Các chủng S. sonnei CroRphân lập được vẫn còn nhạy với chloramphenicol, gentamicin, ofloxacine, ciprofloxacin, gatifloxacin, và ceftazidime. Tuy nhiên, tất cả các chủng S. sonnei này đều là vi khuẩn đa kháng thuốc. 100% chủng đa kháng với các kháng sinh thông thường như ampicillin,trimethoprime/sulphamethoxazole và tetracycline, trong số đó có 85,7% (18/21) kháng thêm nalidixic acid (biểu đồ 3.1).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 22 trang
22 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2085 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kháng sinh đồ của S. sonnei Cro R, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN 
3.1 Kháng sinh đồ của S. sonnei CroR 
 Các chủng vi khuẩn S. sonnei có kiểu hình kháng ceftriazone phân lập từ 
các mẫu bệnh phẩm được tiến hành làm kháng sinh đồ bằng phương pháp 
khuếch tán đĩa. Kết quả thể hiện trong bảng 3.1 và biểu đồ 3.1. 
Bảng 3.1 Kháng sinh đồ của vi khuẩn S. sonnei CroR 
STT Chủng Amp SxT Chl Na Te CN Ofx Cip Gat Cro Caz
1 DE611 R R S S R S S S S R S 
2 EG162 R R S R R S S S S R S 
3 EG187 R R S S R S S S S R S 
4 EG204 R R S R R S S S S R S 
5 EG250 R R S R R S S S S R S 
6 EG356 R R S R R S S S S R S 
7 EG373 R R S S R S S S S R S 
8 EG384 R R S R R S S S S R S 
9 EG390 R R S R R S S S S R S 
10 EG395 R R S R R S S S S R S 
11 EG421 R R S R R S S S S R S 
12 EG424 R R S R R S S S S R S 
13 EG430 R R S R R S S S S R S 
14 EG472 R R S R R S S S S R S 
15 EG1007 R R S R R S S S S R S 
16 EG1008 R R S R R S S S S R S 
17 EG1009 R R S R R S S S S R S 
18 EG1010 R R S R R S S S S R S 
19 EG1011 R R S R R S S S S R S 
20 EG1012 R R S R R S S S S R S 
21 EG1013 R R S R R S S S S R S 
Ghi chú: R: Kháng kháng sinh S: Nhạy kháng sinh 
Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ kháng kháng sinh của S. sonnei CroR 
Ghi chú: Các chữ kháng sinh viết tắt: 
Amp: Ampicillin 
Chl: Chloramphenicol 
Te: Tetracycline 
Ofx: Ofloxacine 
Gat: Gatifloxacin 
Caz: Ceftazidime 
SxT: Trimethoprim – sulfamethoxazole 
Na: Nalidixic acid 
CN: Gentamicin 
Cip: Ciprofloxacin 
Cro: Ceftriaxone 
 Các chủng S. sonnei CroR phân lập được vẫn còn nhạy với 
chloramphenicol, gentamicin, ofloxacine, ciprofloxacin, gatifloxacin, và 
ceftazidime. Tuy nhiên, tất cả các chủng S. sonnei này đều là vi khuẩn đa kháng 
thuốc. 100% chủng đa kháng với các kháng sinh thông thường như ampicillin, 
trimethoprime/sulphamethoxazole và tetracycline, trong số đó có 85,7% (18/21) 
kháng thêm nalidixic acid (biểu đồ 3.1). Điều này cho thấy tình hình kháng 
kháng sinh của các chủng Shigella ngày càng nghiêm trọng. Do đó, việc dùng 
các kháng sinh thông thường hầu như không còn hiệu quả. Tình hình S. sonnei đa 
kháng thuốc ở Việt Nam đối với các kháng sinh như ampicillin, tetracycline, 
trimethoprime/sulphamethoxazole cũng tương tự như ở Nhật, Iran, Trung Quốc 
[8, 9, 25] 
 Tính kháng của Shigella spp. nói chung và S. sonnei nói riêng đối với 
ceftriaxone đang có khuynh hướng gia tăng trên thế giới và ở Việt Nam. 
 Từ năm 1995 – 1998, vẫn chưa có trường hợp kháng ceftriaxone nào được 
công bố ở châu Á. Tuy nhiên, từ năm 2001 – 2004, tỷ lệ Shigella CroR là 5% 
tổng số ca phân lập được ở Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Việt Nam, Sri 
Lanka, Thái Lan, Hồng Kông và Philippine [8]. 
 Tại Việt Nam, ca nhiễm Shigella kháng với ceftriaxone đầu tiên được báo 
cáo từ một bé trai 10 tuổi tại bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh 
(HTD) vào tháng 2 năm 2001. Tuy nhiên, từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 1 năm 
2008, tỷ lệ nhiễm Shigella CroR phân lập được từ các mẫu bệnh phẩm (tại HTD 
và bệnh viện Đồng Tháp) là 15,3% (11 ca trong tổng số 72 ca Shigella phân lập 
được), trong đó S. sonnei chiếm đến 91,7% [28]. Đặc biệt, trong 3 tháng đầu năm 
2009, tất cả các Shigella phân lập được từ bệnh phẩm tại HTD đều là S. sonnei 
và đều kháng với cefriaxone (Hà Vinh, số liệu chưa công bố). Số liệu trên cho 
thấy việc kháng ceftriaxone của Shigella, đặc biệt là S. sonnei tăng nhanh một 
cách đáng kể. Tình hình này, cùng với việc Shigella đa kháng thuốc đang gia 
tăng làm việc chọn lựa kháng sinh dùng trong điều trị Shigella trở nên khó khăn 
hơn. 
3.2 Kiểu hình tạo ESBL của S. sonnei CroR 
 Thử nghiệm khả năng sinh ESBL bằng phương pháp dùng đĩa đôi xác 
nhận kết quả theo hướng dẫn của WHO. Kết quả ESBL dương tính khi đường 
kính vòng vô khuẩn của đĩa kháng sinh chứa ceftazidime kết hợp với clavulanic 
acid và/hoặc đường kính vòng vô khuẩn của đĩa kháng sinh chứa cefotaxime kết 
hợp với clavulanic acid lớn hơn đường kính vòng vô khuẩn xung quanh đĩa chỉ 
chứa kháng sinh 5mm. Điều này là do clavulanic acid đã ức chế enzyme ESBL 
sinh ra bởi vi khuẩn, làm vi khuẩn trở nên nhạy cảm với kháng sinh β-lactam. 
Cefotaxime / 
Clavulanic 
id
Cefotaxime / 
Clavulanic acid
Ceftazidime / 
Clavulanic acid 
Ceftazidime / 
Clavulanic acid 
Ceftazidime 
Ceftazidime 
Cefotaxime 
Cefotaxime 
B
Cefotaxime / 
Clavulanic acid 
Ceftazidime / 
Clavulanic 
Ceftazidime Cefotaxime A
Cefotaxime / 
Clavulanic acid 
Ceftazidime / 
Clavulanic acid 
Ceftazidime Cefotaxime 
C D
Hình 3.1 Kết quả kiểm tra khả năng tạo ESBL của các chủng Shigella kháng 
ceftriazone. (A) ESBL dương tính (với cả hai cặp đĩa); (B) ESBL dương tính (với 
1 trong hai cặp đĩa); (C) ESBL âm tính (chủng S. sonnei nhạy với tất cả các 
kháng sinh); (D) ESBL âm tính (S. flexneri kháng với ceftriaxone). 
 Kết quả kiểm tra khả năng sinh enzyme ESBL của các chủng S. sonnei 
CroR (hình 3.1) cho thấy tất cả các chủng S. sonnei CroR (21/21 chủng) phân lập 
được từ các mẫu bệnh phẩm đều sinh enzyme ESBL. Trong đó, 18/21 chủng 
(85,7%) dương tính với cả hai cặp đĩa kháng sinh (ceftazidime và 
ceftazidime/clavulanic acid; cefotaxime và cefotaxime/clavulanic acid); 3 chủng 
còn lại (14,3%) chỉ cho kết quả dương tính với cặp đĩa kháng sinh cefotaxime và 
cefotaxime/clavulanic acid (bảng 3.2). 
 Kết quả ESBL cho thấy enzyme ESBL của Shigella sonnei có khả năng 
phân cắt cefotaxime cao hơn ceftazidime (đường kính vòng vô khuẩn xung 
quanh đĩa ceftazidime cao gấp 2 đến 3 lần so với đường kính vòng vô khuẩn 
xung quanh đĩa cefotaxime). Các chủng cho kết quả ESBL dương tính với hai 
cặp đĩa kháng sinh – kháng sinh/chất ức chế (hình 3.1A) phân cắt cefotaxime và 
ceftazidime tốt hơn những chủng chỉ dương tính với một cặp đĩa kháng sinh – 
kháng sinh/chất ức chế (hình 3.1B) (thể hiện ở đường kính vòng vô khuẩn nhỏ 
hơn). 
 Ở kiểu hình ESBL dương tính với cả 2 cặp đĩa kháng sinh – kháng 
sinh/chất ức chế, clavulanic acid đã ức chế enzyme ESBL, làm vi khuẩn trở nên 
kém hiệu quả trong phân giải cefotaxime cũng như ceftazidime. Ở kiểu hình 
ESBL chỉ dương tính với 1 cặp đĩa kháng sinh – kháng sinh/chất ức chế, 
clavulanic acid ức chế enzyme ESBL làm vi khuẩn kém phân giải cefotaxime, 
nhưng không ảnh hưởng đến sự phân giải ceftazidime (do ESBL của những 
chủng này phân giải ceftazidime rất kém) (bảng 3.3). 
Bảng 3.2 Kết quả kiểm tra khả năng sinh enzyme ESBL của S. sonnei CroR 
Đường kính vòng vô khuẩn (mm) 
STT Chủng 
CAZ/CLA CAZ CTX/CLA CTX
Kết quả ESBL 
1 DE611 32 28 28 13 
Dương tính với 1 cặp 
đĩa 
2 EG162 29 18 30 0 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
3 EG187 30 27 30 13 
Dương tính với 1 cặp 
đĩa 
4 EG204 30 19 27 0 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
5 EG250 31 19 23 0 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
6 EG356 32 28 23 9 
Dương tính với 1 cặp 
đĩa 
7 EG373 30 18 31 0 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
8 EG384 32 20 24 7 Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
9 EG390 32 22 30 10 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
10 EG395 30 20 31 9 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
11 EG421 31 20 31 8 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
12 EG424 31 21 32 9 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
13 EG430 32 21 31 10 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
14 EG472 33 21 30 10 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
15 EG1007 33 22 31 10 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
16 EG1008 33 20 31 8 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
17 EG1009 32 21 31 8 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
18 EG1010 32 21 32 10 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
19 EG1011 30 21 31 8 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
20 EG1012 31 20 31 10 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
21 EG1013 30 19 30 8 
Dương tính với 2 cặp 
đĩa 
Bảng 3.3 Đường kính vòng vô khuẩn trung bình 
Kết quả ESBL CAZ/CLA CAZ CTX/CLA CTX 
Dương tính với 2 cặp đĩa 
(n = 18) 
31,14 mm 20,14 mm 30,03 mm 7,03 mm 
Dương tính với 1 cặp đĩa 
(n = 3) 
31,33 mm 27,67 mm 27 mm 11,67 mm
Ghi chú: Các chữ kháng sinh viết tắt 
CAZ: Ceftazidime CAZ/CLA: Ceftazidime/Clavulanate 
CTX: Cefotaxime CTX/CLA: Cefotaxime/Clavulanate 
3.3 Plasmid của S. sonnei kháng với ceftriaxone và S. sonnei nhạy với 
ceftriaxone 
 Từ kiểu hình hoạt động của enzyme ESBL ở các chủng S. sonnei kháng 
ceftriaxone chúng tôi đặt giả thuyết enzyme ESBL này có thể thuộc họ CTX-M, 
và gen blaCTX-M mã hóa cho protein này nằm trên plasmid [5, 6, 11]. Vì vậy, 
chúng tôi đã khảo sát độ tương đồng về kiểu plasmid giữa một số chủng S. 
sonnei kháng ceftriaxone và một số chủng S. sonnei nhạy với ceftriaxone. 
 Plasmid được tách bằng phương pháp của Kado-Liu. Kết quả tách plasmid 
thể hiện trong hình 3.2. 
Hình 3.2 Kết quả điện di các plasmid của 1 số chủng Shigella sonnei. M: chủng 
E. coli 39R861 (4 plasmid với các kích thước lần lượt là 147 kb, 63 kb, 36 kb và 6 
kb); từ EG373 đến EG1009: các chủng S. sonnei kháng ceftriaxone; từ DE115 
đến DE1198: các chủng S. sonnei nhạy với ceftriaxone. 
 Tất cả các chủng S. sonnei kháng ceftriaxone được khảo sát đều chứa từ 6 
đến 10 plasmid với nhiều kích thước khác nhau, và đều chứa plasmid lớn có kích 
thước nằm trong khoảng từ 63 kb đến 147 kb. Trong khi đó, 6/9 chủng (66,7%) S. 
sonnei nhạy cảm với ceftriaxone không chứa plasmid lớn có kích thước nằm 
63 kb
147 kb
36 kb
6 kb
trong khoảng này. Vì vậy chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng gen kháng ceftriaxone 
nằm trên plasmid lớn có kích thước trong khoảng từ 63 kb đến 147 kb của S. 
sonnei. 
3.4 Tạo dòng chủng E. coli mang gen kháng ceftriaxone 
3.4.1 Cắt plasmid bằng AluI và cắt pUC bằng SmaI 
 Plasmid của S. sonnei CroR phân lập từ các mẫu bệnh phẩm sau khi tách 
bằng bộ kít của NucleoBond được cắt ngẫu nhiên với enzyme AluI. Phản ứng cắt 
thành công khi tạo ra được những đoạn DNA có kích thước từ 300 bp đến 12 kb, 
và không còn plasmid chưa cắt (hình 3.3). Các đoạn DNA có kích thước từ 500 
bp đến 2000 bp được tinh chế lại từ gel, và được sử dụng để nối với plasmid 
pUC19 (sau khi cắt với enzyme SmaI). 
 Vì plasmid pUC19 chỉ có một vị trí cắt của enzyme SmaI, nên sản phẩm 
cắt được tạo ra là DNA mạch thẳng với kích thước là 2686 bp (hình 3.3, cột 7). 
 Hình 3.3 Sản phẩm cắt plasmid của S. sonnei với enzyme AluI và pUC19 với 
enzyme SmaI. L: thang 1 kb plus; 1, 4: plasmid của S. sonnei trước khi cắt với 
enzyme AluI; 2-3, 5-6: plasmid của S. sonnei sau khi cắt với enzyme AluI; 7: 
pUC19 sau khi cắt với enzymeSmaI. 
3.4.2 Tạo dòng chủng E. coli mang gen kháng ceftriaxone 
 Kết quả tạo dòng cho được khuẩn lạc trắng trên đĩa môi trường LB-Amp-
X_gal (hình 3.4). Như vậy, phản ứng nối những đoạn DNA plasmid của vi khuẩn 
sau khi cắt bằng enzyme AluI với pUC19 sau khi cắt bằng enzymeSmaI thành 
công. 
 Tuy nhiên, trên môi trường LB-CRO không có khuẩn lạc nào mọc được, 
nghĩa là không tạo dòng được gen chịu trách nhiệm cho tính kháng ceftriaxone 
của S. sonnei. 
2 
500 
2686 bp 
 Hình 3.4 Khuẩn lạc trên môi trường LB-Amp-X_gal. Khuẩn lạc xanh: không có 
sản phẩm chèn vào pUC19; khuẩn lạc trắng: có sản phẩm chèn vào pUC19. 
 Tuy tạo dòng gen là một phương pháp sinh học phân tử mang tính chất đột 
phá trong việc phát hiện một gen chưa biết nhưng phải tạm dừng vì thời gian 
thực hiện đề tài có hạn. PCR sử dụng cặp mồi đặc hiệu cho các nhóm gen mã 
hóa enzyme ESBL được lựa chọn là phương pháp thay thế. 
3.5 Kết quả PCR gen mã hóa ESBL 
 Việc kiểm tra khả năng tạo ESBL của các chủng S. sonnei CroR cho thấy, 
tất cả các chủng S. sonnei kháng ceftriaxone đều có kết quả ESBL dương tính. 
Điều này cho thấy rằng gen chịu trách nhiệm cho tính kháng ceftriaxone ở S. 
sonnei là gen mã hóa cho ESBL. 
 Gen mã hóa cho ESBL gồm các nhóm như SHV, TEM, OXA và CTX-M. 
Tuy nhiên, do ESBL tạo ra bởi S. sonnei kháng ceftriaxone bị ức chế bởi 
clavulanic acid nên ESBL này không thể là enzyme thuộc họ OXA (đặc trưng 
bởi tính kháng lại chất ức chế như clavulanic acid) [6]. Vì vậy, chúng tôi chỉ sử 
dụng 3 cặp mồi đặc hiệu cho các nhóm ESBL thuộc họ SHV, TEM và CTX-M. 
Trình tự mồi và chương trình chạy PCR được thể hiện trong phần 2.7. 
 Kết quả chạy điện di sản phẩm PCR (hình 3.5) cho thấy tất cả các chủng 
S. sonnei CroR đều dương tính với cặp mồi đặc hiệu cho gen thuộc họ CTX-M 
khi trên gel agarose xuất hiện 1 vạch có kích thước 585 bp. Ơû cặp mồi SHV trên 
gel agarose xuất hiện một số vạch mờ nhưng không có vạch ở vị trí 593 bp đặc 
hiệu cho sản phẩm PCR của cặp mồi này. Như vậy, kết quả trên phù hợp với giả 
thuyết chúng tôi đặt ra ban đầu khi dựa vào đặc điểm của enzyme ESBL do S. 
sonnei CroR tạo ra (phân giải cefotaxime mạnh hơn ceftazidime, một đặc trưng 
của enzyme ESBL thuộc họ CTX-M). 
Hình 3.5 Kết quả điện di với các cặp mồi SHV, TEM và CTX-M. (1) cặp mồi 
SHV; (2) cặp mồi TEM; (3) cặp mồi CTX-M; L: thang 1kb plus; DE611 – 
EG1013: chủng S. sonnei kháng ceftriaxone; EG211: chủng S. sonnei nhạy với 
ceftriaxone; chứng âm: chứa nước thay vì DNA. 
 Chúng tôi tiến hành phản ứng PCR với các cặp mồi đặc hiệu cho một số 
nhóm thuộc họ gen CTX-M như CTX-M-1, CTX-M-2, CTX-M-9. Kết quả cho 
thấy 18/21 chủng (85,7%) dương tính với cặp mồi CTX-M-1 và 3/21 chủng 
(14,3%) dương tính với cặp mồi CTX-M-9 (hình 3.6). 
Hình 3.6 Kết quả điện di với các cặp mồi CTX-M-1, CTX-M-2 và CTX-M-9. 
(1) cặp mồi CTX-M-1; (2) cặp mồi CTX-M-2; (3) cặp mồi CTX-M-9; L: thang 
1kb plus; DE611 – EG1013: chủng S. sonnei kháng ceftriaxone; EG211: chủng S. 
sonnei nhạy với ceftriaxone; chứng âm: chứa nước thay vì DNA. 
 Ở những chủng DE611, EG187 (dương tính với cặp mồi CTX-M-9) và 
EG162 (dương tính với cặp mồi CTX-M-1), ngoài vạch dương tính với từng cặp 
mồi như đã nói trên, chúng tôi thấy có thêm 1 vạch mờø có cùng kích thước ở sản 
phẩm khuếch đại cho cặp mồi CTX-M-1 (chủng DE611 và EG187), và cặp mồi 
CTX-M-9 (chủng EG162). Để kiểm tra các sản phẩm này có đặc hiệu với các 
cặp mồi nêu trên hay không, chúng tôi thực hiện việc giải mã trình tự sản phẩm 
khuếch đại nêu trên. Kết quả cho thấy những tín hiệu không rõ ràng của các 
trình tự (nhiều tín hiệu của nhiều trình tự khác nhau trong sản phẩm khuếch đại). 
Như vậy,đây là các sản phẩm khuếch đại không đặc hiệu. 
 Chúng tôi thấy rằng có sự tương quan giữa kết quả PCR với kết quả ESBL 
đã thực hiện trước đó (bảng 3.2). Các chủng S. sonnei cho kết quả ESBL dương 
tính với cả hai cặp đĩa kháng sinh – kháng sinh/chất ức chế có kết quả PCR 
dương tính với cặp mồi CTX-M-1. Trong khi đó, những chủng S. sonnei có kết 
quả ESBL chỉ dương tính với một cặp đĩa kháng sinh – kháng sinh/chất ức chế 
cho kết quả PCR dương tính với cặp mồi CTX-M-9 (bảng 3.4). 
Bảng 3.4 So sánh kết quả kiểm tra ESBL và PCR của các chủng S. sonnei CroR 
Số chủng Chủng Kết quả ESBL Kết quả PCR
18 chủng 
(85,7%) 
EG162, EG204, EG250, 
EG373, EG384, EG390, 
EG395, EG421, EG424, 
EG430, EG472, EG1007, 
Dương tính với 2 
cặp đĩa kháng sinh 
CTX-M-1 
EG1008, EG1009, 
EG1010, EG1011, 
EG1012, EG1013 
3 chủng 
(14,3%) 
DE611, EG187, EG356 Dương tính với 1 
cặp đĩa kháng sinh 
CTX-M-9 
3.6 Trình tự gen mã hóa ESBL 
 Sản phẩm PCR (với cặp mồi CTX-M-1 và CTX-M-9) được giải trình tự và 
phân tích bằng phần mềm BioEdit và Vector NTI 7.0. Kết quả sau khi phân tích 
được so sánh với cơ sở dữ liệu của ngân hàng gen NCBI (National Center for 
Biotechnology Information). 
 Kết quả giải trình tự cho thấy tất cả trình tự của các sản phẩm khuếch đại 
từ các chủng bằng cặp mồi CTX-M-1 tương đồng 100% với trình tự của gen 
blaCTX-M-15 (mã số FJ668785.1) (hình 3.7). Trong khi đó, tất cả trình tự sản phẩm 
khuếch đại từ các chủng bằng cặp mồi CTX-M-9 tương đồng 100% với trình tự 
của gen blaCTX-M-14 (mã số DQ350884.1) đã công bố trên Ngân hàng Gen NCBI. 
 Hình 3.7 Độ tương đồng về trình tự nucleotide của các sản phẩm khuếch đại 
với cặp mồi CTX-M-1 
 Chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt đáng kể giữa hai trình tự gen blaCTX-
M-15 và blaCTX-M-14 khi so sánh độ tương đồng của chúng bằng phần mềm Vector 
NTI 7.0. Độ khác biệt giữa hai gen này là 31,6% (hình 3.8). 
 Hình 3.8 Độ tương đồng về trình tự nucleotide của các sản phẩm khuếch đại với 
cặp mồi CTX-M-1 (mẫu EG162) và CTX-M-9 (mẫu DE611) 
 Kể từ lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1986 tại Nhật Bản, các 
enzyme ESBL thuộc họ CTX-M hiện nay đã trở phổ biến trên thế giới, đặc biệt 
ở một số khu vực như Nam Mỹ, Châu Âu và vùng Đông Á [13, 23, 26]. Các 
CTX-M này chủ yếu được phát hiện ở các loài E. coli, Klebsiella pneumonia và 
Salmonella enterica. Hiện nay ở châu Á, CTX-M phổ biến nhất là CTX-M-15 và 
CTX-M-14. Ở Đông Nam Á, CTX-M mới chỉ được công bố ở Việt Nam (năm 
2002), ở Singapore (năm 2004) và ở Thái Lan (năm 2007). Trong đó, CTX-M tại 
Việt Nam đã được công bố ở loài K. pneumonia là CTX-M-14 và CTX-M-17; tại 
Singapore là CTX-M-9, CTX-M-11, CTX-M-15, CTX-M-2 và CTX-M-20 ở E. 
coli và K. pneumonia; tại Thái Lan là CTX-M-9, CTX-M-14 và CTX-M-15 phát 
hiện ở các loài vi khuẩn E. coli và K. pneumonia [4, 26, 27]. 
 Mặc dù CTX-M ngày càng trở nên phổ biến ở các vi khuẩn đường ruột, 
nhưng công bố về CTX-M ở Shigella spp. còn rất ít. Phát hiện đầu tiên về CTX-
M ở S. sonnei là CTX-M-2 trong chủng phân lập được tại Argentina vào năm 
2001 [18]. Cho đến nay, sự hiện diện của CTX-M trên Shigella chỉ được phát 
hiện ở một số nước như Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kì, Hồng Kông, Trung Quốc, 
Bangladesh, Ireland và gần đây nhất là Cộng hòa Séc [3, 9, 12, 29, 30]. Tại Việt 
Nam, chưa có một báo cáo nào về vi khuẩn Shigella spp. mang CTX-M. Như vậy, 
nghiên cứu này lần đầu tiên chứng minh có sự hiện diện của CTX-M-14 và 
CTX-M-15 ở Shigella sonnei ở Việt Nam. Ngoài ra, đây cũng là lần đầu tiên 
công bố có sự hiện diện của enzyme ESBL CTX-M-15 ở Việt Nam, và CTX-M-
15 là ESBL phổ biến trong những chủng S. sonnei CroR phân lập được từ các mẫu 
bệnh phẩm tạo HTD và bệnh viện Đồng Tháp. 
3.7 Kết quả chuyển plasmid mang gen mã hóa ESBL từ S. sonnei kháng 
ceftriaxone sang E. coli J53AzR bằng tiếp hợp 
 Plasmid từ S. sonnei kháng ceftriaxone được chuyển sang E. coli J53AzR 
bằng tiếp hợp. E. coli J53AzR sau khi nhận plasmid được chọn lọc trên môi 
trường LB-Sodium azide-ceftriaxone (LB-SA-Cro). Các chủng mọc được trên 
môi trường này được tách chiết plasmid theo phương pháp của Kado-Liu, và so 
sánh với chủng hoang dại. Kết quả thể hiện trong hình 3.9 
 Hình 3.9 Các plasmid của chủng E. coli J53AzR tiếp hợp (1) và chủng S. sonnei 
Cro