Lươn là loài có hiện tượng sinh sản lưỡng tính (trong tuyến sinh dục có cả tinh
sào và trứng xen kẽ lẫn nhau). Ở miền Bắc nước ta cỡ lươn nhỏ hơn 20cm hoàn
toàn là cái, cỡ 36 - 47cm lươn ở thời kỳ lưỡng tính, cỡ lớn hơn 54 cm hầu hết là
lươn đực.
Mùa lươn đẻ chủ yếu vào tháng 3-6 dương lịch và có thể đẻ vào mùa phụ
tháng 8-9 dương lịch.
Lươn làm tổ đẻ nơi đất sét pha thịt như bờ ruộng, ven kênh mương, bờ ao, .
Trước lúc đẻ, lươn đực có nhiệm vụ khoét hang. Hang thường có hình chữ “U”, cao
hơn mặt nước ruộng khoảng 5 - 10cm. Toàn bộ khu vực hang thường có ba ngách:
- Ngách phụ để thông khí cho lươn thở.
- Ngách chính của tổ thường nằm sâu dưới bùn.
- Ngách từ trên bờ vòng xuống, tạo thành chữ “U”.
Trước khi lươn cái tới đẻ, lươn đực phun đầy bọt trong tổ để lươn cái đẻ trứng
trên đám bọt đó. Lúc đầu đám bọt có màu trắng; khi trứng sắp nở, đám bọt ngả
sang màu ngà. Trong một tổ đẻ số lượng trứng biến đổi từ 80 đến 600 trứng. Cỡ
lươn dài 20 cm có 200 - 400 trứng, dài 30cm có 300 - 500 trứng, cỡ lớn có thể đạt
1000 trứng. Đường kính trứng 3,5 - 4mm.
13 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 08/06/2022 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hướng dẫn kỹ thuật nuôi lươn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ NÔNG NGHIỆP & PTNT ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG
2007
TÀI LIỆU KHUYẾN NÔNG
-2007-
Chuẩn bị mô hình nuôi lươn trong bùn.
Mô hình nuôi giun quế trong bể nuôi lươn.
I/ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA LƢƠN.
1. Sinh sản
Lươn là loài có hiện tượng sinh sản lưỡng tính (trong tuyến sinh dục có cả tinh
sào và trứng xen kẽ lẫn nhau). Ở miền Bắc nước ta cỡ lươn nhỏ hơn 20cm hoàn
toàn là cái, cỡ 36 - 47cm lươn ở thời kỳ lưỡng tính, cỡ lớn hơn 54 cm hầu hết là
lươn đực.
Mùa lươn đẻ chủ yếu vào tháng 3-6 dương lịch và có thể đẻ vào mùa phụ
tháng 8-9 dương lịch.
Lươn làm tổ đẻ nơi đất sét pha thịt như bờ ruộng, ven kênh mương, bờ ao, ...
Trước lúc đẻ, lươn đực có nhiệm vụ khoét hang. Hang thường có hình chữ “U”, cao
hơn mặt nước ruộng khoảng 5 - 10cm. Toàn bộ khu vực hang thường có ba ngách:
- Ngách phụ để thông khí cho lươn thở.
- Ngách chính của tổ thường nằm sâu dưới bùn.
- Ngách từ trên bờ vòng xuống, tạo thành chữ “U”.
Trước khi lươn cái tới đẻ, lươn đực phun đầy bọt trong tổ để lươn cái đẻ trứng
trên đám bọt đó. Lúc đầu đám bọt có màu trắng; khi trứng sắp nở, đám bọt ngả
sang màu ngà. Trong một tổ đẻ số lượng trứng biến đổi từ 80 đến 600 trứng. Cỡ
lươn dài 20 cm có 200 - 400 trứng, dài 30cm có 300 - 500 trứng, cỡ lớn có thể đạt
1000 trứng. Đường kính trứng 3,5 - 4mm.
Ở nhiệt độ 30oC trong vòng một tuần lễ trứng nở ra lươn con, tới ngày thứ 10
noãn hoàng tiêu biến hết, lúc này lươn dài khoảng 20mm có thể tự kiếm mồi được.
2. Tính ăn
Lươn là loài ăn tạp, nhưng ăn động vật có chất tanh là chính. Khi còn nhỏ,
lươn ăn sinh vật phù du, giai đoạn tiếp ăn côn trùng bọ gậy, ấu trùng chuồn chuồn,
đôi khi ăn các thể hữu cơ vụn nhỏ (rễ lúa, các tạo sợi...).
Lươn lớn ăn giun, ốc, tôm, tép, cá con và những động vật trên cạn gần mép
nước như: giun, dế...
Khi thiếu thức ăn, lươn có thể ăn thịt lẫn nhau, lươn tìm thức ăn nhờ vào khứu
giác là chủ yếu. Mùa lươn đẻ, chúng hầu như không ăn. Nhiệt độ sống thích hợp là
22 -25
oC, lúc nhiệt độ xuống thấp dưới 10oC lươn ngừng kiếm ăn và đào hang sâu
để trú qua đông. Cường độ ăn mạnh vào tháng 5 -7, lươn béo vào mùa thu và mùa
xuân trước khi đẻ.
3. Sinh trƣởng
Lươn 1 tuổi dài 27 cm nặng 18 -60g.
Lươn 2 tuổi dài 36-48 cm nặng 40 -100g.
Lươn con năm thứ nhất lớn nhanh về chiều dài, sang năm thứ 2-3 trọng lượng
tăng lên là chủ yếu.
Trong điều kiện tự nhiên, đánh bắt lươn có chiều dài 30 - 50cm chiếm ưu thế.
4. Tập tính sinh sống.
Lươn thường thích ở nơi đất thịt pha sét, đất bùn. Màu sắc của lươn biến đổi
theo môi trường sống. Hang lươn lớn hay nhỏ tùy theo cỡ của lươn, chỗ ở thường
có nhiều ngõ ngách, hang của lươn không cố định. Khi gặp người bắt, lươn có thể
tháo chạy rất nhanh xuyên qua cả lớp đất tương đối rắn.
Lươn hoạt động mạnh vào mùa hè, hay đi kiếm ăn sau trận mưa rào, có khi
sống thành đàn đi kiếm ăn.
II/ KỸ THUẬT NUÔI LƢƠN
2.1 Vị trí xây dựng ao nuôi
Nhìn chung, một vị trí lý tưởng cho xây dựng ao nuôi nên có các đặc điểm
sau:
- Ao phải gần nguồn kênh rạch để tiện lợi cho việc cấp và thóat nước, nơi thiết
kế ao phải thóang đề phòng rắn và chuột phá hại sau này.
- Nếu thiết kế ao đất thì phải chọn địa điểm đất có ít phèn, nơi tương đối yên
tỉnh.
- Ao nên gần nhà để tiện chăm sóc, quản lý, bảo vệ.
Tùy theo điều kiện kinh tế, điều kiện môi trường, diện tích ao và khả năng
quản lý mà quyết định nuôi theo hình thức nào, nuôi mật độ dày hay mật độ thưa.
Song, người nuôi cần tạo môi trường sống cho lươn tương tự như môi trường tự
nhiên của chúng ở bên ngoài.
2.2 Thiết kế và chuẩn bị ao nuôi
Nên chọn nơi có địa thế hơi cao, hướng về phía mặt trời, tránh gió bão, nguồn
nước phong phú, chất nước tốt, có độ dốc nhất định để tháo nước. Hình dáng, kích
thước bể tuỳ theo quy mô nuôi mà quyết định, bể nhỏ có thể vài m2, nhìn chung từ
10 – 30 m2 là thích hợp, bể đất hoặc bể xi măng đều được, chỉ cần nắm vững
nguyên tắc đề phòng không cho lươn bò đi, cấp thoát nước thuận tiện. Có thể thiết
kế theo 2 kiểu bể nuôi lươn như sau :
a/ Ao đất lót nilon: chọn nơi có đất cứng, đào sâu xuống khoảng 20-40cm, lấy
phần đất trên mặt đắp bờ cao khoảng 40-60cm, rộng 1m (cần nện thật chặt từng lớp
đất). Riêng phần đáy ao, sau khi đào xong cũng phải nện và lót thật chặt. Xung
quanh bờ và đáy ao có thể dùng nilon để lót hoặc bờ ao có thể xây cao có gờ hoặc
lưới giăng để tránh lươn vượt bò đi mất.
b/ Bể xi măng: Xây bể bằng gạch, có thể tận dụng bể chứa nước, chuồng heo
sau khi đã sửa chữa lại để nuôi lươn để giảm chi phí đầu tư cho bể nuôi. Nếu xây
bể nuôi mới thì thiết kế có chiều cao 0,8-1m, diện tích từ 10 – 30 m2 để dễ dàng
kiểm tra và quản lý trong quá trình nuôi. Đáy bể nên lát bằng gạch hoặc tráng xi
măng thật láng để tránh làm xây xát lươn trong quá trình nuôi.
Bể nuôi không nên để trống ngoài trời vì lươn không ưa ánh sáng mạnh và ánh
nắng sẽ làm nóng nước. Nên làm giàn trồng dây leo hoặc làm mái che nắng mưa
cho lươn bằng lưới nilon.
Bể nuôi cần thiết kế đường ống cấp thoát nước. Ống cấp nước phải thấp hơn
mặt nước để khi cấp nước không gây tiếng động, ống thoát nước tốt nhất là ống
thoát tràn (có bịt lưới) để tự động thoát nước phòng tránh lươn đi khi nước dâng lên
tràn bể nuôi. Nếu nước sâu quá, lươn sẽ vận động nhiều, tiêu tốn nhiều năng lượng
của cơ thể nên sẽ chậm lớn.
Đối với ao đất lót nilon hay ao xi măng thì trong mỗi kiểu ao nuôi đều có hai
hình thức nuôi. Chúng ta có thể thực hiện nuôi lươn theo 2 dạng đáy có đất hoặc
tạo thành từng ụ đất và đáy không có đất.
2.2.1 Nuôi theo mô hình có bùn.
Có thể áp dụng trong bể xi măng hay trong ao đất lót nilon. Nếu diện tích ao
lớn có thể nuôi thêm giun quế trên mặt ụ đất ngay trong bể nuôi lươn. Công việc
chuẩn bị gồm: lấy bùn, chuối cây, rơm, cỏ mục, phân giun quế hay phân bò hoai và
lục bình.
- Chuối cây: đập dập hay chẻ nhỏ, ngâm dưới mương rạch (hoặc ngâm ngay
trong bể xi măng mới xây để xử lý bể trước khi nuôi) cho ra hết chất chát thời gian
35- 40 ngày. Sau khi đã sử lý, vớt cho vào bể xi măng tiếp tục ngâm nước đến khi
xác chuối cây đã chín (hoai mục, nước không còn màu đen sau khi ngâm 3 ngày).
- Bùn (đất): Chất liệu đất phải là đất cục, xắn ngoài ruộng đang canh tác,
phải chọn loại đất để khi rả ra không làm đục nước. Nếu được đất thịt pha sét hoặc
đất sét thì rất tốt, bà con gọi là đất mỡ gà vì đất này khi cho nước vào không làm
đục nước. Lớp đất bùn không nên có lẫn cát hoặc những mãnh vụn bén nhọn.
- Nếu đất rã ra đục nước thì lươn thiếu oxy sẽ bị ngóc đầu lên và phồng xoang
hầu to lên, kéo dài ngày lươn dễ bệnh. Chất liệu đất rất quan trọng, yếu tố này
quyết định tỉ lệ thành công khoảng 60% trong việc thực hiện mô hình nuôi. Có thể
lấy bùn từ đất phù sa tầng mặt ven sông (không gần với nguồn nước thải khu công
nghiệp hay trên ruộng có thuốc trừ sâu hay thuốc diệt cỏ). Đất mang về phơi khô
vài ngày để các khí độc trong đất bay hơi.
- Đắp ụ đất cao 30-35cm gồm: dưới cùng là một lớp chuối cây (hoặc rơm, cỏ
mục) 10cm, tiếp theo là một lớp bùn dày 10cm và lớp trên cùng là chuối cây, cỏ,
rơm mục và bùn 10-20cm.
- Sau khi đắp ụ tiến hành phơi bể 2- 3 ngày để ụ đất khô không bị sạt lở khi
cấp nước vào. Tiếp theo cho nước vào ngập ụ đất 10cm ngâm 2-3 ngày thì xả nước
cũ và lập lại 2 lần để xử lý hết chất chát còn lại trong chuối và các khí độc còn lại
trong đất.
- Cấp nước vào nuôi: Mực nước từ 25-30cm, tức thấp hơn ụ bùn 5-10cm. Nếu
nuôi giun quế ngay trong bể thì cho một lớp phân bò hoai 10 cm vào các ụ đất rộng
trong bể để nuôi giun trực tiếp cho lươn ăn sau này, mật độ giun thả từ 2-3kg/m2,
quan sát khi giun ăn hết thức ăn phải thay lớp phân bò hoai mới, cần hạn chế gây ra
tiếng động làm lươn bỏ ăn, giữ cho lớp phân luôn luôn ẩm để tạo điều kiện tốt cho
giun ăn mồi và sinh sản nhanh. Thả lục bình vào rãnh nước giữa các ụ bùn có tác
dụng ổn định nhiệt độ và hấp thu dưỡng chất từ lớp phân bò và phân giun hòa tan,
làm sạch nước (lục bình cần rửa sạch rễ trước khi cho vào bể nuôi, là lắng tụ các
vật chất vô cơ làm trong nước). Các ụ đất còn lại trong bể có thể trồng các loại cỏ,
rau mác, môn nước để tạo cảnh quan tự nhiên.
2.2.2 Nuôi theo mô hình sử dụng dây nilon.
Đối với mô hình nuôi lươn trong bể lót nilon hoặc bể xi măng không có lớp
đất ở đáy: Chúng ta căng lưới phía trên, căng lưới thẳng, cho lưới ngập vào nước
khoảng 15-20 cm, kích thước mắt lưới lớn 3-4cm, để khi lươn lớn có thể chui rúc
lên không bị kẹt, xây xát. Phía trên lưới dùng dây bẹ (dây nilon) màu đen (phù hợp
màu bùn) xé nhỏ bó lỏng và trãi đều khắp phía trên như rong cỏ để lươn chui rúc
vào trú ẩn. Mực nước trong bể duy trì khoảng 40-45 cm, và nước ngập trên dây bẹ
5-10cm.
Dây nilon phải được xử lý trước khi đưa vào sử dụng bằng cách ngâm trong
nước 10-15 ngày để các hóa chất tẩm trong dây nilon được rữa trôi và tảo bám vào
dây nhằm hạn chế độ bén của dây nilon làm xây xát lươn trong quá trình nuôi.
Điểm thuận lợi của phương pháp này là dễ dàng vệ sinh, chăm sóc theo dõi
trong suốt quá trình nuôi, có thể phân cỡ dễ dàng khi trong bể có những con vượt
đàn. Nhưng cần phải chú ý đến nhiệt độ nước trong bể vào mùa hè để có biện pháp
xử lý kịp thời.
2.3 Nguồn giống
Hiện nay, việc sản suất nhân tạo lươn giống vẫn còn trong giai đoạn nghiên
cứu. Vì thế việc nuôi lươn thịt chủ yếu vẫn dựa vào nguồn giống thu gom ngoài tự
nhiên hoặc vớt lươn bột, vớt trứng về ấp cho nên có nhiều vấn đề tồn tại đang gặp
phải mà ít nhiều đã ảnh hưởng đến việc sản suất như:
- Lươn có kích cỡ không đồng đều
- Lươn bị xây xát do đánh bắt và bị hao hụt nhiều sau khi thả
- Nguồn giống hiếm và bị động.
- Giá lươn giống cao.
Khắc phục những tồn tại nêu trên hiện đang là mối quan tâm chung của người
sản xuất cũng như người làm công tác nghiên cứu.
2.4 Con giống
a/ Chọn giống
Hiện nay, Lươn có 3 loại :
- Loại màu vàng sẫm, phát triển tốt nhất.
- Loại màu vàng xanh, phát triển bình thường.
- Loại màu xám tro, chậm lớn.
Bắt từ các nguồn sau: Bắt trực tiếp lươn sẵn có trong tự nhiên (từ tháng 6 - 10
hằng năm) và thu gom mua ở chợ.
Mật độ thả phải căn cứ vào điều kiện môi trường và trình độ quản lý của người
nuôi mà quyết định. Mật độ nuôi lươn thường từ 40-50 con/m2 với kích thước lươn
giống từ 60-80 con/kg. Cần chọn lươn giống có kích cở đồng đều tránh thả lươn
chênh lệch nhau quá nhiều vì khi đói lươn tranh mồi và có thể ăn thịt lẫn nhau. Con
giống khỏe, nhiều nhớt, không xây xát, bụng không ửng đỏ, không có hiện tượng
phồng mang.
Không nên chọn con giống:
- Lươn có kích cỡ lớn từ 8-10 con/kg.
- Lươn bắt từ nguồn gốc dẫn dụ bằng thuốc hoặc dược thảo, các chất này sẽ
hủy hoại tế bào máu hoặc làm hư đường ruột.
- Lươn bị mất nhớt từ lổ hậu môn trở dần về đuôi, hoặc từ 1/3 thân trở về
đầu, đặc biệt viền nấp mang có màu đỏ hoặc tím nhạt.
- Xung quanh lổ hậu môn lươn có màu đỏ hoặc những chấm xuất huyết.
b/ Vận chuyển lƣơn giống
- Vận chuyển khô
Nếu vận chuyển lươn giống từ nơi mua về nơi thả nuôi trong các dụng cụ
không giữ được nước thì không nên chứa nhiều lươn trong một diện tích nhỏ vì
lươn sẽ bị chết hoặc bị mệt do lươn đè lên nhau.
Có một điều cần lưu ý khi vận chuyển lươn bằng phương pháp này là phải giữ
da lươn luôn ẩm ướt bằng cách thường xuyên tưới nước lên mình lươn. Vì da lươn
là một cơ quan hô hấp và cơ quan hô hấp này chỉ họat động tốt khi da lươn luôn ẩm
ướt. nếu da lươn bị khô thì lươn dễ bị mệt hoặc chết do thiếu oxy để thở. Đây cũng
là một nguyên nhân gây hao hụt. Trong quá trình vận chuyển có thể bố trí thêm
rơm mục, cỏ, lục bình ướt, mềm để tạo môi trường trú ẩn, lươn không cuốn vào
nhau và luôn giữ ướt được da lươn.
- Vận chuyển ướt.
Nếu dụng cụ chứa lươn giữ được nước thì tỉ lệ trọng lượng lươn giống và
trọng lượng nước nên theo tỉ lệ 1:1. Cần bố trí thêm rơm mục, cỏ, lục bình ướt,
mềm để hạn chế lươn cuốn vào nhau.
Ngoài ra có thể chuyển lươn bằng túi nilon. Bao có kích thước 60 x 90cm.
Lượng nước chứa trong bao khỏang 10 lít. trọng lượng lươn không quá 5kg. Thới
gian vận chuyển nếu quá 8 giờ phải thay nước. Trong quá trình vận chuyển cần có
biện pháp che mát cho lươn.
c/ Phƣơng pháp thuần dƣỡng lƣơn
Do không rõ nguồn gốc, phương pháp đánh bắt lươn giống nên việc thuần
dưỡng lươn sẽ quyết định sự thành công hay thất bại trong nuôi thương phẩm.
Quá trình thuần dưỡng đựơc tiến hành theo các bước sau:
- Nên có nhiều bể thuần dưỡng để có thể chứa nhiều cỡ lươn khác nhau.
- Bể thuần dưỡng để nơi thoáng mát và yên tĩnh, tránh ánh nắng trực tiếp (đặt
ở chổ có bóng râm hoặc có mái che).
- Lươn thu gom về phải tắm bằng nước muối 4 - 5% trong 4-5 phút. Sau đó
vớt ra và phân loại trước khi đưa vào nuôi thuần dưỡng.
- Trong 2 - 3 ngày không cho lươn ăn tạo điều kiện thích nghi với môi trường
nuôi nhốt. Mật độ thuần dưỡng 2 - 4 kg/m2.
- Mực nước trong bể thuần dưỡng không quá 30 cm.
- Nguồn nước không nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất công nghiệp và
nước thải sinh hoạt.
- Điều kiện môi trường thích hợp: Nhiệt độ từ 230C - 280C; pH từ 6.5 – 8.0,
Độ mặn không quá 60/00.
- Tùy thuộc vào quá trình thuần dưỡng mà có biện pháp xử lý cụ thể, thay
nước 1 - 2 lần/ngày (nước bị nhiễm bẩn nhiều hay ít do chất thải của lươn tiết ra).
Cần có một bể chứa nước để thay lúc cần thiết.
- Sau 2-3 ngày, cho ăn một ít trùn hoặc một số loại thức ăn mà lươn ưa thích
như giun, cá, tép băm nhuyễn.
- Theo dõi hoạt động và mức ăn mồi của lươn để phòng trị bệnh kịp thời.
- Tránh gây chấn động trong thời gian thuần dưỡng.
- Sau 10 - 15 ngày, cho lươn vào bể nuôi thương phẩm.
d/ Thả giống
Nếu lươn đã qua thuần dưỡng thì sẽ dể dàng đưa vào nuôi thương phẩm và tỉ
lệ sống rất cao.
Do việc nuôi lươn chủ yếu dựa vào nguồn giống đánh bắt ngoài tự nhiên nên
mùa vụ thả giống có thể quanh năm. Tuy nhiên, vào các tháng mùa mưa, vào mùa
nước thủy triều cao, điều kiện nguồn nước dồi dào và nhiều dinh dưỡng, nhiệt độ
thích hợp và cũng là mùa sinh sản của lươn nên nguồn giống phong phú hơn. Vì
thế, đây là thời điểm thả giống tập trung trong năm.
Thời gian thả giống thích hợp là đầu mùa mưa, vào lúc sáng sớm hay chiều
mát, tốt nhất là thả lươn trước 10 giờ sáng. Trước khi thả lươn vào bể nuôi cần tắm
cho lươn bằng dung dịch nước muối 3-5% trong 4-5 phút (khoảng một muỗng cà
phê cho một lít nước) để trị bệnh ký sinh cho lươn hay phòng các loại vi khuẩn và
nấm có hại cho lươn trong quá trình vận chuyển. Cần chú ý trong lúc tắm cho lươn,
nếu thấy chúng phóng lên khỏi mặt nước hay có biểu hiện bất thường thì vớt lươn
ra ngay và tắm lại bằng nước sạch trong bể nuôi 10-15 phút trước khi thả lươn vào
ao nuôi.
Loại bỏ ngay những con lươn nằm trên mặt bùn, những con nằm ngửa bụng
dưới đáy, những con bơi lội lờ đờ vì lươn sắp chết có những biểu hiện như vậy.
Trong ao có thể thả một ít bèo tây hoặc bèo cái làm nơi trú ẩn cho lươn, xung
quanh ao trồng một ít cây có dàn để mùa hè che mát giảm bớt nhiệt độ nước ao.
2.5 Thức ăn
Sau khi trải qua thời gian thuần dưỡng, lươn đã quen với điều kiện nuôi nhốt,
việc bố trí thức ăn được tiến hành từng bước như sau:
Nên cho lươn ăn vào buổi tối và chọn loại thức ăn lươn ưa thích như giun đất
(1-2% trọng lượng lươn). Sau 10 - 15 ngày có thể cho ăn theo khẩu phần 5 - 8%
trọng lượng lươn nuôi. Thời điểm cho ăn thích hợp nhất: từ 17- 18 giờ.
Theo dõi mức ăn của lươn để hạn chế thức ăn thừa gây ô nhiễm nguồn nước,
khi cho lươn ăn từ 17-18giờ thì sáng sớm hôm sau nên kiểm tra và vớt bỏ phần
thức ăn thừa.
Lươn là động vật ăn tạp thiên về động vật, thức ăn của chúng là cá tạp, ốc,
giun, nhộng tầm, sâu bọ, phế phẩm lò mổSau khi thả lươn không cho ăn ngay, 1-
2 ngày sau thả giống mới tập cho lươn ăn dần với một lượng nhỏ để kích thích lươn
tìm thức ăn khi đói. Nên cho lươn ăn những thức ăn cố định không thay đổi thường
xuyên. Tuy nhiên, không cho lươn ăn một loại thức ăn duy nhất, bởi vì sau đó
muốn thay đổi thức ăn cho lươn rất khó. Tốt nhất là tận dụng những loại thức ăn rẻ
tiền, dễ kiếm miễn sao lươn tăng trọng nhanh là được. Thức ăn ban đầu cần thiết
cho lươn giống là các loại giun sau đó kết hợp dần bằng các lọai thức ăn khác như
cá tạp, ốc băm nhỏ. Cần chú ý phối hợp dần, không thay đổi nhiều và đột ngột
(ví dụ lươn nuôi trong giai đọan thuần dưỡng cho ăn 100% giun quế sau 15 ngày
muốn kết hợp khẩu phần thức ăn với cá tạp thì trước tiên giãm lượng thức ăn còn
50% trong 2-3 ngày sau đó tăng lượng thức ăn trở lại bằng 75% giun cộng với 25%
cá tạp xay nhuyễn. Khi lươn đã quen với khẩu phần thức ăn mới thì tăng dần lượng
cá lên. Nếu muốn tiếp tục bổ xung thêm ốc bưu vàng thì giãm lượng thức ăn còn
50%, giãm lượng cá tạp 25% và bổ xung 25% lượng ốc). Đối với lươn giống nguồn
thức ăn quan trọng trong giai đọan đầu là giun quế, giun đất nó sẽ ảnh hưởng lớn
đến tỉ lệ sống và sức tăng trưởng của lươn trong quá trình nuôi.
Khi cho lươn ăn phải tuân theo nguyên tắc 4 định: định chất, định lượng, định
thời gian, định vị trí.
- Định chất: dùng thức ăn luôn tươi, tuyệt đối không cho lươn ăn thức ăn ươn
thối.
- Định lượng: Lượng thức vừa đủ, nếu cho lươn ăn quá nhiều lươn ăn không
hết sẽ lãng phí thức ăn, nếu cho lươn ăn thiếu thì lươn sẽ tăng trọng kém.Tốt nhất
nên theo dõi lượng ăn hằng ngày mà điều chỉnh hợp lý.
- Định thời gian: Ngày cho ăn 1 lần vào 17-18 giờ chiều. Sau khi lươn quen
có thể tập cho lươn ăn vào thời điểm sớm hơn.
- Định vị trí: Chỗ cho lươn ăn phải cố định, sàn cho ăn làm bằng gỗ hoặc tre,
đáy sàn làm bằng lưới rây, rổ thưa hoặc dùng đĩa sành có kích cở phù hợp với
lượng thức ăn để làm máng ăn cho lươn. Vị trí cho ăn thường đặt ở gần ống thoát
nước để dễ dàng loại bỏ thức ăn thừa.
Thường xuyên bổ xung cá con, tép ruộng (vừa kích cỡ miệng của lươn) vào bể
cho lươn tự tìm thức ăn.
Đối với bể nuôi có kết hợp nuôi giun thì cũng cần phải cho lươn ăn thêm và
cũng cần phối hợp thêm các loại thức ăn khác để dễ dàng thay đổi thức ăn sau này
và giun trong bể nuôi có thời gian sinh sản. Thường xuyên kiểm tra sức ăn của giun
để cấp thêm phân và lượng giun còn lại trong ụ đất để bổ sung kịp thời.
2.6 Quản lý bể nuôi
- Phòng chất nước bị ô nhiễm: Ao nuôi lươn yêu cầu nước lưu thông, sạch. Do
mực nước trong bể nuôi lươn rất nông chỉ có 20 - 25cm mà thức ăn lại giàu đạm
nên nước rất dễ bị nhiễm bẩn ảnh hưởng đến tính bắt mồi và sinh trưởng của lươn.
Khi nước quá bẩn thì lươn có biểu hiện nửa thân trước của lươn dựng thẳng đứng
trong nước, đầu nhô lên khỏi mặt nước để thở. Khi có hiện tượng đó phải nhanh
chóng thay nước mới vào. Ðể phòng tránh chất nước nhiễm bẩn thì từ 2 - 3 ngày
thay nước 1 lần. Mùa hè nhiệt độ cao thời gian thay nước ngắn hơn, thường xuyên
vớt bỏ thức ăn thừa, rác bẩn ... Tốt nhất mỗi ngày thay nước 2 lần vào lúc sáng
sớm và trước khi cho ăn.
- Khi thay nước cần chú ý lượng nước cấp bằng lượng nước thoát ra bằng hệ
thống chảy tràn, không nên tháo nước trước rồi mới cấp nước vào.
- Phòng nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp: Mùa hè nắng nóng phải che hoặc làm
dàn cho mát hoặc thả nuôi trong ao một ít rong, lục bình, trồng cỏ, rau mác, môn
nước ngay trên các ụ đất, thường xuyên thay nước.
- Trong suốt quá trình nuôi phải đảm bảo môi trường thích hợp: Nhiệt độ từ
23
0
C - 28
0C; pH từ 6,5 - 8,0. Độ mặn không quá 6o/oo.
Phòng lươn bò trốn: phải thường xuyên kiểm tra phát hiện có những khe hở
phải kịp thời sửa chữa.
2.7 Phòng và trị bệnh
- Không quá 3 ngày nên thay nước 1 lần.
- Nếu thấy lươn dựng đầu khỏi mặt nước thì phải thay nước do môi trường
nước đã ô nhiễm. Nếu bể nuôi bốc mùi hôi thối mà thay nước vẫn không hết thì
phải thay lớp đất bùn ở những nơi cho ăn hoặc thay toàn bộ lớp đất bùn vì trong
quá trình nuôi đã cho ăn dư thừa hoặc do xác lươn chết phân hủy.
- Định kỳ khoảng 7 ngày trộn vitamin C vào thức ăn để tăng cường sức đề
kháng và sử dụng chế phẩm sinh học, Zeolite... để hạn chế ô nhiễm nguồn nước.
2.8 Một