Đặt vấn đề và mục tiêu: Nhằm đánh giá kết quả trung hạn của phẫu thuật dải treo qua lỗ bịt (TransObturator Tape - T.O.T.) để điều trị tiểu không kiểm soát (TKKS) khi gắng sức ở phụ nữ. Phương pháp này đã và đang được thực hiện tại bệnh viện Bình Dân kể từ năm 2008. Đối tượng và phương pháp: Đây là nghiên cứu hồi cứu. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân nữ đã được phẫu thuật TOT tại BV Bình Dân với chẩn đoán TKKS gắng sức. Sau khi ra viện bệnh nhân được quy định sau mổ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm. Điện thoại để ghi nhận hiệu quả và biến chứng ở lần theo dõi gần đây nhất. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 17.01. Kết quả: Từ 6/2008 – 3/2012, 46 bệnh nhân nữ với chẩn đoán TKKS gắng sức đã được phẫu thuật TOT. Tuổi trung bình ~ 52. Thời gian mổ trung bình ~ 33 phút. Thời gian nằm viện trung bình ~ 1,67 ngày. Thời gian theo dõi trung bình ~ 23,6 tháng. Tỉ lệ thành công = 95,7 %. Tai biến trong mổ: 1 trường hợp thủng bàng quang (2,1%), 2 trường hợp thủng góc âm đạo (4,2%),tất cả đều được phát hiện và sửa chữa ngay lúc mổ. Biến chứng sau mổ: 1 trường hợp đau bẹn đùi (2,1%), 2 trường hợp tiểu gấp mới bị (4,2%), 1 trường hợp lộ mảnh ghép (2,1%). Bàn luận: Tỉ lệ thành công trong loạt bệnh của chúng tôi là rất cao. Trường hợp thủng bàng quang là ca đầu tiên do chúng tôi chưa quen về thao tác mổ TOT, 45 trường hợp còn lại không gặp phải tai biến này. Chúng tôi chưa gặp phải biến chứng bí tiểu sau mổ, vốn thường gặp hơn trong phẫu thuật TVT. Tỉ lệ đau vùng bẹn đùi sau mổ cũng như tiểu gấp mới bị sau mổ tương đối ít gặp trong loạt bệnh của chúng tôi. Kết luận: Phương pháp TOT có thể xem là rất hiệu qủa và an toàn để điều trị TKKS gắng sức ở phụ nữ, theo kết quả theo dõi trung hạn của chúng tôi
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả trung hạn của điều trị tiểu không kiểm soát gắng sức ở phụ nữ bằng phẫu thuật TOT, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 233
KẾT QUẢ TRUNG HẠN CỦA ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT GẮNG
SỨC Ở PHỤ NỮ BẰNG PHẪU THUẬT TOT
Nguyễn Văn Ân*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Bùi Văn Kiệt**, Võ Trọng Thanh Phong*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Nhằm đánh giá kết quả trung hạn của phẫu thuật dải treo qua lỗ bịt (Trans-
Obturator Tape - T.O.T.) để điều trị tiểu không kiểm soát (TKKS) khi gắng sức ở phụ nữ. Phương pháp này đã
và đang được thực hiện tại bệnh viện Bình Dân kể từ năm 2008.
Đối tượng và phương pháp: Đây là nghiên cứu hồi cứu. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân nữ đã
được phẫu thuật TOT tại BV Bình Dân với chẩn đoán TKKS gắng sức. Sau khi ra viện bệnh nhân được quy
định sau mổ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm. Điện thoại để ghi nhận hiệu quả và biến chứng ở lần theo dõi
gần đây nhất. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 17.01.
Kết quả: Từ 6/2008 – 3/2012, 46 bệnh nhân nữ với chẩn đoán TKKS gắng sức đã được phẫu thuật TOT.
Tuổi trung bình ~ 52. Thời gian mổ trung bình ~ 33 phút. Thời gian nằm viện trung bình ~ 1,67 ngày. Thời
gian theo dõi trung bình ~ 23,6 tháng. Tỉ lệ thành công = 95,7 %. Tai biến trong mổ: 1 trường hợp thủng bàng
quang (2,1%), 2 trường hợp thủng góc âm đạo (4,2%),tất cả đều được phát hiện và sửa chữa ngay lúc mổ. Biến
chứng sau mổ: 1 trường hợp đau bẹn đùi (2,1%), 2 trường hợp tiểu gấp mới bị (4,2%), 1 trường hợp lộ mảnh
ghép (2,1%).
Bàn luận: Tỉ lệ thành công trong loạt bệnh của chúng tôi là rất cao. Trường hợp thủng bàng quang là ca
đầu tiên do chúng tôi chưa quen về thao tác mổ TOT, 45 trường hợp còn lại không gặp phải tai biến này. Chúng
tôi chưa gặp phải biến chứng bí tiểu sau mổ, vốn thường gặp hơn trong phẫu thuật TVT. Tỉ lệ đau vùng bẹn
đùi sau mổ cũng như tiểu gấp mới bị sau mổ tương đối ít gặp trong loạt bệnh của chúng tôi.
Kết luận: Phương pháp TOT có thể xem là rất hiệu qủa và an toàn để điều trị TKKS gắng sức ở phụ nữ,
theo kết quả theo dõi trung hạn của chúng tôi.
Từ khóa: Dải treo xuyên lỗ bịt; TOT;Tiểu không kiểm soát.
ABSTRACT
INTERMEDIATE-TERM RESULTS FOR TREATMENT OF STRESS URINARY INCONTINENCE IN
WOMEN BY TOT PROCEDURE
Nguyen Van An, Nguyen Tuan Vinh, Bui Van Kiet, Vo Trong Thanh Phong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3- 2012: 234 - 239
Introduction and purpose: To evaluate intermediate-term of TOT procedure for treatment of stress urinary
incontinence in women. This method has been performed at Binh Dan hospital since 2008.
Objectives & Methods: This is a retrospective study. Female patients who were operated by TOT procedure
at Binh Dan hospital were collected. After discharge, the patients were followed-up after 1, 3, 6 and 12 months.
We connected the patients by telephone to know about the recent results. Data were analyzed using SPSS 17.01
software.
Results: From June 2008 to March 2012, we have performed 46 TOT procedures in female patients with
* Bệnh viện Bình Dân Tp.HCM ** Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: TS Nguyễn Văn Ân ĐT: 0908163284 Email: vanan63@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 234
diagnosis of SUI. The mean age of the patients was ~ 52. The operating time was ~ 33 minutes. The mean hospital
stay ~ 1.67 days. The mean time of following up was ~ 23.6 months. Successful rate = 95.7%. Operative
accidents: 1 case of bladder perforation (2.1%), 2 cases of vaginal laceration (4.2%) – all these cases were detected
and repaired during operation. Post-op complications: 1 cases of groinpain (2.1%), 2 cases of de novo urgency
(4.2%), 1 mesh extrusion (2.1%).
Discussion: The successful rate in our series is very high. The only case of bladder perforation is our first
case and we have not had any similar accident in the last 45 cases. We have not got urinary retention post-op (this
complication is more common in TVT than TOT procedure). Groin pain and de novo urgency are low incidences
in our series.
Conclusion: TOT procedure can be evaluated as a very effective and safe method for treatment of SUI in
women, according to our intermediate-term follow-up results.
Key words: Transobturator Tape, TOT, Urinary Incontinence.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến đầu thập niên 1990, phẫu thuật
Burch còn được xem là tiêu chuẩn vàng để điều
trị TKKS gắng sức ở phụ nữ. Từ giữa thập niên
1990 đến nay, kể từ báo cáo của Umsten
(1996)(15), phương pháp TVT (Tension-free
Vaginal Tape) ngày càng được ưa chuộng do
tính đơn giản và hiệu quả (tỉ lệ thành công ~ 85 –
100%), dần dần thay thế phương pháp Burch để
trở thành phương pháp điều trị hết sức phổ
biến. Ở BV Bình Dân, chúng tôi đã áp dụng
phẫu thuật TVT kể từ 2002 và đã báo cáo ở các
hội nghị trong nước (2004, 2006, 2008), và ở
Singapore (2007) với tỉ lệ thành công ~ 92
%(8,8,10,9).
Tuy nhiên, khi thực hiện TVT với số lượng
lớn và theo dõi lâu dài, một số tác giả ghi nhận
có thể có một số tai biến - biến chứng nặng tuy
hiếm gặp. Trong y văn ghi nhận các báo cáo
rách TM chậu ngoài của Primicerio (1999)(14),
rách ĐM chậu ngoài của Zilberg (2001)(15), thủng
ruột của Peyrat (2001)(13) Biến chứng xảy ra
chủ yếu do xuyên thích kim qua vùng sau
xương mu không đúng cách.
Nhằm hạn chế các biến chứng, nhưng vẫn
giữ các nguyên tắc nâng đỡ niệu đạo bằng
phương pháp ít xâm hại cuả phẫu thuật TVT,
tác giả Delorme (2001) đã đề ra phẫu thuật TOT
(Trans Obturator Tape)(3). Thủng bàng quang,
một biến chứng rất thường gặp trong khi thực
hiện TVT (mặc dù được phát hiện khi soi bàng
quang và khắc phục dễ dàng) được các tác giả
đã thực hiện TOT ghi nhận là rất hiếm gặp. Các
biến chứng nguy hiểm như thủng mạch máu,
thủng ruột hầu như không gặp. Vì thế, hiện nay
phương pháp TOT cũng dần trở nên phổ biến
và được nhiều tác giả ứa chuộng hơn cả TVT. Ở
Việt Nam, tác giả Nguyễn Ngọc Tiến (bv Pháp
Việt) đã báo cáo việc áp dụng phương pháp
TOT từ năm 2008(7). Chúng tôi bắt đầu áp dụng
phương pháp TOT tại bv Bình Dân kể từ 2008 để
điều trị TKKS khi gắng sức ở phụ nữ và đã báo
cáo kết quả ban đầu tại Hội nghị Niệu khoa toàn
quốc ở Quy Nhơn (2010)(11). Bài viết này trình
bày những kết quả đánh giá trung hạn về phẫu
thuật TOT của chúng tôi sau 3 năm thực hiện.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm những bệnh nhân nữ được chẩn đoán
TKKS gắng sức và đã được phẫu thuật TOT tại
BV Bình Dân.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu hồi cứu, nhằm xác định
tính hiệu quả, độ an toàn, ghi nhận tai biến trong
mổ và biến chứng sau mổ của phương pháp TOT
sau thời gian thực hiện gần 4 năm (có thể được
xem là theo dõi trung hạn).
Dụng cụ: Dùng dụng cụ của hãng CL Medical
(Pháp) (hình 1a và 1b).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 235
Hình 1: Dùng dụng cụ của hãng CL Medical (1a,1b).
Kỹ thuật: Chúng tôi áp dụng chủ yếu là kỹ
thuật outside-in (xem các hình 2 và 3).
Hình 2: Dùng kim chuyên dụng xuyên thích outside-
in qua lỗ bịt, kéo theo dải prolene.
Hình 3: Dải treo prolene đã đặt xuyên lỗ bịt và nâng
đỡ dưới niệu đạo.
Ghi nhận các dữ liệu
Trong mổ: ghi nhận trong protocol về đánh
giá độ khả dụng của kỹ thuật mổ, thời gian mổ,
lượng máu mất, tai biến trong mổ (thủng bàng
quang - niệu đạo, chảy máu nặng ).
Theo dõi hậu phẫu: thời gian rút thông tiểu,
thời gian nằm viện, biến chứng sớm hậu phẫu
(nhiễm trùng, chảy máu )
Theo dõi sau mổ: bệnh nhân được hẹn tái
khám định kỳ sau mổ: 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 1
năm. Lần sau cùng được chúng tôi liên hệ với
bệnh nhân qua điện thoại. Ghi nhận mức độ hiệu
quả của phẫu thuật (hết són tiểu hoàn tòan hay
một phần, không hiệu quả), biến chứng hậu phẫu
(són tiểu tái phát, nhiễm trùng, tiểu gấp mới xuất
hiện, đau vùng hạ vị hay vùng bẹn, loét mòn làm
hở dải băng prolene).
KẾT QUẢ
Từ tháng 6/2008 đến tháng 3/2012, 46 bệnh
nhân nữ với chẩn đoán TKKS gắng sức đã được
phẫu thuật TOT tại bệnh viện Bình Dân.
Tuổi trung bình ~ 52,0 ± 1,4 (min = 38, max =
76).
Thời gian mổ trung bình = 33,15 ± 0,78 phút
(min = 30, max = 60 phút).
Thời gian nằm viện = 1,67 ± 0,16 ngày (min =
1, max = 5).
Thời gian theo dõi trung bình 23,61 ± 1,67
tháng (min = 3, max = 45).
Tỉ lệ thành công 44/46 = 95,7 % (hoàn toàn
không són tiểu). Có 2 trường hợp không thành
công: 1 vẫn són tiểu như cũ, 1 có cải thiện nhưng
vẫn són tiểu khi ho mạnh.
Tai biến trong mổ: 1 trường hợp thủng bàng
quang (2,1%), 2 trường hợp thủng góc âm đạo
(4,2%),tất cả đều được phát hiện và sửa chữa ngay
lúc mổ.
Biến chứng sau mổ: 1 trường hợp đau bẹn đùi
(2,1%), 2 trường hợp tiểu gấp mới bị (4,2%), 1
trường hợp lộ lưới prolene ra âm đạo (2,1%).
BÀN LUẬN
Phương pháp TOT khắc phục được một số
nhược điểm của phương pháp TVT
Phương pháp TVT có thể gây những biến
chứng nặng nề như phạm phải mạch máu lớn
hay thủng ruột nếu hướng kim xuyên thích ra
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 236
sau xương mu không làm đúng cách (hình 5a &
5b).
Hình 5: Hướng kim xuyên thích ra sau xương mu
không làm đúng cách (5a, 5b).
Nguồn: Miklose &Moore (International Center of
Laparoscopic Urogynecology- Atlanta).
Phương pháp TOT không xuyên kim vào
khoang sau xương mu, chỉ đi ngoài lớp cân cơ
đáy chậu để tạo cơ chế nâng đỡ đáy chậu
(subfascial hammock) và được tính toán để xuyên
kim vào vùng an toàn của lỗ bịt, hướng đặt dài
treo prolene gần giống kỹ thuật TVT (hình 6a &
6b) và vẫn bào đảm cơ chế khắc phục tình trạng
suy yếu sàn chậu bằng cách nâng đỡ theo vị trí
của dây chằng mu-niệu đạo (pubo-urethral
ligament).
Hình 6: Hướng đặt dài treo prolene gần giống kỹ
thuật TVT (6a, 6b).
Nguồn: Miklose &Moore (International Center of
Laparoscopic Urogynecology- Atlanta).
So sánh giữa hiệu quả trung hạn giữa TOT
và TVT
Theo dõi trong y văn các báo cáo trung hạn
về phẫu thuật TVT: Umsten (1999)(16) báo cáo 50
bệnh nhân, theo dõi 3 năm cho kết quả 86% hết
són tiểu hoàn toàn, 11% cải thiện són tiểu rõ rệt
(thành công 97%), 13% cải thiện kém hoặc không
cải thiện. De Tayrac (2002)(6) báo cáo 144 trường
hợp với thời gian theo dõi trung bình 20 tháng (8
– 38 tháng): tỉ lệ rất hài lòng là 56,5%, hài lòng là
34,6% (thành công 91,1%), thất bại 8,9%.
Debodinance (2002)(2) theo dõi 256 bệnh nhân
sau 3 tháng, 1 năm, 2 năm và 3 năm: kết quả
thành công lần lượt là 90, 91, 83 và 87%.
Theo dõi trong y văn các báo cáo trung hạn
về phẫu thuật TOT: Tác giả Delorme (2003)(4) ghi
nhận trường hợp theo dõi trung bình 17 tháng
(13 – 29 tháng) có tỉ lệ thành công rất cao ~ 100%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 237
(hết hoàn toàn són tiểu 90,6%, cải thiện 9,4%).
Trong khi tác giả Al-Singary (2007)(1) có 24 bệnh
nhân theo dõi đủ 36 tháng có tỉ lệ thành công
không cao lắm 79,2%, tỉ lệ thất bại khá cao 20,8%.
Báo cáo của chúng tôi cho tỉ lệ thành công
của phẫu thuật TOT với theo dõi trung hạn là ~
95,6%. So sánh với báo cáo 28 trường hợp phẫu
thuật TVT của chúng tôi (năm 2008) thì tỉ lệ
thành công 92,8% với theo dõi trung hạn trung
bình 11,2 tháng (min = 3, max = 48 tháng)(9).
Như thế nhìn chung thì trên thế giới cũng
như ở Việt Nam thì hiệu quả của cả phẫu thuật
TVT và TOT đều rất tốt, với tỉ lệ thành công từ ~
80% đến trên 90%.
Nhận dịnh về các tai biến-biến chứng của
phẫu thuật TOT
Thủng bàng quang
Chúng tôi có 1 trường hợp rách cổ bàng
quang, nhưng lưu ý đây là ca đầu tiên chúng tôi
thực hiện kỹ thuật TOT nên có thể đổ lỗi cho việc
chưa thông thạo về kỹ thuật, sau đó tất cả những
trường hợp còn lại thì không ghi nhận tai biến
thủng bàng quang nữa. Như vậy tỉ lệ thủng bàng
quang trong loạt phẫu thuật TOT của chúng tôi
là 1/39 (3 %). So sánh với tỉ lệ thủng bàng quang
trong phẫu thuật TVT của chúng tôi là 10,7%
(được phát hiện trong lúc mổ khi soi bàng quang
và được sửa chữa ngay và về sau không có di
chứng gì) (9). Tỉ lệ thủng bàng quang trong y văn
của TOT là 0,4 – 1,5% và của TVT là 2 – 11%(5).
Như thế chúng tôi có cùng ý kiến với hầu hết các
báo cáo trong y văn là tỉ lệ bị thủng bàng quang
của TOT là ít hơn nhiều so với TVT.
Loét mòn (erosion) làm hở dải băng prolene
Chúng tôi có 1 trường hợp (tỉ lệ 1/39 = 3%).
Trường hợp này được mổ lại, cắt bỏ phần dải
băng bị hở và khâu lại thành âm đạo: kết quả về
sau rất tốt, không bị hở vết mổ âm đạo nữa. Tỉ lệ
này trong y văn là 0,2 – 12,5%(5).
Rối loạn tiểu sau mổ
Tiểu gấp sau mổ (De novo urgency)
Có 2 trường hợp được ghi nhận (tỉ lệ 2/39 =
6%). Cả hai được điều trị nội khoa và hết triệu
chứng sau 1 tháng. Trong y văn ghi nhận tỉ lệ
này là 2,1 – 6%(5).
Loạt bệnh của chúng tôi chưa thấy bí tiểu sau
mổ khiến phải thông tiểu lưu hay thông tiểu cách
quãng, so sánh với loạt bệnh TVT của chúng tôi
là 10,7%(9), còn trong y văn là 1,9 – 9,9%(5). Nhìn
chung thì tỉ lệ bí tiểu sau mổ của TOT thấp hơn
TVT.
Các biến chứng khác
Loạt bệnh của chúng tôi không gặp trường
hợp nào bị chảy máu quá nhiều phải truyền
máu, bị khối máu tụ quá lớn phải mổ thoát lưu
(Tỉ lệ này trong y văn là 2 – 3,3%(5).Chúng tôi
cũng chưa gặp biến chứng đau vùng bẹn đùi sau
mổ mà nhiều báo cáo khác đã trình bày (trong y
văn, tỉ lệ đau bẹn – đùi là 2,3 – 15,9%(5,7)).
KẾT LUẬN
Nhìn chung, phẫu thuật TOT đã được áp
dụng thành công tại bệnh viện Bình Dân với hiệu
quả điều trị tốt và an toàn. Kết quả theo dõi trung
hạn cho thấy tỉ lệ thành công, tai biến và biến
chứng rất thấp: thủng bàng quang: 1 trường hợp,
loét mòn âm đạo: 1 trường hợp, tiểu gấp sau mổ:
2 trường hợp.
Với tỉ lệ thành công cao và tỉ lệ tai biến-biến
chứng thấp như thế, phần lớn hết các trường hợp
TKKS gắng sức của chúng tôi trong 3 năm qua
được phẫu thuật TOT. Mặc dù vậy, vẫn còn một
số ít trường hợp còn làm TVT, và chúng tôi dự
định sẽ có một bài viết khác về vấn đề này. Chúng
tôi cũng đang cân nhắc ý kiến của nhiều tác giả
cho rằng không cần thiết phải soi bàng quang
kiểm tra lúc thực hiện TOT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Singary W, Shergill IS, Allen SE, John JA, Arya M, Patel HR
(2007). Trans-obturator tape for incontinence: a 3-year follow-up.
Urol Int (2007);78(3):198-201.
2. Debodinance P, Delporte P, Engrand JB, Boulogne M (2002).
Tension-free vaginal tape (TVT) in the treatment of urinary stress
incontinence: 3 years experience involving 256 operations. Eur J
Obstet Gynecol Reprod Biol (2002) 10;105(1): 49-58.
3. Delorme E. et al (2001). Transobturator urethral suspension: a
minimally invasive procedure to treat female stress urinary
incontinence. Prog Urol (2001) ;11:1306-13. Article in French
[abstract]
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 238
4. Delorme E, Droupy S, de Tayrac R, Delmas V (2003).
Transobturator tape (Uratape)- A new minimally invasive method
in the treatment of urinary incontinence in women. Prog Urol
(2003);13(4):656-9. [Article in French] [abstract]
5. Dmochowski DR, Padmanabhan P, Scarpero HM. Slings:
Autologous, Biologic, Synthetic, and Midurethral, in “Campbell –
Walsh Urology”, edited by Wein, Kavoussi, Novick, Partin, Peters;
Saunder – ElServier publication, 10th edition, chap 73: 2115 – 2167.
6. De Tayrac R, Kadoch IJ, Gervaise A, Fernandez H (2002).
Functional results of the TVT procedure: a postal questionnaire on
144 patients with a median follow-up of 20 months. J Gynecol
Obstet Biol Reprod (Paris) (2002); 31(2 Pt 1):162-6. Article in
French [abstract]
7. Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Tuấn Vinh (2008). Điều trị tiểu không
kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phương pháp ít xâm lấn:
miếng nâng đỡ dưới niệu đạo TVT và TOT. Kết quả ban đầu tại
BV Pháp Việt TP Hồ Chí Minh. Tạo Chí Y Học TPHCM (2008); 12
(1): 335 - 341
8. Nguyễn Văn Ân (2004). Nhân 6 trường hợp áp dụng kỹ thuật
băng treo lỏng âm đạo T.V.T. (Tension-free Vaginal Tape) để điều
trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ. Tạp chí Y học
TPHCM (2004) ; 8 (1): 285-288.
9. Nguyễn Văn Ân, Vũ Lê Chuyên, Đỗ Vũ Phương, Nguyễn Văn
Học (2006). Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ
bằng phương pháp băng treo lỏng âm đạo TVT. Tạp Chí Y hoc
TPHCM (2006); 10(1): 154-159.
10. Nguyen Van An (2007). Application of the technique of T.V.T.
(Tension-free Vaginal Tape) for treatment of stress urinary
incontinence in Viet Nam. 18th World Congress of Video Urology,
Singapore (3/2007).
11. Nguyễn Văn Ân (2008). Ap dụng phương pháp TVT với dải
prolene tự chế để điều trị tiểu không kiểm soát gắng sức ở phụ nữ.
Tạp chí Y học TPHCM (2008); 12 (4): 120-124.
12. Nguyễn Văn Ân, Võ Trọng Thanh Phong (2010). Điều trị tiểu
không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phương pháp băng
treo xuyên lỗ bịt (TOT). Hội nghị Thận - Niệu TPHCM mở rộng,
Quy Nhơn (2010).
13. Peyrat L, Boutin JM, Bruyere F, Haillot O, Fakfak H, Lanson Y
(2001). Intestinal perforation as a complication of tension-free
vaginal tape procedure for urinary incontinence. Eur Urol
(2001);39(5):603-5.
14. Primicerio M, De Matteis G, Montanino OM, et al (1999). Use of
the tension-free vaginal tape in the treatment of female urinary
stress incontinence using the TVT. Ginecol. 1999;51(9):355-358
15. Umsten U, Henriksson L, Johnson PL, G Varhos (1996). TVT
surgery. Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct. (1996);17:81-86.
16. Umsten U, Johnson P, Rezapour M (1999). A three-year follow up
of tension free vaginal tape for surgical treatment of female stress
urinary incontinence. Br J Obstet Gynaecol (1999); 106 (4): 345-50.
17. Zilbert AW, Farrell SA (2001). External iliac artery laceration
during tension-free vaginal tape procedure. Int Urogynecol J Pelvic
Floor Dysfunct (2001), 12 (2): 141-143.