Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 233 
KẾT QUẢ TRUNG HẠN CỦA ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT GẮNG 
SỨC Ở PHỤ NỮ BẰNG PHẪU THUẬT TOT 
Nguyễn Văn Ân*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Bùi Văn Kiệt**, Võ Trọng Thanh Phong* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Nhằm đánh giá kết quả trung hạn của phẫu thuật dải treo qua lỗ bịt (Trans-
Obturator Tape - T.O.T.) để điều trị tiểu không kiểm soát (TKKS) khi gắng sức ở phụ nữ. Phương pháp này đã 
và đang được thực hiện tại bệnh viện Bình Dân kể từ năm 2008. 
Đối tượng và phương pháp: Đây là nghiên cứu hồi cứu. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân nữ đã 
được phẫu thuật TOT tại BV Bình Dân với chẩn đoán TKKS gắng sức. Sau khi ra viện bệnh nhân được quy 
định sau mổ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm. Điện thoại để ghi nhận hiệu quả và biến chứng ở lần theo dõi 
gần đây nhất. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 17.01. 
Kết quả: Từ 6/2008 – 3/2012, 46 bệnh nhân nữ với chẩn đoán TKKS gắng sức đã được phẫu thuật TOT. 
Tuổi trung bình ~ 52. Thời gian mổ trung bình ~ 33 phút. Thời gian nằm viện trung bình ~ 1,67 ngày. Thời 
gian theo dõi trung bình ~ 23,6 tháng. Tỉ lệ thành công = 95,7 %. Tai biến trong mổ: 1 trường hợp thủng bàng 
quang (2,1%), 2 trường hợp thủng góc âm đạo (4,2%),tất cả đều được phát hiện và sửa chữa ngay lúc mổ. Biến 
chứng sau mổ: 1 trường hợp đau bẹn đùi (2,1%), 2 trường hợp tiểu gấp mới bị (4,2%), 1 trường hợp lộ mảnh 
ghép (2,1%). 
Bàn luận: Tỉ lệ thành công trong loạt bệnh của chúng tôi là rất cao. Trường hợp thủng bàng quang là ca 
đầu tiên do chúng tôi chưa quen về thao tác mổ TOT, 45 trường hợp còn lại không gặp phải tai biến này. Chúng 
tôi chưa gặp phải biến chứng bí tiểu sau mổ, vốn thường gặp hơn trong phẫu thuật TVT. Tỉ lệ đau vùng bẹn 
đùi sau mổ cũng như tiểu gấp mới bị sau mổ tương đối ít gặp trong loạt bệnh của chúng tôi. 
Kết luận: Phương pháp TOT có thể xem là rất hiệu qủa và an toàn để điều trị TKKS gắng sức ở phụ nữ, 
theo kết quả theo dõi trung hạn của chúng tôi. 
Từ khóa: Dải treo xuyên lỗ bịt; TOT;Tiểu không kiểm soát. 
ABSTRACT 
INTERMEDIATE-TERM RESULTS FOR TREATMENT OF STRESS URINARY INCONTINENCE IN 
WOMEN BY TOT PROCEDURE 
Nguyen Van An, Nguyen Tuan Vinh, Bui Van Kiet, Vo Trong Thanh Phong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3- 2012: 234 - 239 
Introduction and purpose: To evaluate intermediate-term of TOT procedure for treatment of stress urinary 
incontinence in women. This method has been performed at Binh Dan hospital since 2008. 
Objectives & Methods: This is a retrospective study. Female patients who were operated by TOT procedure 
at Binh Dan hospital were collected. After discharge, the patients were followed-up after 1, 3, 6 and 12 months. 
We connected the patients by telephone to know about the recent results. Data were analyzed using SPSS 17.01 
software. 
Results: From June 2008 to March 2012, we have performed 46 TOT procedures in female patients with 
* Bệnh viện Bình Dân Tp.HCM ** Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: TS Nguyễn Văn Ân ĐT: 0908163284 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 234 
diagnosis of SUI. The mean age of the patients was ~ 52. The operating time was ~ 33 minutes. The mean hospital 
stay ~ 1.67 days. The mean time of following up was ~ 23.6 months. Successful rate = 95.7%. Operative 
accidents: 1 case of bladder perforation (2.1%), 2 cases of vaginal laceration (4.2%) – all these cases were detected 
and repaired during operation. Post-op complications: 1 cases of groinpain (2.1%), 2 cases of de novo urgency 
(4.2%), 1 mesh extrusion (2.1%). 
Discussion: The successful rate in our series is very high. The only case of bladder perforation is our first 
case and we have not had any similar accident in the last 45 cases. We have not got urinary retention post-op (this 
complication is more common in TVT than TOT procedure). Groin pain and de novo urgency are low incidences 
in our series. 
Conclusion: TOT procedure can be evaluated as a very effective and safe method for treatment of SUI in 
women, according to our intermediate-term follow-up results. 
Key words: Transobturator Tape, TOT, Urinary Incontinence. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cho đến đầu thập niên 1990, phẫu thuật 
Burch còn được xem là tiêu chuẩn vàng để điều 
trị TKKS gắng sức ở phụ nữ. Từ giữa thập niên 
1990 đến nay, kể từ báo cáo của Umsten 
(1996)(15), phương pháp TVT (Tension-free 
Vaginal Tape) ngày càng được ưa chuộng do 
tính đơn giản và hiệu quả (tỉ lệ thành công ~ 85 – 
100%), dần dần thay thế phương pháp Burch để 
trở thành phương pháp điều trị hết sức phổ 
biến. Ở BV Bình Dân, chúng tôi đã áp dụng 
phẫu thuật TVT kể từ 2002 và đã báo cáo ở các 
hội nghị trong nước (2004, 2006, 2008), và ở 
Singapore (2007) với tỉ lệ thành công ~ 92 
%(8,8,10,9). 
Tuy nhiên, khi thực hiện TVT với số lượng 
lớn và theo dõi lâu dài, một số tác giả ghi nhận 
có thể có một số tai biến - biến chứng nặng tuy 
hiếm gặp. Trong y văn ghi nhận các báo cáo 
rách TM chậu ngoài của Primicerio (1999)(14), 
rách ĐM chậu ngoài của Zilberg (2001)(15), thủng 
ruột của Peyrat (2001)(13) Biến chứng xảy ra 
chủ yếu do xuyên thích kim qua vùng sau 
xương mu không đúng cách. 
Nhằm hạn chế các biến chứng, nhưng vẫn 
giữ các nguyên tắc nâng đỡ niệu đạo bằng 
phương pháp ít xâm hại cuả phẫu thuật TVT, 
tác giả Delorme (2001) đã đề ra phẫu thuật TOT 
(Trans Obturator Tape)(3). Thủng bàng quang, 
một biến chứng rất thường gặp trong khi thực 
hiện TVT (mặc dù được phát hiện khi soi bàng 
quang và khắc phục dễ dàng) được các tác giả 
đã thực hiện TOT ghi nhận là rất hiếm gặp. Các 
biến chứng nguy hiểm như thủng mạch máu, 
thủng ruột hầu như không gặp. Vì thế, hiện nay 
phương pháp TOT cũng dần trở nên phổ biến 
và được nhiều tác giả ứa chuộng hơn cả TVT. Ở 
Việt Nam, tác giả Nguyễn Ngọc Tiến (bv Pháp 
Việt) đã báo cáo việc áp dụng phương pháp 
TOT từ năm 2008(7). Chúng tôi bắt đầu áp dụng 
phương pháp TOT tại bv Bình Dân kể từ 2008 để 
điều trị TKKS khi gắng sức ở phụ nữ và đã báo 
cáo kết quả ban đầu tại Hội nghị Niệu khoa toàn 
quốc ở Quy Nhơn (2010)(11). Bài viết này trình 
bày những kết quả đánh giá trung hạn về phẫu 
thuật TOT của chúng tôi sau 3 năm thực hiện. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm những bệnh nhân nữ được chẩn đoán 
TKKS gắng sức và đã được phẫu thuật TOT tại 
BV Bình Dân. 
Phương pháp nghiên cứu 
Đây là nghiên cứu hồi cứu, nhằm xác định 
tính hiệu quả, độ an toàn, ghi nhận tai biến trong 
mổ và biến chứng sau mổ của phương pháp TOT 
sau thời gian thực hiện gần 4 năm (có thể được 
xem là theo dõi trung hạn). 
Dụng cụ: Dùng dụng cụ của hãng CL Medical 
(Pháp) (hình 1a và 1b). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 235 
Hình 1: Dùng dụng cụ của hãng CL Medical (1a,1b). 
Kỹ thuật: Chúng tôi áp dụng chủ yếu là kỹ 
thuật outside-in (xem các hình 2 và 3). 
Hình 2: Dùng kim chuyên dụng xuyên thích outside-
in qua lỗ bịt, kéo theo dải prolene. 
Hình 3: Dải treo prolene đã đặt xuyên lỗ bịt và nâng 
đỡ dưới niệu đạo. 
Ghi nhận các dữ liệu 
Trong mổ: ghi nhận trong protocol về đánh 
giá độ khả dụng của kỹ thuật mổ, thời gian mổ, 
lượng máu mất, tai biến trong mổ (thủng bàng 
quang - niệu đạo, chảy máu nặng ). 
Theo dõi hậu phẫu: thời gian rút thông tiểu, 
thời gian nằm viện, biến chứng sớm hậu phẫu 
(nhiễm trùng, chảy máu ) 
Theo dõi sau mổ: bệnh nhân được hẹn tái 
khám định kỳ sau mổ: 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 1 
năm. Lần sau cùng được chúng tôi liên hệ với 
bệnh nhân qua điện thoại. Ghi nhận mức độ hiệu 
quả của phẫu thuật (hết són tiểu hoàn tòan hay 
một phần, không hiệu quả), biến chứng hậu phẫu 
(són tiểu tái phát, nhiễm trùng, tiểu gấp mới xuất 
hiện, đau vùng hạ vị hay vùng bẹn, loét mòn làm 
hở dải băng prolene). 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 6/2008 đến tháng 3/2012, 46 bệnh 
nhân nữ với chẩn đoán TKKS gắng sức đã được 
phẫu thuật TOT tại bệnh viện Bình Dân. 
Tuổi trung bình ~ 52,0 ± 1,4 (min = 38, max = 
76). 
Thời gian mổ trung bình = 33,15 ± 0,78 phút 
(min = 30, max = 60 phút). 
Thời gian nằm viện = 1,67 ± 0,16 ngày (min = 
1, max = 5). 
Thời gian theo dõi trung bình 23,61 ± 1,67 
tháng (min = 3, max = 45). 
Tỉ lệ thành công 44/46 = 95,7 % (hoàn toàn 
không són tiểu). Có 2 trường hợp không thành 
công: 1 vẫn són tiểu như cũ, 1 có cải thiện nhưng 
vẫn són tiểu khi ho mạnh. 
Tai biến trong mổ: 1 trường hợp thủng bàng 
quang (2,1%), 2 trường hợp thủng góc âm đạo 
(4,2%),tất cả đều được phát hiện và sửa chữa ngay 
lúc mổ. 
Biến chứng sau mổ: 1 trường hợp đau bẹn đùi 
(2,1%), 2 trường hợp tiểu gấp mới bị (4,2%), 1 
trường hợp lộ lưới prolene ra âm đạo (2,1%). 
BÀN LUẬN 
Phương pháp TOT khắc phục được một số 
nhược điểm của phương pháp TVT 
Phương pháp TVT có thể gây những biến 
chứng nặng nề như phạm phải mạch máu lớn 
hay thủng ruột nếu hướng kim xuyên thích ra 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 236 
sau xương mu không làm đúng cách (hình 5a & 
5b). 
Hình 5: Hướng kim xuyên thích ra sau xương mu 
không làm đúng cách (5a, 5b). 
Nguồn: Miklose &Moore (International Center of 
Laparoscopic Urogynecology- Atlanta). 
Phương pháp TOT không xuyên kim vào 
khoang sau xương mu, chỉ đi ngoài lớp cân cơ 
đáy chậu để tạo cơ chế nâng đỡ đáy chậu 
(subfascial hammock) và được tính toán để xuyên 
kim vào vùng an toàn của lỗ bịt, hướng đặt dài 
treo prolene gần giống kỹ thuật TVT (hình 6a & 
6b) và vẫn bào đảm cơ chế khắc phục tình trạng 
suy yếu sàn chậu bằng cách nâng đỡ theo vị trí 
của dây chằng mu-niệu đạo (pubo-urethral 
ligament). 
Hình 6: Hướng đặt dài treo prolene gần giống kỹ 
thuật TVT (6a, 6b). 
Nguồn: Miklose &Moore (International Center of 
Laparoscopic Urogynecology- Atlanta). 
So sánh giữa hiệu quả trung hạn giữa TOT 
và TVT 
Theo dõi trong y văn các báo cáo trung hạn 
về phẫu thuật TVT: Umsten (1999)(16) báo cáo 50 
bệnh nhân, theo dõi 3 năm cho kết quả 86% hết 
són tiểu hoàn toàn, 11% cải thiện són tiểu rõ rệt 
(thành công 97%), 13% cải thiện kém hoặc không 
cải thiện. De Tayrac (2002)(6) báo cáo 144 trường 
hợp với thời gian theo dõi trung bình 20 tháng (8 
– 38 tháng): tỉ lệ rất hài lòng là 56,5%, hài lòng là 
34,6% (thành công 91,1%), thất bại 8,9%. 
Debodinance (2002)(2) theo dõi 256 bệnh nhân 
sau 3 tháng, 1 năm, 2 năm và 3 năm: kết quả 
thành công lần lượt là 90, 91, 83 và 87%. 
Theo dõi trong y văn các báo cáo trung hạn 
về phẫu thuật TOT: Tác giả Delorme (2003)(4) ghi 
nhận trường hợp theo dõi trung bình 17 tháng 
(13 – 29 tháng) có tỉ lệ thành công rất cao ~ 100% 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 237 
(hết hoàn toàn són tiểu 90,6%, cải thiện 9,4%). 
Trong khi tác giả Al-Singary (2007)(1) có 24 bệnh 
nhân theo dõi đủ 36 tháng có tỉ lệ thành công 
không cao lắm 79,2%, tỉ lệ thất bại khá cao 20,8%. 
Báo cáo của chúng tôi cho tỉ lệ thành công 
của phẫu thuật TOT với theo dõi trung hạn là ~ 
95,6%. So sánh với báo cáo 28 trường hợp phẫu 
thuật TVT của chúng tôi (năm 2008) thì tỉ lệ 
thành công 92,8% với theo dõi trung hạn trung 
bình 11,2 tháng (min = 3, max = 48 tháng)(9). 
Như thế nhìn chung thì trên thế giới cũng 
như ở Việt Nam thì hiệu quả của cả phẫu thuật 
TVT và TOT đều rất tốt, với tỉ lệ thành công từ ~ 
80% đến trên 90%. 
Nhận dịnh về các tai biến-biến chứng của 
phẫu thuật TOT 
Thủng bàng quang 
Chúng tôi có 1 trường hợp rách cổ bàng 
quang, nhưng lưu ý đây là ca đầu tiên chúng tôi 
thực hiện kỹ thuật TOT nên có thể đổ lỗi cho việc 
chưa thông thạo về kỹ thuật, sau đó tất cả những 
trường hợp còn lại thì không ghi nhận tai biến 
thủng bàng quang nữa. Như vậy tỉ lệ thủng bàng 
quang trong loạt phẫu thuật TOT của chúng tôi 
là 1/39 (3 %). So sánh với tỉ lệ thủng bàng quang 
trong phẫu thuật TVT của chúng tôi là 10,7% 
(được phát hiện trong lúc mổ khi soi bàng quang 
và được sửa chữa ngay và về sau không có di 
chứng gì) (9). Tỉ lệ thủng bàng quang trong y văn 
của TOT là 0,4 – 1,5% và của TVT là 2 – 11%(5). 
Như thế chúng tôi có cùng ý kiến với hầu hết các 
báo cáo trong y văn là tỉ lệ bị thủng bàng quang 
của TOT là ít hơn nhiều so với TVT. 
Loét mòn (erosion) làm hở dải băng prolene 
Chúng tôi có 1 trường hợp (tỉ lệ 1/39 = 3%). 
Trường hợp này được mổ lại, cắt bỏ phần dải 
băng bị hở và khâu lại thành âm đạo: kết quả về 
sau rất tốt, không bị hở vết mổ âm đạo nữa. Tỉ lệ 
này trong y văn là 0,2 – 12,5%(5). 
Rối loạn tiểu sau mổ 
Tiểu gấp sau mổ (De novo urgency) 
Có 2 trường hợp được ghi nhận (tỉ lệ 2/39 = 
6%). Cả hai được điều trị nội khoa và hết triệu 
chứng sau 1 tháng. Trong y văn ghi nhận tỉ lệ 
này là 2,1 – 6%(5). 
Loạt bệnh của chúng tôi chưa thấy bí tiểu sau 
mổ khiến phải thông tiểu lưu hay thông tiểu cách 
quãng, so sánh với loạt bệnh TVT của chúng tôi 
là 10,7%(9), còn trong y văn là 1,9 – 9,9%(5). Nhìn 
chung thì tỉ lệ bí tiểu sau mổ của TOT thấp hơn 
TVT. 
Các biến chứng khác 
Loạt bệnh của chúng tôi không gặp trường 
hợp nào bị chảy máu quá nhiều phải truyền 
máu, bị khối máu tụ quá lớn phải mổ thoát lưu 
(Tỉ lệ này trong y văn là 2 – 3,3%(5).Chúng tôi 
cũng chưa gặp biến chứng đau vùng bẹn đùi sau 
mổ mà nhiều báo cáo khác đã trình bày (trong y 
văn, tỉ lệ đau bẹn – đùi là 2,3 – 15,9%(5,7)). 
KẾT LUẬN 
Nhìn chung, phẫu thuật TOT đã được áp 
dụng thành công tại bệnh viện Bình Dân với hiệu 
quả điều trị tốt và an toàn. Kết quả theo dõi trung 
hạn cho thấy tỉ lệ thành công, tai biến và biến 
chứng rất thấp: thủng bàng quang: 1 trường hợp, 
loét mòn âm đạo: 1 trường hợp, tiểu gấp sau mổ: 
2 trường hợp. 
Với tỉ lệ thành công cao và tỉ lệ tai biến-biến 
chứng thấp như thế, phần lớn hết các trường hợp 
TKKS gắng sức của chúng tôi trong 3 năm qua 
được phẫu thuật TOT. Mặc dù vậy, vẫn còn một 
số ít trường hợp còn làm TVT, và chúng tôi dự 
định sẽ có một bài viết khác về vấn đề này. Chúng 
tôi cũng đang cân nhắc ý kiến của nhiều tác giả 
cho rằng không cần thiết phải soi bàng quang 
kiểm tra lúc thực hiện TOT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Al-Singary W, Shergill IS, Allen SE, John JA, Arya M, Patel HR 
(2007). Trans-obturator tape for incontinence: a 3-year follow-up. 
Urol Int (2007);78(3):198-201. 
2. Debodinance P, Delporte P, Engrand JB, Boulogne M (2002). 
Tension-free vaginal tape (TVT) in the treatment of urinary stress 
incontinence: 3 years experience involving 256 operations. Eur J 
Obstet Gynecol Reprod Biol (2002) 10;105(1): 49-58. 
3. Delorme E. et al (2001). Transobturator urethral suspension: a 
minimally invasive procedure to treat female stress urinary 
incontinence. Prog Urol (2001) ;11:1306-13. Article in French 
[abstract] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 238 
4. Delorme E, Droupy S, de Tayrac R, Delmas V (2003). 
Transobturator tape (Uratape)- A new minimally invasive method 
in the treatment of urinary incontinence in women. Prog Urol 
(2003);13(4):656-9. [Article in French] [abstract] 
5. Dmochowski DR, Padmanabhan P, Scarpero HM. Slings: 
Autologous, Biologic, Synthetic, and Midurethral, in “Campbell – 
Walsh Urology”, edited by Wein, Kavoussi, Novick, Partin, Peters; 
Saunder – ElServier publication, 10th edition, chap 73: 2115 – 2167. 
6. De Tayrac R, Kadoch IJ, Gervaise A, Fernandez H (2002). 
Functional results of the TVT procedure: a postal questionnaire on 
144 patients with a median follow-up of 20 months. J Gynecol 
Obstet Biol Reprod (Paris) (2002); 31(2 Pt 1):162-6. Article in 
French [abstract] 
7. Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Tuấn Vinh (2008). Điều trị tiểu không 
kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phương pháp ít xâm lấn: 
miếng nâng đỡ dưới niệu đạo TVT và TOT. Kết quả ban đầu tại 
BV Pháp Việt TP Hồ Chí Minh. Tạo Chí Y Học TPHCM (2008); 12 
(1): 335 - 341 
8. Nguyễn Văn Ân (2004). Nhân 6 trường hợp áp dụng kỹ thuật 
băng treo lỏng âm đạo T.V.T. (Tension-free Vaginal Tape) để điều 
trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ. Tạp chí Y học 
TPHCM (2004) ; 8 (1): 285-288. 
9. Nguyễn Văn Ân, Vũ Lê Chuyên, Đỗ Vũ Phương, Nguyễn Văn 
Học (2006). Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ 
bằng phương pháp băng treo lỏng âm đạo TVT. Tạp Chí Y hoc 
TPHCM (2006); 10(1): 154-159. 
10. Nguyen Van An (2007). Application of the technique of T.V.T. 
(Tension-free Vaginal Tape) for treatment of stress urinary 
incontinence in Viet Nam. 18th World Congress of Video Urology, 
Singapore (3/2007). 
11. Nguyễn Văn Ân (2008). Ap dụng phương pháp TVT với dải 
prolene tự chế để điều trị tiểu không kiểm soát gắng sức ở phụ nữ. 
Tạp chí Y học TPHCM (2008); 12 (4): 120-124. 
12. Nguyễn Văn Ân, Võ Trọng Thanh Phong (2010). Điều trị tiểu 
không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phương pháp băng 
treo xuyên lỗ bịt (TOT). Hội nghị Thận - Niệu TPHCM mở rộng, 
Quy Nhơn (2010). 
13. Peyrat L, Boutin JM, Bruyere F, Haillot O, Fakfak H, Lanson Y 
(2001). Intestinal perforation as a complication of tension-free 
vaginal tape procedure for urinary incontinence. Eur Urol 
(2001);39(5):603-5. 
14. Primicerio M, De Matteis G, Montanino OM, et al (1999). Use of 
the tension-free vaginal tape in the treatment of female urinary 
stress incontinence using the TVT. Ginecol. 1999;51(9):355-358 
15. Umsten U, Henriksson L, Johnson PL, G Varhos (1996). TVT 
surgery. Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct. (1996);17:81-86. 
16. Umsten U, Johnson P, Rezapour M (1999). A three-year follow up 
of tension free vaginal tape for surgical treatment of female stress 
urinary incontinence. Br J Obstet Gynaecol (1999); 106 (4): 345-50. 
17. Zilbert AW, Farrell SA (2001). External iliac artery laceration 
during tension-free vaginal tape procedure. Int Urogynecol J Pelvic 
Floor Dysfunct (2001), 12 (2): 141-143.