HL-60, dòng tế bào ung thư bạch cầu có hình thái lơ lửng, không bám,được chọn làm mô hình nghiên cứu dựa trên giả thiết RV tăngcườngkhả năng bám dính của tế bào ung thư. DLD-1 là dòng tế bàoung thư ruột kết có hình thái bám và hơn nữa, kết quả ban đầu của nhóm cho thấy RV làm tăng tính bám củadòng tế bào này trên bề mặt nuôi cấy.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2196 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nghiên cứu tế bào ung thư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
31 
Chương 3 
Kết quả - Thảo luận 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm hiểu ảnh hưởng của RV lên: 
- Sự bám dính của hai dòng tế bào ung thư HL-60 và DLD-1. 
- Sự biểu hiện và phosphoryl hóa của FAK, một protein chủ chốt điều 
hòa quá trình bám dính. 
HL-60, dòng tế bào ung thư bạch cầu có hình thái lơ lửng, không bám, được 
chọn làm mô hình nghiên cứu dựa trên giả thiết RV tăng cường khả năng bám dính 
của tế bào ung thư. DLD-1 là dòng tế bào ung thư ruột kết có hình thái bám và hơn 
nữa, kết quả ban đầu của nhóm cho thấy RV làm tăng tính bám của dòng tế bào này 
trên bề mặt nuôi cấy. 
Chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của RV lên sự bám dính của tế bào HL-60 và 
DLD-1 trên fibronectin trong môi trường không huyết thanh và trên bề mặt nuôi cấy 
thông thường trong môi trường 10% huyết thanh. Khi tế bào được nuôi cấy trong 
môi trường có huyết thanh, một số protein của chất nền ngoại bào có trong huyết 
thanh như fibronectin, vitronectin tạo thành giá thể trên bề mặt nuôi cấy, giúp tế bào 
bám và tăng trưởng [10]. Tương tác bám này được hình thành bởi sự gắn của một số 
thụ thể trên màng tế bào lên các protein chất nền. Mỗi protein chất nền lại tương tác 
chuyên biệt với một số thụ thể [10]. Do đó, người ta thường nghiên cứu sự bám 
dính của tế bào trên từng protein chất nền riêng rẽ trong môi trường thiếu huyết 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
32 
thanh để có thể khưu trú những thụ thể chuyên biệt tham gia vào quá trình bám 
dính. Ngoài ra, nghiên cứu của Rodrigue và cs (2005) cho thấy RV đã cảm ứng sự 
gia tăng một cách rõ rệt tính bám dính của dòng tế bào ung thư máu K562 và ung 
thư vú MCF-7 trên giá thể fibronectin [41]. 
3.1. Dòng tế bào HL-60 
3.1.1. Ảnh hưởng của RV lên sự tăng sinh và sức sống của tế bào 
HL-60 
Việc xác định tác động của các nồng độ khác nhau của RV lên sự tăng sinh 
và sức sống của tế bào HL-60 là cần thiết để lựa chọn nồng độ RV thích hợp cho 
nghiên cứu bám dính sau này. Nồng độ RV được chọn phải không ảnh hưởng 
nhiều đến sức sống và có khả năng ức chế sự tăng sinh của tế bào. 
Tế bào HL-60 được nuôi cấy trong môi trường chứa các nồng độ tăng dần của 
RV (7,5; 15; 30; 60; và 120 µM) hoặc DMSO ở nồng độ 0,1% (mẫu không xử lý) 
trong 24 và 48 giờ. Chúng tôi sử dụng phương pháp đếm tế bào với máy đếm tự 
động và thử nghiệm trypan blue để xác định ảnh hưởng của RV lên sự tăng sinh và 
sức sống của dòng tế bào HL-60. Kết quả cho thấy tác động ức chế tăng sinh và 
giảm sức sống của RV trên dòng tế bào HL-60 tăng theo nồng độ và thời gian xử lý 
(hình 3.1 và 3.2). Ở nồng độ thấp 15 µM, RV ức chế vừa phải sự tăng sinh của tế 
bào HL-60 mà không ảnh hưởng đến sức sống trong suốt quá trình ủ. Trong khi ở 
những nồng độ cao hơn, 30 và 60 µM, RV gần như làm dừng hoàn toàn sự tăng sinh 
của tế bào 48 giờ ủ. Ở nồng độ thử nghiệm cao nhất, 120 µM, RV dường như trở 
nên độc với tế bào HL-60 và làm giảm số lượng tế bào sau cả 24 và 48 giờ xử lý so 
với trước khi xử lý. Điều này còn được chứng minh qua sự giảm đáng kể tỉ lệ sống 
của tế bào HL-60, RV ở nồng độ 120 µM gây vỡ màng tế bào và làm chết tế bào 
HL-60. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
33 
200000
300000
400000
500000
600000
700000
800000
0 12 24 36 48
Thời gian ủ với RV (giờ)
S
ố 
tế
 b
ào
Không xử lý
RV 7,5 µM
RV 15 µM
RV 30 µM
RV 60 µM
RV 120 µM
Hình 3.1. Ảnh hưởng của RV lên sự tăng sinh của dòng tế bào HL-60. Kết quả được 
trình bày dưới dạng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của ba thí nghiệm độc lập. 
0
20
40
60
80
100
120
Thời gian ủ với RV
T
ỉ 
lệ
 (
%
) 
tế
 b
ào
 s
ố
n
g
Không xử lý
RV 7,5 µM
RV 15 µM
RV 30 µM
RV 60 µM
RV 120 µM
*
*
*
*
*
Hình 3.2. Ảnh hưởng của RV lên sức sống của dòng tế bào HL-60. Kết quả được 
trình bày dưới dạng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của ba thí nghiệm độc lập. Dấu 
(*) thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 99% giữa từng mẫu được xử 
lý với RV với mẫu không xử lý trong cùng thời gian ủ. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
34 
Kết quả này của chúng tôi phù hợp với kết quả của các công trình trước đây 
nghiên cứu ảnh hưởng của RV lên sự tăng trưởng và sức sống của dòng tế bào HL-
60. Nghiên cứu của Clement và cs (1998) sử dụng thử nghiệm MTT [12] cho thấy 
khi ủ tế bào HL-60 với RV ở nồng độ từ 4 – 32 µM thì tỉ lệ chết của tế bào tăng 
theo nồng độ với hơn 80% tế bào chết sau 48 giờ xử lý. Trong một nghiên cứu khác 
của Ragione và cs (1998) RV ở nồng độ 30 µM ức chế hoàn toàn sự tăng trưởng 
của tế bào HL-60 và những RV ở nồng độ cao hơn (50 và 100 µM) làm giảm số 
lượng tế bào so với trước khi xử lý [39]. 
Vậy với kết quả thu nhận được, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng 
của RV lên khả năng bám dính của tế bào HL-60 ở nồng độ 15 và 30 µM. RV ở 
nồng độ 15 µM ức chế vừa phải sự tăng sinh của tế bào HL-60 mà không ảnh 
hưởng đến sức sống trong suốt quá trình ủ. Trong khi đó, RV ở nồng độ 30 µM ức 
chế hoàn toàn sự tăng sinh của tế bào HL-60 và làm giảm sức sống tế bào ít hơn so 
với nồng độ 60 µM. 
3.1.2. Ảnh hưởng của RV lên khả năng bám của tế bào HL-60 
Thử nghiệm bám trải tế bào được sử dụng trong thí nghiệm này. Chúng tôi ủ 
tế bào HL-60 với RV ở nồng độ 15 và 30 µM hoặc với DMSO ở nồng độ 0,1% 
(mẫu không xử lý) trong môi trường không huyết thanh trên giá thể fibronectin và 
trong môi trường bổ sung 10% huyết thanh trên bề mặt nuôi cấy thông thường trong 
3 và 24 giờ. Kết quả thử nghiệm bám trải tế bào cho thấy RV không làm tế bào HL-
60 trải ra trên bề mặt giá thể. Tế bào HL-60 vẫn giữ nguyên hình thái tròn, lơ lửng 
trong cả hai môi trường nuôi cấy (có và không có huyết thanh) trên cả hai bề mặt 
bám (không phủ và phủ fibronectin) sau 24 giờ ủ với RV ở cả hai nồng độ khảo sát 
(hình 3.3). 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
35 
Ngoài ra, chúng tôi còn thực hiện thêm thử nghiệm bám dính tế bào và kết 
quả cũng tương tự (dữ liệu không trình bày). Tín hiệu huỳnh quang ở tất cả các 
giếng xử lý và không xử lý với RV trong 3 và 24 giờ bằng với tín hiệu nền cho thấy 
RV 30 µM 
Không 
xử lý 
RV 15 µM 
Fibronectin – 0% huyết thanh 10% huyết thanh 
Hình 3.3. Ảnh hưởng của RV lên sự bám trải của dòng tế bào HL-60 sau 24 giờ xử 
lý. Ảnh được chụp ở độ phóng đại 100X, thanh tỉ lệ tương đương 500 µm. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
36 
RV cũng không làm tế bào HL-60 trở nên bám dính trên bề mặt nuôi cấy. Như vậy, 
RV hoàn toàn không có ảnh hưởng lên khả năng bám dính của dòng tế bào ung 
thư máu HL-60. 
Kết quả trên dòng tế bào HL-60 của chúng tôi dường như mâu thuẫn với kết 
quả nghiên cứu của Rodrigue và cs (2005) trên dòng tế bào ung thư máu K562. 
Nghiên cứu này đã chứng minh dưới tác động của RV ở nồng độ 100 µM trong 48 
giờ, tế bào K562 thay đổi hình thái, trở nên bám và mọc trải ra trên chất nền 
fibronectin. Dòng tế bào K562 có nguồn gốc từ một bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu 
dòng tủy mãn tính giai đoạn cuối [16]. Bệnh liên quan đến sự mất khả năng bám 
vào các tế bào đệm tủy xương trong quá trình trưởng thành của các tiền tủy bào do 
đột biến gene, dẫn đến sự đi vào máu của các tế bào chưa trưởng thành này [20], 
[42]. Trong khi đó, HL-60 là dòng tế bào ung thư bạch cầu dòng tủy cấp tính mang 
những sai hỏng trong gene mã hóa cho thụ thể  của acid retinoic điều hòa quá trình 
biệt hóa tế bào máu dòng tủy và gene mã hóa cho một nhân tố phiên mã ức chế tăng 
trưởng, dẫn đến sự ngừng biệt hóa và tăng sinh không ngừng của các tiền tủy bào 
trong bệnh nhân mắc bệnh [9]. Sự khác nhau về đặc tính sai hỏng di truyền có thể 
giải thích cho sự khác nhau trong đáp ứng với RV của hai dòng tế bào ung thư máu 
HL-60 và K562 về khả năng bám dính. 
Một số nghiên cứu cho thấy RV ức chế sự tăng sinh của dòng tế bào HL-60 
bởi sự cảm ứng quá trình biệt hóa [3], [22], [39]. Ngoài ra, một số tác nhân như 
phorbol ester có thể biệt hóa tế bào HL-60 thành bạch cầu đơn nhân và tế bào HL-
60 trở nên bám vào bề mặt nuôi cấy; trong khi DMSO hay acid retinoic lại biệt hóa 
tế bào HL-60 theo con đường trở thành bạch cầu hạt và không bám [43]. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, RV ức chế sự tăng sinh của dòng tế bào HL-60 nhưng 
không cảm ứng sự bám cho thấy RV có thể đã cảm ứng sự biệt hóa tế bào HL-60 
thành bạch cầu hạt. Những thí nghiệm sâu hơn cần được thực hiện để làm rõ suy 
đoán này. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
37 
3.2. Dòng tế bào DLD-1 
3.2.1. Ảnh hưởng của RV lên khả năng bám của tế bào DLD-1 
Theo các kết quả ban đầu của nhóm, xử lý tế bào DLD-1 đã bám và đang tăng 
trưởng trên bề mặt nuôi cấy với RV ở nồng độ 60 µM làm cho các tế bào này gia 
tăng kích thước, trở nên bám chặt hơn và cần thời gian ủ với trypsin dài hơn để tách 
các tế bào này khỏi bề mặt nuôi cấy. Điều này cho thấy RV đã có những ảnh hưởng 
nhất định lên khả năng bám dính của dòng tế bào DLD-1. Ngoài ra, theo nghiên cứu 
của Rodrigue và cs (2005), RV đã làm tăng sự bám trải của các tế bào ung thư vú 
MCF-7 (một dòng tế bào bám) trên fibronectin; cũng như sự biểu hiện của tensin, 
một protein liên quan đến bộ xương tế bào. Do đó, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu hơn 
ảnh hưởng của RV lên khả năng bám của tế bào DLD-1. 
Các dòng tế bào bám khi được nuôi cấy in vitro phải trải qua giai đoạn bám và 
mọc trải ra hoàn toàn trên bề mặt nuôi cấy trước khi bước vào giai đoạn tăng 
trưởng. Câu hỏi đặt ra là: 
“RV làm tăng tính bám của dòng tế bào DLD-1 đang ở giai đoạn tăng 
trưởng, vậy nếu tế bào DLD-1 được tiếp xúc với RV trong giai đoạn bám và mọc 
trải thì RV có ảnh hưởng như thế nào lên tính bám của tế bào DLD-1?” 
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi tiến hành thử nghiệm bám trải trên tế bào 
DLD-1 được xử lý với RV ở nồng độ 20 và 60 µM trong 3 giờ ngay khi bắt đầu giai 
đoạn bám trong môi trường chứa 10% huyết thanh trên bề mặt nuôi cấy thông 
thường và trong môi trường không huyết thanh trên giá thể fibronectin. Trên dòng 
tế bào DLD-1, 20 µM là nồng độ ức chế 50% sự tăng sinh. Tế bào DLD-1 nuôi 
trong môi trường có DMSO ở nồng độ 0,1% là mẫu không xử lý trong tất cả các thí 
nghiệm. 
Biểu đồ trên hình 3.4 cho thấy trên giá thể fibronectin, khoảng 36% tế bào 
DLD-1 bám trải được sau 3 giờ nuôi cấy trong môi trường không huyết thanh. Tỉ lệ 
bám trải của tế bào DLD-1 được xử lý với RV ở nồng độ 20 và 60 µM lần lượt là 21 
và 10%. Trên bề mặt nuôi cấy thông thường, tác động của RV cũng tương tự. Tỉ lệ 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
38 
tế bào DLD-1 mọc trải ra khoảng 26%, và RV ở nồng độ 20 và 60 µM làm giảm tỉ 
lệ bám trải của tế bào DLD-1 xuống còn 18 và 10%. Các kết quả này chứng tỏ RV 
ức chế quá trình bám trải của tế bào DLD-1 trên giá đỡ, và nồng độ RV càng cao 
sự ức chế càng mạnh. 
Hơn nữa, so sánh tỉ lệ tế bào bám trải của các cặp xử lý tương ứng giữa hai 
điều kiện thí nghiệm cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức tin 
cậy 99%. Như vậy, tác động ức chế của RV lên sự bám trải của dòng tế bào DLD-1 
không chuyên biệt trên giá thể fibronectin (hình 3.4). 
Hình 3.5 cho thấy các tế bào DLD-1 không xử lý có nền đen, biểu hiện hình 
thái trải dài (mũi tên nét liền) sau 3 giờ nuôi cấy trong khi có rất ít tế bào DLD-1 
được xử lý với RV biến đổi hình thái so với trước khi xử lý. 
0.0
10.0
20.0
30.0
40.0
FN - 0% FBS 10% FBS
Tỉ
 lệ
 (%
) t
ế 
bà
o 
bá
m
 tr
ải
Không xử lý
RV 20 µM
RV 60 µM* 
* 
* 
Hình 3.4. Ảnh hưởng của RV lên sự bám trải của dòng tế bào DLD-1 sau 3 giờ xử lý. 
Kết quả được trình bày dưới dạng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của ba thí nghiệm 
độc lập. Dấu (*) thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 99% giữa từng 
mẫu được xử lý với RV với mẫu không xử lý trong cùng điều kiện thí nghiệm. FN, 
fibronectin; FBS, huyết thanh. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
39 
FN– 0% FBS 10% FBS 
Không 
xử lý 
RV 
60 µM 
RV 
20 µM 
Hình 3.5. Hình thái bám trải của dòng tế bào DLD-1 sau 3 giờ xử lý với RV. Ảnh được 
chụp ở độ phóng đại 100X, thanh tỉ lệ tương đương 500 µm. FN, fibronectin; FBS, huyết thanh. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
40 
Quá trình bám dính của tế bào lên một giá thể bao gồm giai đoạn gắn của các 
thụ thể hay các phân tử bám dính trên màng tế bào lên các phân tử của giá thể, ví dụ 
như các protein của chất nền ngoại bào. Sau đó là giai đoạn mọc trải ra, sự mở rộng 
diện tích bám của tế bào trên giá thể. Kết quả thử nghiệm bám trải chứng minh tác 
động ức chế của RV trên giai đoạn này, vậy RV có ảnh hưởng đến giai đoạn bám 
trước đó hay không. Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi tiến hành thử nghiệm bám 
dính trên tế bào DLD-1 được xử lý với RV ở nồng độ 60 µM trong 1 và 3 giờ với 
các điều kiện thí nghiệm tương tự như thử nghiệm bám trải. 
Kết quả trình bày trong hình 3.6 cho thấy sau 1 giờ ủ với RV, tỉ lệ bám dính 
của tế bào DLD-1 trên giá thể fibronectin và bề mặt nuôi cấy thông thường lần lượt 
là 28,1 và 26,9%, tỉ lệ này ở tế bào DLD-1 không xử lý lần lượt là 41,3 và 36,7% 
(hình 3.6A). Sau 3 giờ ủ với RV, tỉ lệ tế bào DLD-1 bám dính vào giá thể 
fibronectin và bề mặt nuôi cấy thông thường lần lượt là 40,6 và 44,5%, tỉ lệ này ở tế 
bào DLD-1 không xử lý lần lượt là 64,7 và 59,0% (hình 3.6B). Vậy RV làm giảm tỉ 
0
20
40
60
80
FN - 0% FBS 10% FBS
Tỉ
 lệ
 (%
) t
ế 
 b
ào
 b
ám
 d
ín
h
Không xử lý
RV 60 µM
A B 
0
20
40
60
80
FN - 0% FBS 10% FBS
Tỉ
 lệ
 (%
) t
ế 
 b
ào
 b
ám
 d
ín
h
* 
* * 
* 
Hình 3.6. Ảnh hưởng của RV lên sự bám dính của dòng tế bào DLD-1 sau 1 giờ (A) 
và 3 giờ (B) xử lý. Kết quả được trình bày dưới dạng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn 
của ba thí nghiệm độc lập. Dấu (*) thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 
99% giữa mẫu được xử lý với RV ở nồng độ 60 µM với mẫu không xử lý trong cùng điều 
kiện thí nghiệm. FN, fibronectin; FBS, huyết thanh. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
41 
lệ tế bào DLD-1 bám dính lên giá thể nuôi cấy trong các điều kiện thí nghiệm, hay 
nói cách khác RV ức chế quá trình thiết lập sự bám dính của tế bào DLD-1. So 
sánh tỉ lệ tế bào bám dính của các cặp xử lý tương ứng giữa hai điều kiện thí 
nghiệm cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 99%. 
Như vậy, tác động ức chế của RV lên sự bám dính của dòng tế bào DLD-1 không 
chuyên biệt trên giá thể fibronectin. 
Chúng tôi nhận thấy RV ở nồng độ 60 µM đã ức chế sự bám dính của dòng tế 
bào DLD-1 ở thời điểm khá sớm, chỉ sau 1 giờ xử lý. Do đó, sự ức chế quá trình 
bám trải của dòng tế bào DLD-1 sau 3 giờ xử lý với RV chúng tôi ghi nhận được 
có phải là hệ quả của tác động ức chế sự bám của tế bào hay không. Chúng tôi 
tiến hành xác định tỉ lệ giữa tỉ lệ tế bào DLD-1 bám trải và tỉ lệ tế bào DLD-1 bám 
dính ở các mẫu thí nghiệm sau 3 giờ xử lý. Kết quả được trình bày qua hình 3.7. 
Trong mẫu không xử lý, tỉ lệ tế bào DLD-1 mọc trải ra sau khi đã bám lên giá 
thể fibronectin và bề mặt nuôi cấy thông thường là khoảng 55,5 và 44,6% . Tỉ lệ này 
của mẫu xử lý với RV ở nồng độ 60 µM lần lượt là 24,9 và 23,2%, thấp hơn khoảng 
hai lần so với khi không xử lý. Kết quả này cho thấy RV thật sự ức chế sự trải ra 
trên giá thể nuôi cấy của tế bào DLD-1. Tổng hợp kết quả của hai thử nghiệm bám 
0
20
40
60
FN - 0% FBS 10% FBST
ỉ l
ệ 
(%
) 
tế
 b
ào
 t
rả
i/t
ế 
b
ào
 d
ín
h
Không xử lý
RV 60 µM
Hình 3.7. Ảnh hưởng của RV lên sự trải ra trên giá thể nuôi cấy của dòng tế bào 
DLD-1 sau 3 giờ xử lý. FN, fibronectin; FBS, huyết thanh. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
42 
trải và bám dính, có thể kết luận RV ở nồng độ 60 µM ức chế quá trình bám dính 
của dòng tế bào DLD-1 ở cả hai giai đoạn bám và trải ra sau 3 giờ xử lý. 
Kéo dài thời gian xử lý với RV và quan sát sự thay đổi hình thái của tế bào 
DLD-1, chúng tôi ghi nhận được một số kết quả thú vị và đáng chú ý. Sau 24 giờ xử 
lý với RV, trong cả hai điều kiện thí nghiệm, hầu như tất cả tế bào DLD-1 đều bám 
và trải ra (hình 3.8). Kết quả này cho thấy dòng tế bào DLD-1 đã vượt qua được sự 
ức chế quá trình bám dính của RV sau 24 giờ nuôi cấy. Nói cách khác, RV chỉ làm 
chậm quá trình bám dính của dòng tế bào DLD-1 ở nồng độ thử nghiệm. Ngoài 
ra, khi được nuôi cấy trong môi trường có huyết thanh, tế bào DLD-1 có khuynh 
hướng liên kết chặt chẽ với nhau hơn và xử lý với RV dường như làm tế bào lớn 
hơn so với không xử lý. 
10% FBS 
FN – 
0% FBS 
Không xử lý RV 20 µM RV 60 µM 
Hình 3.8. Ảnh hưởng của RV lên hình thái của dòng tế bào DLD-1 sau 24 giờ xử lý. Ảnh được 
chụp ở độ phóng đại 100X, thanh tỉ lệ tương đương 500 µm. FN, fibronectin; FBS, huyết thanh. 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
43 
Chúng tôi tiếp tục quan sát hình thái tế bào DLD-1 sau 48 giờ ủ với RV, kết 
quả cho thấy tế bào DLD-1 trở nên tròn, sáng, mất tính bám trên giá thể fibronectin 
trong môi trường không huyết thanh. Ngược lại, trong môi trường có huyết thanh 
chứa nồng độ 60 µM RV, rất ít tế bào tròn, sáng xuất hiện; thay vào đó là các tế bào 
có diện tích tăng theo nồng độ xử lý, trải dẹp trên bề mặt nuôi cấy (hình 3.9A và B). 
Vậy huyết thanh hay fibronectin là nhân tố làm gia tăng kích thước tế bào. 
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi tiến hành thêm thí nghiệm xử lý tế bào DLD-1 
với RV ở nồng độ 20 và 60 µM ngay khi bắt đầu giai đoạn bám trong môi trường 
chứa 10% huyết thanh trên giá thể fibronectin. 
Hình 3.9. Ảnh hưởng của RV lên hình thái của dòng tế bào DLD-1 sau 48 giờ xử lý. Ảnh được 
chụp ở độ phóng đại 100X, thanh tỉ lệ tương đương 500 µm. FN, fibronectin; FBS, huyết thanh. 
FN – 
0% FBS 
10% FBS 
Không xử lý RV 20 µM RV 60 µM 
FN-10% 
FBS 
A 
B 
C 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
44 
Kết quả quan sát sau 48 giờ cho thấy sự thay đổi hình thái tế bào tương tự như 
trong điều kiện thí nghiệm 10% huyết thanh – bề mặt nuôi cấy thông thường (hình 
3.9C). Như vậy, huyết thanh đóng vai trò quan trọng trong việc làm gia tăng diện 
tích bám của tế bào DLD-1 được xử lý với RV trong 48 giờ. Kết quả này tương tự 
với kết quả ban đầu của nhóm khi xử lý tế bào DLD-1 đã bám và đang tăng trưởng 
với RV ở nồng độ 60 µM trong môi trường 10% huyết thanh trong 48 giờ [26]. 
Điều thú vị là RV được biết như là một tác nhân ức chế con đường PI3K/Akt 
[19]. Protein Akt được chứng minh làm tăng kích thước tế bào thông qua các con 
đường tín hiệu phụ thuộc và không phụ thuộc mTOR [18]. Theo đó, xử lý với RV 
sẽ làm giảm kích thước tế bào thay vì làm tăng như quan sát của chúng tôi. Do đó, 
các thí nghiệm nhằm làm rõ hơn tác động này đang được tiến hành trong một 
nghiên cứu khác của nhóm. 
Tương tác giữa tế bào ung thư và chất nền ngoại bào điều hòa nhiều quá trình 
như tăng trưởng, sống sót, biệt hóa và đặc biệt là di căn. Do đó, tác động lên sự bám 
dính của tế bào lên chất nền ngoại bào sẽ làm biến đổi các quá trình này. Như trong 
công trình của Rodrigue và cs (2005), các tác giả chứng minh rằng ảnh hưởng làm 
tăng sự bám dính và trải trên fibronectin cũng như làm thay đổi bộ xương tế bào của 
RV đã ngăn chặn quá trình xâm lấn trên mô hình dòng tế bào ung thư vú MCF-7 
[41]. 
Nghiên cứu của chúng tôi lần đầu tiên chứng minh RV làm chậm quá trình 
bám dính của các tế bào DLD-1 trên fibronectin, một protein của chất nền ngoại bào 
thông qua sự ức chế quá trình bám và mọc trải ra của tế bào ngay sau 1 giờ ủ. Điều 
này dường như mâu thuẫn với kết quả ban đầu của nhóm và công trình của 
Rodrigue và cs trên dòng tế bào MCF-7. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn này có thể được 
lý giải qua thời điểm bổ sung RV vào môi trường nuôi cấy. Tế bào DLD-1 được xử 
lý với RV ngay khi bắt đầu quá trình thiết lập sự bám dính, trong khi RV được thêm 
vào môi trường nuôi cấy tế bào MCF-7 sau khi tế bào đã bám ổn định. Các dữ liệu 
này cho thấy RV có những ảnh hưởng khác nhau lên sự bám dính của tế bào đang 
trong các giai đoạn khác nhau của quá trình bám dính.. Đối với các tế bào “chuẩn 
Chương 3. Kết quả - Thảo luận 
45 
bị bám”, RV ức chế cả hai giai đoạn bám và trải. Trong khi đó, RV sẽ thúc đẩy sự 
bám và trải thông qua sự gia tăng kích