Hội nhập AFTA –cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam

Chương I: Khái Quát Chung Về AFTA Chương II: Hội nhập AFTA –cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp công nghiệp việt nam

docx45 trang | Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2575 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hội nhập AFTA –cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong xu hướng quỗc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, với những cấp độ toàn cầu hoávà khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động , quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu; vai trò của các công ty đa quốc gia được tăng cường, việc hình thành các liên kết khu vực ngày một phát triển, hầu hết các quốc gia đang chuyển sang mô hình kinh tế với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước.Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế trên thị trường thế giới ngày nay,các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát triển đã từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phươngvà đa phương, từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau nhằm đưa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên.Chính các liên kết kinh tế quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng: Khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sống động và đặc biệt quan trọng trong những năm gần đây. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của toàn cầu hoá, khu vực hoá, của hội nhập quốc tế, do vậy các quốc gia đang phát triển sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là lựa chọn mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế. Phù hợp với xu thế này Việt Nam đã và đang tham gia tích cực và có hiệu quả cao vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN free trade area: AFTA) Đây là sự kiện và bước ngoặt đáng ghi nhận. Đồng thời cũng là vấn đề hết sức mới mẽ đôí với các doanh nghiệp Việt Nam vốn vẫn quen với “vòng tay bảo hộ ”của Nhà Nước. Theo ý kiến của các chuyên gia, nhiều DNCNVN còn hoạt động như thời bao cấp, kém năng động, phần lớn đến nay vẫn chưa sẵn sàng cho hội nhập. Do vậy khi tham gia vào AFTA , thực hiện biểu thuế ưu đãi có hiệu lực chung(CEPT) Tức khi nhà nước phải giảm và tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan ngăn cách buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN thì việc nghiên cứu , xem xét, thảo luận, phân tích đánh giá những cơ hội, thách thức đối với các DNCNVN, đồng thời đưa ra nhiều những phương hướng và giải pháp để các DNCNVN phát huy được thế mạnh, tận dụng được cơ hội của mình cũng như hạn chế những ảnh hưởng xấu, vượt qua thách thức để tồn tại trong môi trường mới là hết sức cần thiết. Vì đây là nghiên cứu mang tính khoa học đầu tiên và cùng với những hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên đề án còn nhiếù sai sót, em mong cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Thu Thuỷ giúp đỡ, chỉ bảo để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Khái Quát Chung Về AFTA I / Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá. Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trườngthế giới thống nhất, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu , là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu;là việc giải quyết các vấn đề kinh tế –xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số,tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ mội trường sinh thái…Trong khi đó , khuvực hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do, đồng minh (Liên minh) thuế quan, đồng minh tiền tệ,thị trường chung, đồng minh kinh tế…Nhằm mục đích hợp tác,hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển tư bản,lực lượng lao động, hàng hoá dịch vụ …Tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển (hay còn gọi là các quốcgia công nghiệp phát triển), thì xu hướng tham gia hội nhập vào nềnkinh tế các nước trong khu vực và bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng. Việc tham gia mạnh mẽ và rộng rãi vào các khối liên kết kinh tế khu vực, từng bước tiến tới sự nhất thể hoá cao thông qua các văn bản,hiệp định kí kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như phải gánh vác các nghĩa vụ về tài chính, giảm thuế cũng như các miễn giảm khácv.v..(các quốc gia trong hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA ), các quốc gia trong liên minh châu âu(EU) là những liên kết phản ánh rõ nét các xu hướng trên). Kinh tế giữa các nước thành viên.Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh ,tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên. Thị trường chung: Đây là một liên minh quốctế ở mức độ cao hơn liên minh thuế quan,tức là ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong trao đổi thương maị, hình thức liên minh này còn cho phép tư bản và lực lượng lao động tự do di chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng bước hình thành thị trường thống nhất (các quốc gia trong cộng đồng kinh tế Châu Âu). Liên minh tiền tệ: Đây là một liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Theo thoả thuận này các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối, thống nhất đồng tiền dự trữ và đồng tiền sử dụng chung trong khối. Liên minh kinh tế: Đây là một liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về sự tự do di chuyển hàng hoá,dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả nước không phải là thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên còn thực hiện thồng nhất các chính sách kinh tế; tài chính, tiền tệ.(Liên minh Châu Âu: EU từ năm 1994 được coi là liên minh kinh tế ). II/ Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới Có thể nói rằng toàn cầu hoá, khu vực kinh tế là xu hướng đang chiếm ưu thế trong nền kinh tế hiện đại, do đó thương mại quốc tế ngày càng được tự do hoá. Đã xuất hiện nhiều tổ chức kinh tế manh tính khu vực như EU, APEC, AFTA , Asean…. Trình độ quốc tế càng cao thì tỷ trọng trao đổi giữa các quốc gia càng lớn. Theo một báo cáo về tình hình kinh tế thế giới trong giai đoạn 1990-2000 của WB (lấy giá năm 1988 làm chuẩn) thì thị trường thế giới về các ngành công ngiệp quan trọng nhất tăng từ 6.188 tỷ USD năm 1973 lên 7683 tỷ năm 1980 và 9852 tỷ USD năm 1988 và dự kiến năm 2000 sẽ tăng lên tới 14522 tỷ USD trong đó trao đổi giữa các quốc gia chiếm tỷ trọng ngày càng tăng từ 15,3% năm 1973 lên 22,8% năm 1988 và dự kiến đến năm 2000 sẽ là 28,5% . Điều gì đã làm cho thương mại thế giới phát triển như ngày nay ? Đó là sự bùng nổ của tự do hoá trương mại khu vực và toàn cầu thể hiện qua việc xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức kinh tế mang tính khu vực. Tự do hoá thương mại được khởi xướng ở Bắc Mỹ và Châu Âu. ở Châu á, tiếp sau Nhật Bản là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapo đã theo đuổi chính sách hướng ngoại, mở cửa và tích cực hội nhập vào thị trường quốc tế ; thực hiện tự do hoá từng bước . Kết quả bốn nước này đã tăng thu nhập đầu người từ mức 20% so với các nước công nghiệp vào năm 1965 lên 70% vào năm 1995. Con đường hướng ngoại,thực hiện tự do hoá thương mại được thực hiện tiếp nối ở Chi Lê, Malayxia và Thái Lan vào đầu thập niên 70 và sau đó là Trung Quốc vào đầu thập niên 80. Nhiều người cho rằng khi hội nhập vào kinh tế khu vực sẽ giảm bảo hộ sản xuất trong nước, do đó sẽ tăng thất nghiệp và giảm tăng trưởng. Lịch sử đã chứng minh không một nước nào có thể đạt tốc độ phát triển nhanh mà không mở cửa kinh tế, không tích cực hội nhập . Theo WB số người sống ở mức nghèo khổ ở Châu á (dưới 1USD/ ngày) đã giảm từ 700tr người xuống còn 300tr người năm 1995. Trung quốc nhờ thoả thuận với Mỹ mở cửa thị trường hơn nữa và chuẩn bị ra nhập WTO sẽ làm cho thu nhập quốc dân tăng thêm 30% năm nhờ vậy tăng thêm 12 triệu việc làm. Rõ ràng xu hướng khu vực hoá Kinh tế là tất yếu. Nó mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên . Một quốc gia nào đó gia nhập các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đưa lại những lợi ích chủ yếu sau đây: Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trongliên minh với các nước, các khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự do hội nhập khu vực đã làm tăng thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là công nghiệp của các nước chủ nhà có chi phí cao (lãng phí nguồn lực) bằng những ngành có chi phí thấp hơn (tức có hiệu quả hơn) của những quốc gia nhận được sự ưu đãi. Cũng trong điều kiện này, lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước chủ nhà luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó giá hàng hoá giảm xuống làm cho người dân ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lón hơn mức chi phí thấp hơn. Hai là, Hội nhập khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch. Sự chuyển hướng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan, vì khi đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn. Ngay cả trong trường hợp một nước nào đó trong liên minh tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của các quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng nay được thay thế bằng nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn (do được hưởng chính sách ưu đãi thuế quan…) Chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên (tức là thay thế những người cung cấp sản phẩm cùng loại có chi phí thấp hơn nhưng không được hưởng các chính sách ưu đãi bằng những người cung cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn (kém hiệu quả ) nhưng được hưởng sự ưu đãi của khối. Có thể đưa ra một ví dụ giản đơn để minh hoạ như sau: Trước đây Singapo thường nhập cà phê của Braxin với giá thấp hơn của Việt Nam vì giá cà phê cuả Braxin là 1500 USD/ tấn còn Việt Nam là 1600USD/tấn với mức thuế nhập khẩu cho cả hai trường hợp là 20%. Nhưng sau khi Việt Nam ra nhập liên minh thuế quan thì bây giờ giá ca phê nhập khẩu từ Việt Nam không bị đánh thuế nữa và chỉ là 1600 USD/tấn thấp hơn giá cà phê nhập từ Braxin (1800USD/ tấn) vì có thuế nhập khẩu là 20%. Chính vì vậy, việc nhập khẩu cà phê của Singapore sẽ chuyển hướng từ thị trường Braxin sang thị trường Việt Nam. Cần phải nhận thấy rằng việc chuyển hướng mậu dịch chỉ đưa lại lợi ích cục cho các quốc gia trong nội bộ liên minh. Còn xét một cách tổng thể trên phạm vi thế giới thì liên minh thuế quan cục bộ đã làm giảm phúc lợi chung của thế giới nếu như liên minh đó đưa tới xu hướng khuyến khích các ngành sản xuất kém hiệu quả. Như vậy, những tác động tích cực và tiêu cực do thương mại đưa lại là sự kết hợp chặt chẽ của sự thay đổi cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực tiêu dùng. Đó là sự thay thế của các ngành sản xuất trong nước bằng ngành hàng của các nước đối tác trong liên minh (tác động về sản xuất) và sự thay thế tiêu dùng hàng nội địa bằng hàng của các nước đối tác (tác dụng với tiêu dùng). Tác động tổng thể đối với các nước thành viên phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tác động tích cực và tiêu cực mà thương mại tạo ra. Nếu những tác động tích cực đưa lại những lợi ích lớn hơn những lợi ích tổn hại do tác động tiêu cực gây ra đối với một nước thành viên nào đó, thì khi đó hiệp định mậu dịch tự do xét một cách tổng thể là có lợi đối với quốc gia thành viên đó. Tổng quát lại có thể khẳng định rằng hội nhập vào khu vực, tham gia tích cực vào khu vực mậu dịch tự do chỉ mang lại hiệu quả cao nếu những người sản xuất có hiệu quả nhất (chi phí thấp nhất) là các nước thành viên hoặc khi hiệp định về mậu dịch không làm giảm đi những hoạt động buôn bán giữa các nước thành viên với các khu vực và các quốc gia còn lại trên thế giới. Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý,… từ quốc gia khác trong liên minh. Về lâu dài tự do trương mại góp phần tăng năng xuất lao động , tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh té bằng hai cách: tăng xuất khẩu và tăng năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuát là vốn và lao động. Trước hết, việc đâỷ mạnh xuất khẩu sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất của từng quốc gia, điều đó được thể hiện: - Thực hiện tự do hoá thương mại đang gây ra áp lực lớn đối với mỗi quốc gia trong liên minh trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, buộc các ngành phải phấn đấu giảm giá hoặc giữ giá ở mức tương đối thấp. Muốn vậy các ngành này phải nhanh tróng thay đổi công nghệ, áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. - Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia thành viên đang có xu hướng tập trung đầu tư và phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả nhất và phát huy tối ưu những lợi thế về nguồn lực của mình. - Việc hội nhập vào khu vực sẽ cho phép mỗi quốc gia thành viên năng cao hiệu quả xuất khẩu theo quy mô và do đó thúc đẩy tăng trưởng sản xuất. - Đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng vốn tích luỹ và do đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng không ngừng. - Tăng cường xuất khẩu góp phần tạo lập cân bằng cán cân thanh toán theo hướng tích cực, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia đây là điều kiện quan trọng để giảm lãi xuất cho vay khuyến khích người sản xuất kinh doanh vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tốc độ tăng trưởngvà phát triển kinh tế… Tiếp đến việc tăng hiệu quả sản xuất nhờ nâng cao năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuất cho phép mỗi quốc gia thành viênkhông cần phải thay đôỉ cơ cấu vật chất của sản xuất, thậm chí không tăng thêm chi phí sản xuất mà vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên bất cứ vấn đề gì cũng có tính hai mặt của nó. Việc hội nhập kinh tế khu vực cũng có mặt trái của nó, cũng có những thách thức mà một quốc gia phải lường trước, tính toán để hạn chế , vượt qua. Đó là : - Các nước thành viên phải nhanh chóng điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên cơ sở xoá bỏ những hạn chế về thương mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan, trong đó phải kể đến sự điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng,cơ cấu giá và tỷ giá hối đoái. - Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp . - Cải cách hệ thống tài khoá, đặc biệt là những trường hợp thuế quan mậu dịch có tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu ngân sách và do đó làm nảy sinh những khó khăn cho việc cân đối ngân sách của chính phủ. - Cần phải thiết lập khuôn khổ pháp lý chung (luật chơi chung) đối với các nước thành viên trước hết cần giải quyết một số vấn đề có liên quan tới các quy định thuế quan, hải quan, chuẩn mực lao động, môi trường sinh thái, chất lượng sản phẩm. - Vấn đề giải quyết công bằng, bình đẳng trong xã hội và giữa các nước trong nội bộ khu vực. Khả năng thu được lợi ích tối đa của mỗi quốc gia khi hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực. Do diều kiện cụ thể của mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế còn khác nhau, các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong điều kiện hội nhập cũng không giống nhau nên mức độ thu lợi cũng có thể khác nhau. Chính vì vậy việc điều hoà các lợi ích giữa các quốc gia và trong nội bộ quốc gia xét cả ở trên tầm vĩ mô và vi mô trở nên cực kỳ quan trọng. Sự ra đời của AFTA . Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thử thách to lớn không thể vượt qua với hiệp hôị các quốc gia Đông Nam á. Nếu không có sự cố gắng chung của toàn hiệp hội , đó là sự xuất hiện của những tổ chức hợp tác khu vực như EU,NAFTA mà asean e ngại sẽ trở thành các khối thương mại khép kín. Do đó sẽ làm cho hàng hoá của asean vấp phải những trở ngại khi thâm nhập các thị trường này. Mặt khác aean đang mất dần lợi thế so ánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực để thu hút đầu tư nước ngoài so với Trung Quốc, Nga và các nước Đông Âu. Kinh tế asean tăng trưởng với nhịp độ cao nhưng vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Năm 1992 theo sáng kiến của Thái lan , hội nghị thượng đỉnh các nước asean họp tại Singapo đã quyết định thành lập khối mậu dịch tự do Asean: AFTA với ba mục tiêu cơ bản: Tự do hoá thương mại Asean bằng việc loại bỏ các hàng rào thúê quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan . Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất. Làm cho Asean thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi đặc biệt là phát triển các thoả thuận thương mại khu vực trên thế giới. Để biến Asean thành khu vực mậu dịch tự do và thực hiện các mục tiêu của AFTA thì các nước thành viên đã kí kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT. Đây là động lực quan trọng nhất. Nội dung của CEPT là trong vòng 10 năm (19 93-2003) giảm thuế quan trong thương mại nội bộ Asean xuống còn từ 0- 5% đối với sáu nước thành viên cũ Asean vào năm 2006 đối với Việt Nam và muộn hơn với Lào, Campuchia đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan. Để thực hiện chương trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong doanh mục biểu thuế quan của mỗi nước được chia vào 4 danh mục sau: 1. Danh mục các sản phẩm giảm thuế gồm các mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế quan ngay với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường. 2. Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế gồm các mặt hàng tạm thời sẽ chưa phải giảm thuế và sau một thời gian nhất định các quốc gia phải đưa toàn bộ các mặt hàng này vào danh mục giảm thuế. 3. Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm, các mặt hàng trong doanh mục này có thời hạn cắt giảm thuế quan muộn hơn, cụ thể là năm 2010 hoăc muộn hơn nữa đối với mặt hàng nhạy cảm cao. 4. Danh mục loại trừ hoàn toàn gồm những sản phẩm không tham gia Hiệp định CEPT. Đây là có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức… Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan ,CEPT còn quy định việc xoá bỏ hạn chế về số lượng nhập khẩu , các rào cản phi thuế quan khác và lĩnh vực hợp tác trong lĩnh vực hải quan. Hiệp định CEPT áp dụng mọi sản phẩm chế tạo kể cả sản phẩm nông sản. Muốn được hưởng ưu đãi giảm thuế trong khuôn khổ CEPT cần thoả mãn hai điều kiện sau. 1. Phải là sản phẩm nằm trong doanh mục sản phẩm giảm thuế và được hội đồng AFTA xác nhận. 2. Các sản phẩmphải có tối thiểu 40%giá trị được chế tạo từ các nước thành viên Asean. 3. Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước nhập và nước xuất khẩu, và phải có mức thuế quan(nhập khẩu)bằng hoặc thấp hơn 20%. III. Sự cần thiết gia nhập AFTA của Việt Nam. Chuyển sang nền kinh tế mở, Việt nam đanh từng bước hội nhập vào xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu, trong đó việc tham gia AFTA của VN được coi là bước khởi đầu quan trọng nhất, có thể ví như cuộc diễn tập toàn diện đầy đủ để chuẩn bị gia nhập diễn đàn hợp tác Châu á - TBD cũng như tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngày 28.7.1995, VN trở thành thành viên chính thức, với tư cách là thành viên của hiệp hội, tháng 12 năm 1995 tại hội nghị thượng đỉnh các nước Asean lần thứ 5, VN đã thực hiện chương trình ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung CEPT bắt đầu 1/1/1996 công bố danh mụcvà tiến hành cắt giảm thuế quan cho cả lộ trình 1996-2000. Việt Nam tham gia Asean, thực hiện AFTA/ CEPT trong hoàn cảnh kinh tế không giống các nước thành viên khác. Hiện nay Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu rất nhiều so với các nước trong khu vực Thu nhập quốc dân của nước ta còn rất thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất nhỏ bé, cơ cấu kinh tế còn rất lạc hậu ,
Tài liệu liên quan