Nằm ở rìa bắc của khối nâng Kontum, khu vực hồ thủy điện Sông Tranh 2 (ST2), Quảng Nam
có tính địa chấn yếu. Ngay sau khi tích nước, (11/2011) động đất kích thích hồ chứa đã xẩy ra với
tần suất và độ lớn (magnitude) ngày một tăng.Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 1366 động
đất trong thời gian từ 8/2013 đến 10/2015 và áp dụng thuật toán LOTOS-12 để thực hiện cắt lớp địa
chấn 3-D cho sóng địa chấn P, S, tỷ số Vp/Vs. Kết quả cho thấy phần phía Đông hồ có vận tốc cao
hơn phần trung tâm và phần phía Tây và phía Nam. Tại rìa Tây Bắc hồ chứa, tồn tại dải dị thường
vận tốc cao theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Dị thường vận tốc này có thể là ngyên nhân cho việc
tập trung đến hơn 70% động đất và các động đất với M ≥ 4.0 tại đây. Đứt gẫy Hưng Nhượng – Tà
Vi biểu hiện trên dải dị thường tỉ số vận tốc Vp/Vs cao có giá trị từ 1.72 – 1.74. Ở mức độ kém rõ
ràng hơn,dải dị thường Vp/Vs cao tương đối ở rìa Bắc hồ đi sang phía Tây và từ trung tâm hồ chạy
xuống phía Nam. Đối với các đá kết tinh rắn chắc như tại vùng hồ ST2, tỉ số Vp/Vs cao thường
phản ánh tình trạng nứt nẻ cao. Dựa trên lập luận này có thể dự đoán/giải thích việc tập trung động
đất ở khu vực lân cận đứt gẫy Hưng Nhương – Tà Vi là do áp lực nước tại hồ chứa đi theo đới dập
vỡ cao tác động đến đứt gẫy gây nên.
4 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 09/06/2022 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nghiên cứu cắt lớp địa chấn tại vùng hồ thủy điện sông Tranh 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường”
DOI: 10.15625/vap.2019.000115
198
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CẮT LỚP ĐỊA CHẤN TẠI VÙNG
HỒ THỦY ĐIỆN SÔNG TRANH 2
Lê Tử Sơn, Hà Thị Giang, Đinh Quốc Văn
Viện Vật lý địa cầu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Email: letuson@yahoo.com, hagiangvast@gmail.com , vandqigp@gmail.com
TÓM TẮT
Nằm ở rìa bắc của khối nâng Kontum, khu vực hồ thủy điện Sông Tranh 2 (ST2), Quảng Nam
có tính địa chấn yếu. Ngay sau khi tích nước, (11/2011) động đất kích thích hồ chứa đã xẩy ra với
tần suất và độ lớn (magnitude) ngày một tăng.Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 1366 động
đất trong thời gian từ 8/2013 đến 10/2015 và áp dụng thuật toán LOTOS-12 để thực hiện cắt lớp địa
chấn 3-D cho sóng địa chấn P, S, tỷ số Vp/Vs. Kết quả cho thấy phần phía Đông hồ có vận tốc cao
hơn phần trung tâm và phần phía Tây và phía Nam. Tại rìa Tây Bắc hồ chứa, tồn tại dải dị thường
vận tốc cao theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Dị thường vận tốc này có thể là ngyên nhân cho việc
tập trung đến hơn 70% động đất và các động đất với M ≥ 4.0 tại đây. Đứt gẫy Hưng Nhượng – Tà
Vi biểu hiện trên dải dị thường tỉ số vận tốc Vp/Vs cao có giá trị từ 1.72 – 1.74. Ở mức độ kém rõ
ràng hơn,dải dị thường Vp/Vs cao tương đối ở rìa Bắc hồ đi sang phía Tây và từ trung tâm hồ chạy
xuống phía Nam. Đối với các đá kết tinh rắn chắc như tại vùng hồ ST2, tỉ số Vp/Vs cao thường
phản ánh tình trạng nứt nẻ cao. Dựa trên lập luận này có thể dự đoán/giải thích việc tập trung động
đất ở khu vực lân cận đứt gẫy Hưng Nhương – Tà Vi là do áp lực nước tại hồ chứa đi theo đới dập
vỡ cao tác động đến đứt gẫy gây nên.
Từ khóa: Cắt lớp địa chấn, dị thường vận tốc, tỉ số vận tốc Vp/Vs, hồ Sông Tranh 2
1. GIỚI THIỆU
Đập thủy điên Sông Tranh 2 (ST2) nằm ở huyện Bắc Trà My, Quảng Nam cao 96 m, dung
tích hồ chứa 730 triệu m3.Cho đến trước khi tích nước (29/11/2010), tại đây chỉ ghi nhận được 1
động đất vào năm 1715 (tài liệu lịch sử). Ngay sau khi tích nước, từ 12/2010 tại vùng hồ đã xuất
hiện nhiều động đất, liên tục và kéo dài trong nhiều năm. Trong thời gian từ 12/2012 đến 10/2015,
mạng lưới gồm 10 trạm địa chấn xung quanh hồ ST2 đã ghi được hơn 3000 trận động đất [3] tạo
khả năng cho việc nghiên cứu cắt lớp địa chấn cho vùng hồ.
2. PHƢƠNG PHÁP
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phần mềm LOTOS-12 [2].Chương trình LOTOS-12
sử dụng 2 tập số liệu chính: tọa độ mạng trạm địa chấn và thời gian tới trạm của sóng P và sóng S từ
các động đất địa phương.Chương trình tính toán bao gồm các bước chính sau: 1) Tính toán mô hình
vận tốc 1-D và vị trị động đất ban đầu tối ưu; 2) Xác định vị trí động đất trong mô hình động đất 3-
D và 3) Nghịch đảo đồng thời các thông số của động đất và mô hình vận tốc. Các bước (2) và (3)
được tính cho một vài bước lặp và dừng lại khi đạt tới một giá trị định trước. Trong LOTOS-12,
Koulakov [2] đã sử dụng thuật toán uốntia để tìm cực tiểu thời gian truyền sóng và dùng phương
pháp gradient để tìm cực trị của hàm mục tiêu trong việc xác định vị trí động đất trong mô hình vận
tốc 3-D và tiến hành nghịch đảo với một vài lưới có hướng khác nhau (0º,22º,45º,67º) nhằm giảm
ảnh hưởng của phân bố của các nút.
Để tiến hành cắt lớp địa chấn đối với vùng hồ ST2 chúng tôi đã lựa chọn 1366 động đất thỏa
mãn các điều kiện sau: a) Chấn tiêu động đất được xác định với số liệu của ít nhất là 5 trạm địa
chấn có pha sóng P và pha sóng S rõ ràng; b) Góc hở tính từ chấn tiêu đến 2 trạm địa chấn liên tiếp
lớn nhất không vượt quá 1800. Phần lớn chấn tâm (đến 75%) tập trung tại phía Bắc hồ chứa, giữa
các đứt gẫy nhỏ tạo thành dải hẹp theo theo hướng TB-ĐN. Độ sâu chấn tiêu của các động đất < 10
km (chủ yếu từ 5-7 km).
Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường”
199
Các động đất còn lại, một phần tập trung quanh đứt gẫy Hưng Nhượng – Tà Vi (HN-TV) và
phân bố rải rác giữa đứt gẫy HN-TV và đứt gẫy Trà Bồng. Mô hình vận tốc tại vùng hồ ST2 được
xác định theo phương pháp VELEST [1].
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nghiên cứu cắt lớp địa chấn tại hồ ST2 được tiến hành tính toán phân bố thay đổi vận tốc Vp
và tỉ số Vp/Vs theo các mặt cắt ngang tại độ sâu: 1, 3, 5, 7 km. Kết quả nghiên cứu chủ yếu được
biểu diễn trên các hình 1 và hình 2.
Hình 1. Kết quả cắt lớp địa
chấn theo vận tốc sóng dọc
Vp tại vùng hồ ST2 theo các
mặt cắt ngang ở các độ sâu 1
km (a), 3 km (b) , 5 km (c) và
7 km (d). Các chấm đỏ trên
hình vẽ biểu thị vị trí chấn
tiêu có độ sâu 0 – 2km (a),
2-4 km (b), 4-6 km (c) và 6-8
km (d).
Trên tất cả các mặt cắt ngang trong hình1 đều phản ánh phần phía Đông và phía Bắc hồ
ST2có Vp cao hơn trung bình, trong khi đó phần phía Tây và trung tâm Vp nhỏ hơn trung bình từ
1% - 1.5% và đều tồn tại một dải dị thườngVp cao hơn trung bình đến > 5% tại rìa phía Bắc hồ. Tại
đây, động đất xẩy ra thường xuyên và nhiều bao gồm toàn bộ động đất với M ≥ 4.0.
Trên hình 2, các mặt cắt ngang tại độ sâu 1, 3 và 5 km đều thể hiện giá trị Vp/Vs nằm trong
khoảng từ 1.65 đến 1.69 và dải giá trị Vp/Vs với giá trị từ 1.72 đến 1.74 xung quanh vị trí phân bố
của đứt gãy HN-TV. Mặc dù vậy, tại mặt cắt ngang ở độ sâu 3 km (hình 2b) dải giá trị Vp/Vs cao
này thể hiện kém hơn. Tại mặt cắt ngang ở độ sâu 5 km, còn xuất hiện dải giá trị Vp/Vs cao hơn so
với lân cận theo hướng Nam từ trung tâm hồ dến đứt gẫy HN-TV và dải nữa theo hướng Tây theo
rìa vùng hồ phía Bắc.
Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2019
200
Hình2. Kết quả cắt lớp địa
chấn theo tỉ số vận tốc sóng
dọc Vp và sóng ngang Vs tại
vùng hồ ST2 theo các mặt
cắt ngang ở các độ sâu 1 km
(a), 3 km (b) , 5 km (c) và 7
km (d).
Các đá phân bố trong vùng hồ thủy điện ST2 đều là đá kết tinh, rắn chắc, có mật độ và vận tốc
truyền sóng cao. Đối với các đá kết tinh rắn chắc, tỉ số Vp/Vs cao thường phản ánh tình trạng nứt nẻ
cao, do nước lấp đầy các khe nứt làm cho Vs giảm, trong khi không ảnh hưởng nhiều đến Vp. Như
vậy, áp lực nước hồ sẽ làm tăng áp lực lỗ rỗng trong các đới nứt nẻ. Chính vì vậy động đất thường
tập trung tại các đới có giá trị Vp/Vs cao. Điều này cũng giải thích xu hướng tập trung và dịch
chuyển động đất từ trung tâm hồ lên rìa phía Bắc và về phía Đông Nam theo hướng đứt gẫy HN-
TV. Mặt khác, không thấy nhiều động đất tại đứt gẫy Trà Bồng mặc dù đứt gẫy này được đánh giá
là hoạt động nhất khu vực trong các nghiển cứu về kiến tạo. Trên hình 1 và hình 2 cho thấy không
có dị thường Vp và Vp/Vs tại đứt gẫy này.
4. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cắt lớp địa chấn tại vùng hồ ST2 đã xác định được các vùng tập trung động đất có
liên quan đến các dị thường vận tốc và tỉ số vận tốc Vp/Vs. Tuy nhiên, các kết quả này mới chỉ là
bước đầu còn cần thêm số liệu để kết quả chi tiết hơn. Đến nay, vẫn còn nhiều vấn đề tại hồ ST2
còn chưa được giải quyết như sự tập trung váo một vài vùng cũng như sự kéo dài của động đất kích
thích. Các động đất tại hồ ST2 về cơ bản có cơ chế chấn tiêu thuận phản ánh trường ứng suất địa
phương khác hẳn với trường ứng suất khu vực với trục nén hướng á kinh tuyến và trục dãn theo
phương á vĩ tuyến [3] cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm.
Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường”
201
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Kissling E., Ellworth W.L., EberhartPhillips D. and Kradolfer U., 1994: Initialreference models in local
earthquake tomography.J. Geophys. Res., 99, 19635-19646
[2]. Koulakov, I., 2009. LOTOS Code for Local Earthquake Tomography Inversion: benchmarks for testing
algorithms. Bull. Seism. Soc. Am., 99(1), 194–214, doi:10.1785/0120080013
[3]. Lê Huy Minh và nnk, 2016. Báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước 2012-G/57“Nghiên cứu tác
động địa chấn kiến tạo đến sự ổn định công trình thủy điện Sông Tranh 2, khu vực Bắc Trà My, tỉnh
Quảng Nam”.
LOCAL SEISMIC TOMOGRAPHY FOR SONG TRANH 2 HYDROPOWER
RESERVOIR REGION
Le Tu Son, Ha Thị Giang, Dinh Quoc Van
Institute of Geophysis, 18 Hoang Quoc Viet Str., Hanoi
Email: letuson@yahoo.com, hagiangvast@gmail.com, vandqigp@gmail.com
ABSTRACT
Located in the northern margin of KonTum uplift, the Song Tranh 2 hydropower reservoir's
region (in the Center Vietnam) has low seismicity. Just after filling water (11/2011), induced
earthquakes frequently occurred in this region.In this study, we revise data of 1366 events recorded
by the reservoir network from 8/2013 to 10/2015 and applied LOTOS-12 algorism for3-D local
seismic seismic tomography. Results showed that the eastern part of the reservoirs has higher
velocity than central, western and southern parts. At the northwest edge of the reservoir there is an
existence of high velocity anomaly that extends from the Northwest to Southeast. This velocity
anomaly could be the cause for the concentration to 70% induced earthquakes and all events with
magnitude larger than 4.0 in the region. The Hung Nhuong - Ta Vi fault expresses as a trip of high
ratio Vp/Vs anomalies with values of 1.72 - 1.74. At a less clear than above there is the existence
of high Vp/Vs anomaly at the northern edge of the reservoir that goes to the west and of another
anomaly runs from the center of reservoir down to the south. For crystalline rock in the Song Tranh
2 reservoir, the high Vp/Vs ratio often reflects the high crack status. Based on this argument we can
predict/explain the concentration of earthquakes in the neighborhood of the Hung Nhuong - Ta Vi
fault is due to increasing pore pressure in the broken zones that concerned with the fault.
Key words: Local seismic tomography, velocity anomaly, Vp/Vs ratio, Song Tranh 2
hydropower reservoir.