Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại công ty (CIRI).
Chương III: Giải pháp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của công ty.
83 trang |
Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2000 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất - CIRI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu.
Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà có thể đem lại sự phát triển cho đất nước mình. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đó là một nền kinh tế mở cửa theo hướng hội nhập quốc tế .
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã xác định con đường phát triển nền kinh tế đất nước nhanh nhất đó là việc thực hiện CNH-HĐH thông qua xu hướng mở cửa và hội nhập quốc tế. Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đổi rõ rệt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội... Trong quá trình phát triển đó có sự đóng góp đáng kể và quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ nước ngoài.
Nói đến thương mại quốc tế ta có thể liên tưởng ngay tới hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Nhưng ở nước ta hiện nay còn nghèo, cơ sở vật chất nhất là cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ còn kém phát triển. Do đó năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh còn thấp. Vì vậy nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại để phục vụ cho sản xuất. Ngoài ra nhập khẩu còn tác động tích cực đến nền kinh tế quốc dân về nhiều mặt như: sức lao động, vốn, tài nguyên, tiết kiệm được chi phí và thời gian...
Tuy nhiên để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện một cách thuận lợi và an toàn, một nghiệp vụ quan trọng đối với mọi thương nhân là việc xây dựng các hợp đồng. Như vậy, hợp đồng là cầu nối giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán hàng hoá và có ý nghĩa đặc biệt cả trong lợi ích kinh tế lẫn trong quan hệ ngoại giao đối với những nhu cầu đó. Thực tế cho thấy, việc thiếu những kiến thức pháp lý cần thiết trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu đã mang lại nhiều hậu quả khôn lường mà nhiều nhà kinh doanh phải gánh chịu. Đó là những thua thiệt về tài sản là tiền bạc mà còn cả những thiệt hại phi tài sản khác nữa như sự mất uy tín trong quan hệ làm ăn... của các doanh nghiệp Việt Nam do rất nhiều các nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng trong đó vấn đề chủ yếu là thiếu kiến thức, kinh nghiệm và chưa chú trọng đúng mức đến quá trình thực hiện hợp đồng. Ngày nay thông tin liên lạc, khoa học kỹ thuật đã phát triển một cách vượt bậc. Nó đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho quy trình thực hiện hợp đồng ngoại thương diễn ra nhanh chóng và kịp thời hơn. Để hoàn thiện hơn nữa về thực hiện hợp đồng ngoại thương trong từng doanh nghiệp là một đòi hỏi mang tính cấp bách, cần thiết đối với doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam hiện nay.
Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất - CIRI là một công ty có hoạt động xuất nhập khẩu với nhiều nước trên thế giới nhưng hoạt động nhập khẩu là chiếm tỷ trọng lớn trong toàn công ty. Chính vì vậy trong đợt thực tập tốt nghiệp này cùng với những kiến thức được trang bị tại trường đại học và sự giúp đỡ của thầy giáo bùi đức dũng, các cán bộ nhân viên trong công ty nên em xin chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất - CIRI”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là: Nhằm hoàn thiện hơn công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy mà công ty đang áp dụng. Từ đó đưa ra một số giải pháp để công ty có thể áp dụng. Đồng thời rút ra kinh nghiệm cho bản thân trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu trên thực tế.
Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu: Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu xe máy cùng với những kiến thức đã học.
Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp những kiến thức đã học ở trường và sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo cùng với những kinh nghiệm thực tế khi tham gia thực tập tại công ty (CIRI). Đồng thời sử dụng nguồn số liệu của công ty để phân tích, đánh giá và đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại công ty (CIRI).
Kết cấu luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại công ty (CIRI).
Chương III: Giải pháp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của công ty.
Chương I
Lý luận về hoạt động nhập khẩu và việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Nhập khẩu và vai trò của hoạt động nhập khẩu .
1. Khái niệm về nhập khẩu.
Nhập khẩu là hình thức kinh doanh quốc tế giữa các thương nhân có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau. Trong đó người mua (Người nhập khẩu) yêu cầu người bán (Người xuất khẩu) cung ứng cho mình một lượng hàng hoá nhất định như đã thoả thuận và hợp pháp. Người nhập khẩu sẽ phải trả cho người xuất khẩu một lượng giá trị tương ứng với lượng hàng hoá đó.
2. Các hình thức nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu trong thực tế rất đa dạng. Đó là do tác động của điều kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của các doanh nhân mà xuất hiện nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau được pháp luật cho phép. Dưới đây là các hình thức nhập khẩu phổ biến đang được áp dụng cho các doanh nghiệp nước ta hiện nay:
- Nhập khẩu trực tiếp: là hoạt động mua bán trực tiếp giữa người mua và người bán không qua trung gian.
- Nhập khẩu gián tiếp: là nhập khẩu qua trung gian thương mại, điển hình của nhập khẩu gián tiếp là nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hình thức hoạt động giữa một doanh nghiệp có nhu cầu nhập một số mặt hàng uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương, tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng với nước ngoài và làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của khách hàng và được hưởng thù lao uỷ thác.
Trên đây là những hình thức nhập khẩu khá phổ biến ở nước ta và được các doanh nghiệp vận dụng. Tuy nhiên để vận dụng một cách có hiệu quả thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải dựa vào môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, điều kiện giao dịch cụ thể để đưa ra hình thức nhập khẩu phối hợp hoặc kết hợp các hình thức nhập khẩu. Ngoài ra, công ty còn phải dựa vào tiềm lực của mình để tiến hành nhập khẩu và lựa chọn hình thức nhập khẩu, tiến hành các cuộc đàm phán để xem xét nên áp dụng hình thức nhập khẩu nào đem lại lợi nhuận cao nhất.
3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nên kinh tế quốc dân.
Việt Nam sau một thời gian dài thực hiện chính sách đóng cửa nền kinh tế đã gây ra biết bao vấn đề tiêu cực như nền kinh tế trì trệ, lạc hậu và trình độ thấp kém thua xa các nước trong khu vực và có lẽ là một trong những nước kém phát triển nhất thế giới. Nhận thức được vấn đề này, Đảng ta đã xác định con đường để đưa đất nước nhanh chóng tiến kịp thời đại là CNH-HĐH đất nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường nhập khẩu các loại máy móc công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất trong nước. Như vậy, ta thấy nhập khẩu có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội trong thời đại ngày nay. Vai trò của hoạt động nhập khẩu được thể hiện ở mấy mặt cơ bản sau:
Đối với nền kinh tế quốc dân:
Nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế những công nghệ hiện đại máy móc thiết bị tiên tiến, hoàn thiện và có năng lực sản xuất hơn những thứ đã có trong nước. Từ đó nó làm tăng hiệu quả sản xuất, tăng sản lượng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân.
Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Xã hội ngày càng phát triển và nhu cầu của con người ngày càng phong phú và đa dạng thông qua con đường nhập khẩu sẽ thoả mãn mọi nhu cầu đó của con người. Nhập khẩu làm đa dạng hoá về mặt hàng, về chủng loại.
Nhập khẩu góp phần đáng kể vào việc xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng, tự cung tự cấp. Ngoài ra, nó còn đưa tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được, góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của nhà nước.
Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các loại hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất hoặc trong nước có sản xuất nhưng không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế sản xuất nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Như vậy sẽ làm tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật.
Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu. Bởi vì, nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu...
b) Đối với các doanh nghiệp:
Nhập khẩu giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được cả vốn và chi phí cho quá trình nghên cứu cũng như thời gian và số lượng đội ngũ khoa học nghên cứu mà vẫn thu được kết quả tương đối về phát triển khoa học kỹ thuật.
Nhập khẩu giúp các doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt, đón đầu những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến. Mà nếu không thực hiện nhập khẩu thì các doanh nghiệp sẽ ngày càng trở nên lạc hậu so với khu vực và thế giới.
Hàng hoá nhập khẩu không những mở rộng quá trình sản xuất của doanh nghiệp mà còn góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao tầng hiểu biết về sự phát triển trên toàn cầu cũng như góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất mới an toàn hiệu quả...
Tuy nhập khẩu có vai trò to lớn như vậy nhưng nó cũng có những mặt hạn chế. Tức là nếu nhập khẩu tràn lan thì sẽ dẫn đến nền sản xuất trong nước sẽ bị suy yếu. Vì vậy cần có chính sách đúng đắn, có sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời, hợp lý để khai thác triệt để vai trò của nhập khẩu và hạn chế những hiện tượng xấu phát triển như: trốn thuế, tha hoá cán bộ...
Khái quát chung về hoạt động nhập khẩu :
1. Khái niệm:
Hợp đồng thương mại quốc tế hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương hay hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là bên bán (bên xuất khẩu) có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho một bên khác gọi là bên mua (bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Như vậy thông qua khái niệm trên ta có thể rút ra một vài đặc điểm chính của hợp đồng xuất nhập khẩu như sau:
Chủ thể của hợp đồng này là bên bán (bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu) họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao hàng hoá cho bên mua, bên mua phải trả cho bên bán một đối giá cân xứng với giá trị hàng hoá đã được giao.
Đối tượng của hợp đồng này là tài sản: Do được đem ra mua bán, tài sản này biến thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng hoá vật chất hay hàng hoá phi vật chất (dịch vụ).
Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận giữa các bên ký kết hợp đồng. Điều cơ bản là hợp đồng phải thể hiện ý chí thực sự thoả thuận không được cưỡng bức, lừa dối lẫn nhau và có sự nhầm lẫn không chấp nhận được.
Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển chủ hàng hoá). Đây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê mướn vì hợp đồng thuê mướn không tạo ra sự chuyển chủ và so với hợp đồng tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi.
Hợp đồng nhập khẩu khác với hợp đồng mua bán trong nước ở những điểm sau đây:
Hàng hoá (đối tượng) của hợp đồng thường di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
Đặc điểm này có thể có cũng có thể không. Ví dụ, hợp đồng mua bán ký kết giữa một xí nghiệp trong khu chế xuất với một xí nghiệp ngoài khu chế xuất được pháp luật coi là hợp đồng mua bán quốc tế , nhưng hàng hoá thuộc hợp đồng này không di chuyển khỏi biên giới quốc gia.
Đồng tiền thanh toán ít nhất là ngoại tệ của một nước
Đặc điểm này cũng không phải là điểm tất yếu. Ví dụ: Các khối trong nước cộng đồng chung Châu Âu khi buôn bán với nhau thì họ sử dụng đồng tiền thanh toán là đồng EURO hay hai nước buôn bán với nhau bằng hình thức hàng đổi hàng.
Các bên ký kết có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau.
Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt yếu tố quốc tế hay nội địa trong một hợp đồng.
Điều kiện hiệu lực của hợp đồng xuất nhập khẩu:
Theo điều 81- Luật thương mại Việt Nam, hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
Chủ thể của hợp đồng gồm: Bên mua và bên bán phải có tư cách pháp lý
Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác nhận căn cứ theo pháp luật của họ.
Về phía Việt Nam: Chủ thể phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài. Theo nghị định 57 thì thương nhân phải có giấy đăng ký kinh doanh và mã doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Hàng hoá theo hợp đồng: là hàng hoá được phép mua bán theo quy định pháp luật của nước bên mua và nước bên bán.
Doanh nghiệp không được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng theo quyết định số 46/2001/QĐ- TTg. Đối với những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện thì họ phải xin được hạn ngạch (trường hợp nhà nước quản lý bằng hạn ngạch) hoặc xin được giấy phép (trường hợp hàng thuộc diện nhà nước quản lý bằng giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu).
Đối tượng của hợp đồng phải là hàng được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp luật hiện hành của hai nước.
Hợp đồng thương mại quốc tế phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Theo điều 50 - luật thương mại Việt Nam thì nội dung của hợp đồng buộc phải có các điều khoản sau: Tên hàng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao nhận hàng.
Ngoài ra, các bên có thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản khác cho hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng:
Theo luật Việt Nam, hợp đồng xuất nhập khẩu phải được lập thành văn bản mới có hiệu lực: Thư từ điện tín cũng được coi là văn bản, mọi hình thức thoả thuận bằng miệng đều không có giá trị, mọi sửa đổi bổ sung đều được làm bằng văn bản.
3. Nội dung chủ yếu của hợp đồng nhập khẩu.
Nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể rất khác nhau. Nó tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm của hàng hoá, hoặc tuỳ thuộc và tập quán buôn bán giữa các bên. Có những hợp đồng đưa ra rất nhiều điều khoản, hết sức chặt chẽ và chi tiết, nhưng có những hợp đồng chỉ đưa ra những điều khoản cơ bản và hết sức đơn giản. Nhưng thông thường một hợp đồng xuất nhập khẩu gồm có hai phần: Những điều trình bầy và các điều khoản.
Những điều khoản trình bày thường ghi:
Số hợp đồng (contract no).
Địa điểm và ngày tháng ký hợp đồng .
Tên và địa chỉ của các đương sự.
Những định nghĩa dùng trong hợp đồng.
Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng (đây có thể là hiệp định chính phủ, nghị định thư, chí ít người ta cũng đưa ra sự tự nguyện của hai bên khi tham gia ký kết hợp đồng).
Các điều khoản (term) của hợp đồng bao gồm:
Điều khoản về tên hàng.
Đâylà điều khoản quan trọng của mọi đơn chào hàng, của thư hỏi hàng, của các hợp đồng hoặc nghị định thư. Nó nói lên chính xác đối tượng mua bán, trao đổi do đó người ta luôn tìm cách diễn đạt chính xác tên hàng. Nếu không đúng thì mua được cái không cần mua, không bán được cái cần bán. Để làm được điều đó người ta thường dùng các biện pháp:
Ghi tên chính thức của hàng hoá kèm theo tên khoa học, thương mại (áp dụng cho các loại hoá chất, giống cây). Ví dụ: Hàn the là Na3B4O7nH2O.
Ghi tên hàng kèm theo hãng sản xuất ra hàng đó. VD: xe máy HONDA, tủ lạnh HITACHI...
Ghi tên hàng kèm thao tên địa phương sản xuất ra hàng hoá đó. VD: rượu vang Bordeaux...
Ghi tên hàng kèm theo nhãn hiệu của nó. VD: bột giặt OMO...
Ghi tên hàng kèm theo quy cách của hàng đó. VD: xe tải 10 tấn...
Ghi tên hàng kèm theo công dụng của hàng hoá đó. VD: mực để in...
Ngoài ra người ta còn kết hợp các phương pháp trên đây với nhau. VD: màn hình siêu phẳng 29inches của hãng Panasonic...
Điều khoản chất lượng hàng hoá:
Điều khoản này nói lên mặt chất của hàng hoá mua bán. Tức là nói lên tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của hàng hoá mua bán thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kịên tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của hàng hoá bao gồm: Các chỉ tiêu cơ lý hoá, công suất, độ chính xác và các chỉ tiêu cảm quan như màu sắc, mùi vị của hàng hoá giao dịch mua bán.
Trong điều khoản này cần nêu rõ phương pháp xác định phẩm chất, chỉ tiêu đại khái quen dùng, quy cách hàng hoá, hàm lượng của chất chủ yếu trong hàng hoá, tài liệu kỹ thuật, số lượng thành phẩm thu được từ hàng hoá đó, hiện trạng của hàng hoá đó, mô tả của hàng hoá và tên của nơi sản xuất.
Điều khoản về số lượng:
Điều khoản này nói lên lượng hàng hoá được giao dịch. Nó xác định rõ đối tượng mua bán và liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của bên mua và bên bán. Do vậy việc lựa chọn đơn vị đo lường số lượng nào vừa phải căn cứ vào bản thân sản phẩm, vừa căn cứ vào tập quán buôn bán quốc tế về đo lường.
Đơn vị tính số lượng: Do có nhiều đơn vị khác nhau như: cái, số, chiếc, kg, m... nhiều đơn vị có nhiều tên gọi nhưng ở mỗi nước lại có một nội dung khác. Ví dụ:
Một tấn hệ mét khác với một tấn hệ của Anh. Cho nên sử dụng điều khoản này khá phức tạp tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm.
Phương pháp quy định số lượng: trong thực tiễn Thương mại quốc tế người ta có thể quy định số lượng hàng hoá bằng hai cách:
Bên bán và bên mua quy định cụ thể số lượng hàng hoá giao dịch. Thường được áp dụng đối với hàng hoá có giá trị lớn với đơn vị đo là chiếc, cái ví dụ: 10 chiếc xe ô tô... ở đây không được dùng “khoảng”.
Bên bán và bên mua quy định số lượng phỏng chừng. Trong hợp đồng mua bán người ta thường dùng các thuật ngữ như: Khoảng, xấp xỉ, hơn kém, cộng trừ... Phương pháp này thường áp dụng đối với hàng hoá có khối lượng lớn. Ví dụ: Gạo quy định 5000 tấn gạo 5% (5% là sai số).
Sai số này có thể do người bán quyết định hoặc do người mua hay người vận tải quyết định. Nếu trong hợp đồng không thoả thuận thì do người bán hoặc do người vận tải quyết định.
Phương pháp xác định trọng lượng: Trong thương mại quốc tế, có rất nhiều loại hàng hoá được tính số lượng theo trọng lượng. Căn cứ vào tập quán buôn bán thông thường để xác định trọng lượng hàng hoá mua bán người ta dùng những phương pháp sau:
Trọng lượng cả bì (Gross weight - GW): Bao gồm trọng lượng thực tế của hàng hoá cộng với trọng lượng của bao bì.
Trọng lượng tịnh (Net weight - NW): Là trọng lượng cả bì trừ đi trọng lượng của bao bì.
Trọng lượng thương mại: Thường áp dụng đối với hàng hoá có khả năng hút ẩm.
Công thức:
Gtm: trọng lượng thương mại của hàng hoá.
Gtt: trọng lượng thực tế của hàng hoá.
Wtc: độ ẩm tiêu chuẩn của hàng hoá.
Wtt: độ ẩm thực tế của hàng hoá.
Trọng lượng lý thuyết: Thường áp dụng đối với hàng hoá có tính tiêu chuẩn cao. Ví dụ: Thép, tôn và các thiết bị đồng bộ. Theo phương pháp này người ta căn cứ vào thể tích, khối lượng riêng và số lượng hàng hoá để tính toán trọng lượng hàng, hoặc căn cứ vào thiết kế của nó (đối với thiết bị toàn bộ) để xác định hàng hoá cung cấp cho nhau.
Điều khoản về giá cả.
Trong hợp đồng thương mại quốc tế điều khoản giá cả bao gồm những nội dung như: Mức giá, đồng tiền tính giá, phương pháp quy định giá, phương pháp xác định giá, sử dụng các loại giảm giá (chiết giá), những quy định khác liên quan đến giá cả.
Mức giá: Để xác định chính xác mức giá cần phải nắm chắc nguyên tắc xác định giá, xu thế thay đổi của giá cả thị trường thế giới, xem xét đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả, hạch toán lỗ lãi đồng thời định rõ điều kiện cơ sở giao hàng liên quan đến giá đó.
Đồng tiền tính giá: có thể là đồng tiền của nước người bán, của nước người mua hay của một nước thứ ba mà hai bên đồng ý. Trên thực tế người ta thường s