after decontaminating skin by Swab compared to alcohol cotton in a box with the factors such as hospitalized time, preparing alcohol for patients. Methods: The project is conducted by 76 skin swab samples for culturing after deinfecting 37 samples by Swab and 39 samples by alcohol cotton at Thong Nhat Hospital. The nurses are required to deinfect hands in advance, the samples are cultured, the results came out with microorganism infection because of ineffective deinfection. Comparing the 2 methods between deinfecting by Swab and alcohol cotton depending on comparing alcohol before 4 hours, hospitalized time beofore and after 1 month. * Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ĐD. Châu Đặng Kim Hoàng. ĐT: 0909994387 Email: kimhoang161062@gmail. com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 272 Results: The proportion of microorganism left by using Swab is 2/37 (5. 4%) compared to that by using alcohol cotton is 18/39 (46. 2%). The difference between these 2 methods has significant statistics (p= 0. 001). By deinfecting by alcohol cotton, we can see the relation between the proportion of microorganism infection and time for preparing alcohol and hospitalized time (p<0. 05). On the contrary, Staphylococcal microorganism makes up 85%, Anterobacter. spp makes up 10%, the remaining 5% is fungi. Conclusion: The proportion of sterilization after using Swab for deinfecting is better than using alcohol cotton and more effective than alcohol cotton lasting over 4 hours, hospitalized time over 1 month and patient’s hygiene time. Key words: deinfection skin before injection, Swab, alcohol cotton in a box, microorganism. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiêu chí hàng đầu trong tiêm an toàn là “mũi tiêm không gây hại cho người được tiêm’’. Bệnh nhân khi nằm viện gặp sự cố tai nạn điều trị như nhiễm khuẩn sau tiêm sẽ làm tăng thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị và có thể gây tử vong. Sát trùng da trước tiêm là làm sạch vị trí tiêm bằng bông, gạc thấm cồn 70o hoặc dung dịch sát khuẩn nhằm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn. Vậy dùng phương tiện gì để sát trùng da đạt hiệu quả cao nhất, đảm bảo an toàn và tránh nhiễm khuẩn cho người bệnh? Theo quy trình kỹ thuật khi thực hiện mũi tiêm, mỗi bệnh nhân được dùng một kim vô khuẩn gắp bông cồn sát trùng da trước tiêm, nhưng thực tế không thể đáp ứng cho mỗi người bệnh 1 kìm. Thực trạng phần lớn các bệnh viện tại Việt Nam, dùng một kìm gắp gòn sát trùng da cho nhiều bệnh nhân hoặc dùng tay lấy gòn chứa cồn từ trong hộp lưu trong nhiều giờ. Theo tiêm an toàn (TAT): “có thể dùng kìm vô khuẩn hoặc tay đã được sát khuẩn để gắp bông sát trùng da nhưng phải đảm bảo bông, gạc sát khuẩn vô khuẩn. Tổ chức y tế thế giới khuyến cáo không sử dụng bông cồn được chứa lưu cữu trong hộp sát trùng da vì hai lý do: nồng độ cồn trong bông giảm do bốc hơi, miếng bông cồn dễ nhiễm bẩn sau nhiều lần điều dưỡng sử dụng kìm hoặc tay để lấy bông cồn”. Để khắc phục những hạn chế trên và kiểm soát nhiễm khuẩn tốt, đảm bảo an toàn cho người bệnh. Chúng tôi đưa ra phương án dùng Swab thay thế bông cồn trong hộp khi tiêm. Swab với thành phần gồm 70% rượu Isopropyl, có 2 lớp gòn có tác dụng tăng bề mặt ma sát, an toàn khi sát trùng, sử dụng 1 lần, được đóng kín trong bao giảm thiểu khả năng làm khô miếng sát khuẩn. Mục tiêu nghiên cứu - Xác định tỉ lệ còn vi sinh vật sau khi sát trùng da bằng Swab so với sát trùng da bằng bông cồn trong hộp. - Khảo sát mối liên quan các yếu tố ảnh hưởng đến sự hiện diện vi sinh vật trên da sau sát trùng bằng Swab và bông cồn trong hộp như thời gian đổ cồn vào hộp gòn, thời gian nằm viện, thời gian vệ sinh của người bệnh, vị trí phết da. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu can thiệp. Đối tượng nghiên cứu Tiêu chí chọn mẫu Bệnh nhân tuổi từ 40-90, đang nằm điều trị tại bệnh viện có chỉ định tiêm thuốc. Điều dưỡng chăm sóc thực hiện rửa tay đúng cách(1), sát trùng da theo đúng quy trình kỹ thuật(1,3). Nhóm thực hiện nghiên cứu trực tiếp phết da để cấy được tập huấn trước quy trình phết mẫu cấy(3). Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đang cấp cứu, tình trạng nhiễm trùng nặng (viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết), bệnh nặng tiên lượng tử vong gần, bệnh nhân không tự vệ sinh cá nhân được. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 273 Điều dưỡng thực hiện rửa tay, sát trùng da không đúng quy trình. Cỡ mẫu n = 76 (37 mẫu phết da cấy sau khi sát trùng da bằng phương tiện Swab và 39 mẫu phết da cấy sau khi sát trùng da bằng phương tiện bông cồn trong hộp). Các biến số trong nghiên cứu này được định nghĩa như sau Thời gian đổ cồn vào hộp: là khoảng thời gian tính từ thời điểm điều dưỡng đổ cồn 700 vào hộp đến thời điểm sát trùng da để phết da cấy. Thời gian nằm viện: là khoảng thời gian từ lúc bệnh nhân vào viện đến thời điểm sát trùng da để phết da cấy. Thời gian vệ sinh: lần cuối cùng bệnh nhân làm vệ sinh thân thể (ngày, giờ): tắm, rửa tay nếu vị trí tiêm mu bàn tay đến thời điểm sát trùng da để phết da cấy. Vị trí phết cấy: Tùy theo đường tiêm, vị trí tiêm, ngay tại điểm sát trùng da trước tiêm, đường kính 5cm(3). Thời gian thực hiện Từ tháng 8 /2011 đến tháng 11/2011 Thu thập dữ kiện Phương pháp thu thập Bệnh nhân được chọn vào một trong 2 nhóm theo phương pháp bốc thăm ngẫu nhiên đã chuẩn bị sẵn, cho vào hộp kín ghi sẵn phương tiện sát khuẩn da bằng Swab và bằng bông cồn trong hộp. Thông tin bệnh nhân được tổng hợp vào “Phiếu nghiên cứu”. Điều dưỡng thực hiện sát trùng da bằng Swab hoặc bông cồn trong hộp được tập huấn đúng quy trình, khi thực hiện có 2 thành viên nhóm giám sát theo bảng kiểm quy trình. Mẫu phết da để cấy sau khi sát trùng da chuẩn bị tiêm, được gửi đến khoa Vi sinh nuôi cấy trong 48 giờ. Công cụ: thực hiện phết da để cấy - Que gòn vô khuẩn. - Môi trường cấy. - Kéo vô khuẩn /Găng tay vô khuẩn. - Đèn cồn. - Phiếu xét nghiệm. Kiểm soát sai lệch thông tin Dựa vào tiêu chí chọn mẫu và bảng kiểm để loại trừ mẫu không đúng chuẩn. Phân tích thống kê Mô tả đặc điểm dân số Dùng toán học thống kê tổng hợp thông tin chung (tuổi, giới, vị trí phết da, ), dữ liệu trước khi bắt đầu nghiên cứu. Với các biến số quan trọng ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, cần so sánh giữa hai phương pháp sát trùng bằng cách sử dụng Student test đối với các dữ liệu có tính liên tục và chi bình phương (χ2 ) đối với các dữ liệu đại số trong đó p<0,05 được xem có ý nghĩa thống kê. Hiệu quả sát trùng Mục tiêu nghiên cứu chứng minh hiệu quả sát trùng trên da của Swab có tương đương với bông chứa cồn trong hộp. Hiệu quả sát trùng được đánh giá thông qua việc so sánh tỉ lệ vi sinh vật giữa hai phương tiện sát trùng ta dùng phép kiểm chi bình phương (χ2 ) với khoảng tin cậy 95%. Các giá trị xác suất p<0. 05 được xem là có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Đặc điểm mẫu nghiên cứu Có 76 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu đạt tiêu chuẩn, trong đó 64 nam 12 nữ, tuổi trung bình 72,93 ± 8,94, cao nhất là 88 tuổi, thấp nhất 53 tuổi. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 (bảng 1). Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 274 Sát trùng bằng Swab (n=37) Sát trùng bằng bông cồn (n=39) p Giới Nam 30 (91,08%) 34 (98,12%) Nữ 7 (8,92%) 5 (1,82%) 0, 23 Tuổi 71,39 ± 14,78 72,56 ± 9,09 0, 92 Tần suất nhiễm vi sinh vật Trong 76 mẫu phết da cấy sau khi sát trùng da bằng 2 phương tiện có 20 mẫu còn vi sinh vật chiếm tỉ lệ 26,31%, nhóm sát trùng bằng Swab tỉ lệ sát trùng tốt, không có VSV hiện diện trên da đạt 94,60%, nhóm sát trùng bằng bông cồn trong hộp tỉ lệ không có vi sinh vật là 53,85%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0. 00 (bảng 2) Bảng 2: Tỉ lệ vi sinh vật hiện diện trên da sau khi sát trùng bằng 2 phương tiện. Sát trùng bằng Swab (n=37) Sát trùng bằng bông cồn (n=39) p Không có VSV 35 (94,60%) 21 (53,85%) 0,01 Có VSV 2 (5,40%) 18 (46,15%) 0,01 Dữ liệu vi sinh Có 6 loại vi sinh vật hiện diện trên 20 mẫu phết da cấy sau sát trùng, trong đó sát trùng bằng Swbab tỉ lệ còn vi khuẩn 5,4%, sát trùng bằng bông cồn trong hộp tỉ lệ còn vi sinh vật 46,15%. Loại vi khuẩn chủ yếu là tụ cầu chiếm 85% là một trong những nguyên nhân gây ra nhiễm khuẩn (bảng 3). Bảng 3: Tỉ lệ các loại vi sinh vật hiện diện trên da sau sát khuẩn Sát trùng bằng Swab (n=37) Sát trùng bằng bông cồn (n= 39) S. aureus 0 5 (12,82%) S. epidermis 0 6 (15,38%) S. Haemolytics 0 2 (5,12%) Staphylococi coagulare 2 (5,40%) 2 (5,12%) Anterobacter. spp 0 1 (2,56%) Nấm 0 1 (2,56%) Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ còn VSV ở nhóm sát trùng da bằng bông cồn trong hộp Với 39 mẫu phết da cấy có 18 mẫu còn VSV. Thời gian đổ cồn vào hộp, dùng gòn trong hộp sát trùng da cho người bệnh, nghiên cứu cho thấy nếu điều dưỡng đổ cồn vào hộp thời gian dưới 4 giờ, tỉ lệ còn VSV ở mẫu cấy 32%, đổ cồn vào hộp thời gian sau 4 giờ tỉ lệ còn VSV của mẫu cấy 71,4%. Với bệnh nhân nằm viện dưới 1 tháng tỉ lệ còn VSV của mẫu cấy 29,6%, thời gian nằm viện trên 1 tháng tỉ lệ còn VSV của mẫu cấy 83,3%. Tất cả sự khác biệt trên có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỉ lệ còn VSV ở nhóm sát trùng bằng bông cồn trong hộp với thời gian vệ sinh của bệnh nhân và vị trí phết cấy không có sự khác biệt p> 0,05. (bảng 4). Bảng 4: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ còn VSV ở nhóm sát trùng bằng bông cồn trong hộp. Yếu tố Có vsv (n=18) Không có vsv(n=21) p T. gian đổ cồn < 4h 8 (32,0%) 17 (68,0%) >4h 10 (71,4%) 4 (28,6%) 0,01 T. gian nằm viện < 1 tháng 8 (29,6%) 19 (70,4%) > 1 - 3 tháng 10 (83,3% 2 (16,7%) 0,01 T. gian vệ sinh < 1 giờ 0 (0%) 1 (100%) 1 - 3 giờ 5 (35,7%) 9 (64,3%) > 3 giờ 13 (54,2%) 11 (45,8%) 0,16 Vị trí phết cấy Mu bàn tay 9 (39,1%) 14 (60,9%) Cẳng tay 0 (0%) 3 (100%) Cánh tay 8 (80%) 2 (20%)% Mông 1 (33,3%) 2 (66,71%) 0,21 Nhóm sát trùng da bằng Swab: với 37 mẫu phết da cấy có 02 mẫu còn vi sinh vật, với tỉ lệ 5,4%, mẫu quá nhỏ, chúng ta không tính các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ còn vi sinh vật ở nhóm này. BÀN LUẬN Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy không có sự khác biệt về tuổi, giới, vị trí phết cấy với sự hiện diện hiện diện vi sinh vật trên da sau sát khuẩn. Sát trùng da trước tiêm là làm sạch vị trí tiêm bằng bông, gạc thấm cồn 70o hoặc dung Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 275 dịch sát trùng nhằm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn. Hai phương tiện làm sạch da trước tiêm, trong nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt về hiệu quả sát trùng khi dùng Swab có 5,4% tỉ lệ còn vi sinh vật sau sát trùng so với và bông cồn trong hộp là 46,15%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p= 0,001. Nhận định từ kết quả nghiên cứu, chứng minh rằng dùng Swab để sát trùng da giảm tỉ lệ vi sinh vật hiện diện trên da một cách rõ rệt so với phương tiện dùng bông chứa cồn trong hộp. Nhóm sát trùng da bằng bông cồn trong hộp cho thấy: thời gian đổ cồn vào hộp dưới 4 giờ tỉ lệ còn vi sinh vật 32% so với thời gian đổ cồn trên 4 giờ tỉ lệ còn vi sinh vật 71,4%. Kết quả nghiên cứu phù hợp với khuyến cáo của WHO là không sử dụng bông cồn được chứa lưu cữu trong hộp sát trùng da vì hai lý do: nồng độ cồn trong bông giảm do bốc hơi, miếng bông cồn dễ nhiễm bẩn sau nhiều lần điều dưỡng sử dụng kìm hoặc tay để lấy bông cồn (theo TAT). Ngoài ra thời gian nằm viện dài (> 1 tháng) có 10/12 chiếm 83,2% mẫu còn vi sinh vật, vị trí phết da, thời gian vệ sinh của người bệnh không có ý nghĩa thống kê. KẾT LUẬN Dùng Swab sát trùng da đạt hiệu quả cao hơn so với bông cồn trong hộp. Vì yếu tố bốc hơi của cồn làm giảm tác dụng sát trùng của bông cồn trong hộp. Thời gian đổ cồn vào hộp dưới 4 giờ tỉ lệ còn vi sinh vật sau sát trùng da giảm nhiều so với thời gian đổ cồn vào hộp sau 4 giờ. Ngoài ra đối với bệnh nhân có thời gian nằm viện trên 1 tháng tỉ lệ còn vi sinh vật sau sát trùng da tăng nhiều so với thời gian bệnh nhân nằm viện dưới 1 tháng. KIẾN NGHỊ Chúng ta có thể dùng cả 2 phương tiện trên để sát trùng da cho bệnh nhân trước tiêm. Tuy nhiên chúng tôi kiến nghị nên dùng Swab sát trùng da trước tiêm vì đảm bảo độ cồn, đảm bảo vô khuẩn. Nếu dùng bông cồn trong hộp để sát trùng da trước tiêm, đề nghị phải đảm bảo độ cồn trong bông (< 4 giờ), nắp hộp gòn sau khi dùng cần đậy kín tránh cồn bốc hơi, dùng tay đã được rửa đúng quy trình để lấy bông sát trùng da đúng cách và phải đảm bảo gòn, gạc sát trùng vô khuẩn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ y tế (5/2010), Đào tạo liên tục về tiêm an toàn, chương I, bài 2. Tr 17-18. 2. Bộ y tế (2011), Phòng ngừa chuẩn Tr 46-47. 3. Trần Thị Thuận (2008). Điều dưỡng cơ bản II, nhà xuất bản y học Hà Nội.
Tài liệu liên quan