Khảo sát các bất thường nước tiểu bằng que thử nước tiểu tại hai trường Tiểu học và Trung học - Thành phố Hồ Chí Minh

Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ của những bất thường nước tiểu ở trẻ không triệu chứng tại trường Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền quận 3 và trường trung học cơ sở Trương Công Định quận Bình Thạnh TP. Hồ Chí Minh. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 09/2009 đến 12/2009 trên 546 trẻ khỏe mạnh từ 6 đến 14 tuổi. Việc tầm soát được thực hiện bằng que thử nước tiểu 10 thông số. Kết quả: Trong 546 trẻ khỏe mạnh (286 nam, 260 nữ), có 35 (6,41%) trường hợp bất thường nước tiểu ở tổng phân tích nước tiểu lần đầu và chỉ còn 3 (0,55%) trường hợp bất thường ở lần 2. Trong nhóm những trẻ bất thường nước tiểu lần 1, có 2,75% trẻ tiểu đạm đơn độc, 2,56% tiểu máu đơn độc, 0,37% tiểu bạch cầu đơn độc, 0,37% tiểu nitrit đơn độc, 0,37% tiểu bạch cầu kết hợp với nitrit và không ghi nhận trường hợp tiểu máu kết hợp tiểu đạm. Cả 3 trường hợp có bất thường nước tiểu lần 2 đều là tiểu hồng cầu và những tầm soát ghi nhận: 1 trường hợp thiếu máu tán huyết do thiếu men G6PD, 1 trường hợp thận ứ nước và 1 trường hợp hẹp bao quy đầu. Kết luận: Que thử nước tiểu thực hiện ở học sinh khỏe mạnh tại 2 trường cấp 1 và cấp 2 tại TP. Hồ Chí Minh phát hiện rất ít bất thường, tuy nhiên vẫn giúp phát hiện được bệnh ở trẻ không triệu chứng.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các bất thường nước tiểu bằng que thử nước tiểu tại hai trường Tiểu học và Trung học - Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 42 KHẢO SÁT CÁC BẤT THƯỜNG NƯỚC TIỂU BẰNG QUE THỬ NƯỚC TIỂU TẠI HAI TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC – TP HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Phương Thảo*, Đào Bích Thủy*, Hoàng Thị Diễm Thúy*,**, Trần Thị Mộng Hiệp*,** TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ của những bất thường nước tiểu ở trẻ không triệu chứng tại trường Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền quận 3 và trường trung học cơ sở Trương Công Định quận Bình Thạnh TP. Hồ Chí Minh. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 09/2009 đến 12/2009 trên 546 trẻ khỏe mạnh từ 6 đến 14 tuổi. Việc tầm soát được thực hiện bằng que thử nước tiểu 10 thông số. Kết quả: Trong 546 trẻ khỏe mạnh (286 nam, 260 nữ), có 35 (6,41%) trường hợp bất thường nước tiểu ở tổng phân tích nước tiểu lần đầu và chỉ còn 3 (0,55%) trường hợp bất thường ở lần 2. Trong nhóm những trẻ bất thường nước tiểu lần 1, có 2,75% trẻ tiểu đạm đơn độc, 2,56% tiểu máu đơn độc, 0,37% tiểu bạch cầu đơn độc, 0,37% tiểu nitrit đơn độc, 0,37% tiểu bạch cầu kết hợp với nitrit và không ghi nhận trường hợp tiểu máu kết hợp tiểu đạm. Cả 3 trường hợp có bất thường nước tiểu lần 2 đều là tiểu hồng cầu và những tầm soát ghi nhận: 1 trường hợp thiếu máu tán huyết do thiếu men G6PD, 1 trường hợp thận ứ nước và 1 trường hợp hẹp bao quy đầu. Kết luận: Que thử nước tiểu thực hiện ở học sinh khỏe mạnh tại 2 trường cấp 1 và cấp 2 tại TP. Hồ Chí Minh phát hiện rất ít bất thường, tuy nhiên vẫn giúp phát hiện được bệnh ở trẻ không triệu chứng. Từ khóa: Bệnh thận nguyên phát; Viêm đài bể thận ; Nitrit ; Leucocyte esterase ABSTRACT URINE SCREENING TEST IN CHILDREN AT TWO PRIMARY AND JUNIOR HIGH SCHOOL - HO CHI MINH CITY Nguyen Thi Phuong Thao, Dao Bich Thuy, Hoang Thi Diem Thuy, Tran Thi Mong Hiep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 42 - 47 Objective: This study attempted to determine the prevalence of urinary abnormalites in asymptomatic children in Nguyen Thanh Tuyen primary school (District 3) and Truong Cong Dinh junior high school (Binh Thanh District) in Ho Chi Minh city. Methods: A cross – sectional study from 09/2009 to 12/2009 was conducted in 546 apparently healthy children from 6 to 14 years of age. Urinary screening was performed with the dipstick method. Results: In 546 apparently healthy children (286 boys, 260 girls), urinary abnormalities were detected in 35 (6.41%) subjects at the first screening and only 3 (0.55%) cases at the second screening. Of the children who had urinary abnormalities at the first sceening, isolated proteinuria was found in 2.75% of the cases, isolated hematuria in 2.56%, leukocyte esterase in 0.37%, nitrit positive in 0.37% and combined leukocyte esterase and nitrit in 0.37%. No case with combined hematuria and proteinuria was found. Hematuria was found in all the 3 * Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch ** Khoa Thận - Nội Tiết BV Nhi Đồng 2 Tác giả liên lạc: TS.BS Trần Thị Mộng Hiệp ĐT: 0908198104 Email: tranmonghiep@yahoo.fr Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 43 patients with urinary abnormalities at the second screening and investigation showed G6PD deficiency anaemia in 1 case, hydronephrosis in 1 case and phimosis in 1 case. Conclusion: Urine screening test in healthy primary and junior high school children in Ho Chi Minh city showed very low rate of urine abnormalities, but can detect underlying disease in asymptomatic children. Keywords: Primary renal disease; Pyelonephritis; Nitrit; Leucocyte esterase ĐẶT VẤN ĐỀ Bất thường nước tiểu là một trong những dấu hiệu phản ánh bệnh lý hệ thận niệu như nhiễm trùng tiểu, viêm cầu thận, bệnh thận mô kẽ, dị tật bẩm sinh hệ niệu hay một số bệnh lý toàn thân như bệnh Lupus đỏ, bệnh ban xuất huyết Henoch-Schönlein, hội chứng tán huyết tăng urê huyết Những bệnh này nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến suy thận mạn, mà diễn tiến lâu dài, tất yếu là bệnh thận giai đoạn cuối. Suy thận mạn, ở trẻ em gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tăng trưởng, phát triển, cuộc sống gia đình, khả năng học tập và cuối cùng đưa đến chỉ định điều trị chạy thận nhân tạo và thay thế thận(4). Do vậy, việc phát hiện sớm bệnh thận mạn ở trẻ là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến điều trị và tiên lượng. Trong những năm gần đây, một số chương trình tầm soát bất thường nước tiểu ở trẻ em trong độ tuổi đi học đã được triển khai tại một số quốc gia như Thượng Hải (Trung Quốc), Singapore, Nhật Bản, Iran, Hàn Quốc, Đài Loan nhằm phát hiện bệnh thận ở giai đoạn sớm, đã cho thấy hiệu quả trong việc giảm gánh nặng điều trị của bệnh thận mạn ở những nước phát triển cũng như đang phát triển(4,5,10,12). Tại Nhật Bản, chương trình này đã trở thành thường quy, bắt đầu được thực hiện từ năm 1974 và kéo dài cho đến nay. Năm 2004, theo nghiên cứu ở trẻ từ 6-14 tuổi tỷ lệ tiểu đạm đơn độc là 0,11%, tiểu máu đơn độc 0,83%, tiểu đạm kết hợp tiểu máu 0,05%(5). Tại Thượng Hải, một nghiên cứu từ tháng 3- 10/2003 cho thấy tỷ lệ tiểu đạm đơn độc là 0,51%, tiểu máu đơn độc 0,46%, tiểu đạm kết hợp tiểu máu là 0,07%(10). Tất cả những chương trình này đều dựa trên que thử nước tiểu nhanh, đây là một phương tiện chi phí thấp, đơn giản, dễ sử dụng, có độ nhạy cao rất thích hợp với các chương trình tầm soát, đặc biệt trong việc phát hiện nhiễm trùng tiểu(8). Tại Việt Nam chưa có một chương trình tầm soát những bất thường nước tiểu ở trẻ em để có thể xác định được tỷ lệ tiểu bạch cầu, tiểu nitrit, tiểu đạm, tiểu máu, qua đó phát hiện sớm những bệnh lý liên quan. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm khảo sát tỷ lệ bất thường nước tiểu ở trẻ em khỏe mạnh từ 6 – 14 tuổi bằng que thứ nước tiểu 10 thông số. Qua đó, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp được thêm một số dữ liệu về tỷ lệ bất thường nước tiểu của trẻ em khỏe mạnh ở thành phố Hồ Chí Minh. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 09/2009 đến 12/2009 trên các trẻ tuổi từ 6- 14 tuổi, không có triệu chứng và tiền sử bệnh lý thận niệu trước đó tại trường Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền, Quận 3 và trường THCS Trương Công Định, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh. Cỡ mẫu được ước tính là 493 trẻ với độ tin cậy mong muốn là 95%. Mẫu nghiên cứu tại Trường Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh bao gồm khối lớp 1 (1A, 1D), khối lớp 2 (2A, 2B), khối lớp 3 (3B, 3D), khối lớp 4 (4B, 4E) và khối lớp 5 (5C, 5D). Mẫu nghiên cứu tại Trường THCS Trương Công Định, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh bao gồm khối lớp 6 (6-2), khối lớp 7 (7-1), khối lớp 8 (8-5) và khối lớp 9 (9-3). Các trẻ được chọn vào lô nghiên cứu bao gồm các trẻ không có triệu chứng và tiền sử Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 44 bệnh lý thận niệu, không mắc bệnh, không vận động thể lực mạnh, không gắng sức trước khi lấy mẫu một ngày và không uống vitamin C trước đó. Đối với trẻ nữ đang hành kinh thì không lấy mẫu, lấy lại sau khi sạch kinh. Về cách thu thập số liệu, bước 1, chúng tôi tiến hành lập hồ sơ những trẻ được đưa vào nghiên cứu, chọn ngẫu nhiên mỗi khối lớp từ 1 đến 2 lớp (45 – 70 trẻ), gặp và phổ biến cho trẻ về mục tiêu của nghiên cứu, cách thức lấy nước tiểu, gửi thư ngỏ và giấy đồng thuận tham gia nghiên cứu, bảng câu hỏi, tờ hướng dẫn phương pháp lấy nước tiểu và lọ đựng nước tiểu cho trẻ. Sau đó, bước 2 là khảo sát mẫu nước tiểu lần thứ nhất. Cân nặng, chiều cao, nhiệt độ (đo bằng nhiệt kế điện tử), huyết áp (sử dụng máy đo huyết áp bằng tay) được ghi nhận trước ngày lấy mẫu nước tiểu. Sau đó tiến hành thu thập mẫu nước tiểu, bảng trả lời câu hỏi vào đầu buổi sáng. Mẫu nước tiểu là mẫu đầu tiên được lấy sau khi trẻ thức dậy theo bảng hướng dẫn đã gửi trước đó. Tiến hành thử mẫu nước tiểu ngay sau khi thu thập được, không để mẫu lưu quá 2 giờ. Về dụng cụ, sử dụng que thử 10 thông số nhãn hiệu URS-10 (Urine Reagent Strips for Urinalysis), được sản xuất bởi TECO DIAGNOSTICS ANAHEIM, CA 92807 U.S.A. Về cách thức tiến hành thử nước tiểu, chúng tôi lắc đều lọ đựng nước tiểu, nhúng ngập que thử trong mẫu nước tiểu, lấy que thử ra khỏi lọ đựng nước tiểu và chờ đọc kết quả sau 1 phút. Mẫu thử được đọc tại chỗ lần lượt bởi hai bác sĩ một cách riêng biệt, đối chiếu và thống nhất kết quả. Sau đó ghi kết quả vào phiếu thu thập và lên danh sách những trẻ có kết quả bất thường trong mẫu thử nước tiểu lần nhất và thông báo cho trẻ và phụ huynh biết, đề nghị tiến hành lấy mẫu thử lần hai. Thực hiện bước 3 bao gồm khảo sát mẫu nước tiểu lần hai. Trẻ có mẫu thử nước tiểu lần nhất bất thường được tiến hành lấy mẫu thử nước tiểu lần hai sau 7 ngày. Sau đó, tiến hành lấy mẫu và thu thập kết quả theo các bước tương tự lần thứ nhất và lên danh sách những trẻ có kết quả bất thường trong mẫu thử nước tiểu lần hai và gửi giấy bao kết quả cho trẻ và phụ huynh. Bước 4 bao gồm việc định hướng nguyên nhân gây bất thường nước tiểu trên những trẻ có bất thường nước tiểu lần hai, liên hệ qua điện thoại và đề nghị phụ huynh hợp tác đưa trẻ đến bệnh viện Nhi đồng 2 để khảo sát thêm và thực hiện các xét nghiệm: công thức máu, creatinin máu, tổng phân tích nước tiểu (TPTNT) bằng máy, đạm niệu/ creatinin niệu, siêu âm hệ niệu và cấy nước tiểu. Chúng tôi sử dụng phần mềm Stata/MP 10.0 để xác định tần suất các biến số và lập bảng. KẾT QUẢ Trong thời gian từ tháng 09/2009 đến tháng 12/2009, có 546 trẻ được khảo sát, trong đó 351 (64%) trẻ thuộc nhóm cấp 1 (từ 6-10 tuổi) và 195 (36%) trẻ thuộc nhóm cấp 2 (từ 11- 14 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 1,1/1. Độ tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 9,61 ± 0,11 tuổi. Có 35 trường hợp có bất thường nước tiểu trên tổng số 546 trẻ chiếm 6,41%. Hầu hết các bất thường nước tiểu ở mức độ vết và 1+. Riêng bất thường hồng cầu trong nước tiểu tập trung nhiều ở mức độ 3+ (bảng 1). Bảng 1: Phân bố mức độ dương tính của những bất thường nước tiểu Bất thường Mức độ Bạch cầu Đạm Hồng cầu Vết 2 10 1 1+ 0 5 5 2+ 1 0 4 3+ 1 0 6 Trẻ tiểu bạch cầu không kèm nitrit chiếm tỷ lệ rất thấp (0,37%) (bảng 2). Bảng 2: Tỷ lệ trẻ tiểu bạch cầu không kèm tiểu nitrit Bạch cầu Số lượng Tỷ lệ (%) Âm tính 544 99,63 Dương tính 2 0,37 Tổng 546 100,00 Trẻ tiểu nitrit không kèm bạch cầu cũng chiếm tỷ lệ rất thấp (0,37%) (bảng 3). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 45 Bảng 3: Tỷ lệ trẻ tiểu nitrit không kèm bạch cầu Bạch cầu + Nitrit Số lượng Tỷ lệ (%) Âm tính 544 99,63 Dương tính 2 0,37 Tổng 546 100,00 Trẻ tiểu đạm đơn độc chiếm tỷ lệ 2,75% (bảng 4). Bảng 4: Tỷ lệ trẻ tiểu đạm đơn độc Đạm Số lượng Tỷ lệ (%) Âm tính 531 97,25 Dương tính 15 2,75 Tổng 546 100,00 Trẻ tiểu máu đơn độc chiếm tỷ lệ tương là 2,56% (bảng 5). Bảng 5: Tỷ lệ trẻ tiểu máu đơn độc Hồng cầu Số lượng Tỷ lệ (%) Âm tính 532 97,44 Dương tính 14 2,56 Tổng 546 100,00 Không phát hiện trường hợp nào có tiểu đạm kết hợp với tiểu máu. Tất cả (100%) các bất thường nước tiểu lần hai đều là tiểu máu, chiếm tỷ lệ 8,57% trên 35 trường hợp có bất thường nước tiểu lần nhất và chiếm 0,55% dân số nghiên cứu (n = 546). Tất cả những trường hợp tiểu máu đều ở mức độ 3+ (bảng 6). Bảng 6: Phân bố trẻ bất thường nước tiểu ở TPTNT lần hai so với lần nhất Bất thường Âm tính Dương tính Bạch cầu đơn độc 35 0 Nitrit đơn độc 35 0 Bạch cầu + Nitrit 35 0 Đạm 35 0 Hồng cầu 32 3 (3+) Đạm + Hồng cầu 35 0 Trong 3 trường hợp có bất thường lần 2, các xét nghiệm tầm soát nguyên nhân cho thấy có 1 trường hợp thiếu máu tán huyết do thiếu G6PD, 1 trường hợp thận ứ nước độ 1 và 1 trường hợp hẹp da quy đầu. BÀN LUẬN Kết quả TPTNT lần nhất Kết quả TPTNT lần nhất của chúng tôi có tỷ lệ bất thường nước tiểu là 6,41%, xấp xỉ với tác giả Shajari (4,7%)(12), Rao (7,2%)(10), Kaplan (9,00%)(2) và cao hơn so với kết quả của tác giả Murakami (0,75%)(5). Tuy nhiên thấp hơn nhiều so với các tác giả Plata (30,26%)(9) và Trần Thanh Phong (>47%)(14). Một trong những nguyên nhân là do chúng tôi, Plata và Trần Thanh Phong xác định tỷ lệ bất thường dựa trên 4 thông số: bạch cầu, nitrit, đạm và máu còn các tác giả có tỷ lệ thấp hơn chỉ dựa trên 2 thông số là đạm và máu. Xét riêng tỷ lệ bất thường tiểu đạm, máu của chúng tôi là 5,3% thì vẫn cao hơn so với các tác giả Murakami và Shajari. Tiểu đạm Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tiểu đạm là 2,75%, cao hơn Murakami (0,37%)(5) và Kaplan (1,60%)(2). Những trường hợp bất thường tiểu đạm lần nhất hoàn toàn biểu hiện ở mức độ vết và 1+. Tiểu máu Tỷ lệ tiểu máu của chúng tôi là 2,56% cao hơn Murakami (0,94%)(5) và Shajari (1,00%)(12), gần 50% tiểu máu là 3+. Tiểu đạm kết hợp tiểu máu Chúng tôi không ghi nhận được trường hợp tiểu máu kết hợp với đạm, trong khi theo tác giả Trần Thanh Phong tỷ lệ này là 2,2%. Tác giả Trần Thanh Phong nghiên cứu ở cả 2 đối tượng trường học và bệnh viện khác với dân số nghiên cứu của chúng tôi. Tiểu bạch cầu Tỷ lệ tiểu bạch cầu của chúng tôi là 0,37% thấp hơn với các tác giả Shajari (0,40%)(4), Kaplan (0,65%)(2), Plata (12,50%)(9) và Trần Thanh Phong (38,30%)(14). Tiểu nitrit Tỷ lệ tiểu nitrit của chúng tôi là 0,37% thấp hơn Shajari (0,60%)(12) và Trần Thanh Phong (4,60%)(14). Do độ nhạy của nitrit thấp, thường phối hợp với tiểu bạch cầu để chẩn đoán nhiễm trùng tiểu nên với dân số nghiên cứu của chúng tôi trong cộng đồng những trẻ em không triệu chứng thì khả năng dương tính sẽ thấp hơn so Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 46 với mẫu lớn hơn của tác giả Shajari và mẫu trong bệnh viện của tác giả Trần Thanh Phong. Tiểu bạch cầu kết hợp nitrit Tỷ lệ trẻ tiểu bạch cầu kết hợp tiểu nitrit là 0,37% thấp hơn tác giả Trần Thanh Phong (4,60%). Tương tự với tiểu bạch cầu, tiểu nitrit ở trên, dân số nghiên cứu của chúng tôi là trong cộng đồng khác với tác giả Trần Thanh Phong. Tỷ lệ bất thường bạch cầu và nitrit trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu của Shajari, Kaplan, Plata (4,6,7) có thể do trong quá trình chọn mẫu chúng tôi đã tiến hành chọn mẫu thuận tiện tại hai trường Tiểu học Nguyễn Thanh Tuyền và THCS Trương Công Định là hai trường tập trung hầu hết các em ở nội thành (cụ thể là quận 3 và quận Bình Thạnh). Bên cạnh đó, do hạn chế về nhiều mặt chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu với cỡ mẫu tương đối nhỏ so với các chương trình tầm soát của các tác giả khác được thực hiện trên diện rộng, quy mô lớn. Kết quả TPTNT lần hai Từ 35 trường hợp bất thường nước tiểu lần nhất, chúng tôi tiến hành TPTNT lần 2 và chỉ còn 3 trường hợp bất thường. Kết quả bất thường nước tiểu lần hai chỉ tập trung ở tiểu máu đơn độc với tỷ lệ là 0,55%. Tỷ lệ này khá tương đồng với tỷ lệ tiểu máu đơn độc trong bất thường lần hai ở nhóm của các tác giả Murakami (0,67%)(5) và Rao (0,46%)(10). Có thể thấy sự chênh lệch tỷ lệ bất thường nước tiểu ở hai lần TPTNT trong nghiên cứu của chúng tôi khá lớn. Hầu hết tập trung ở nhóm bất thường tiểu máu và tiểu đạm. Từ tỷ lệ tiểu máu 2,56% lần đầu, lần hai giảm còn 0,55%. Những trường hợp bất thường tiểu máu ở mức độ vết, 1+ lần nhất đều cho kết quả âm tính ở lần thử hai. Trong 6 trường hợp bất thường tiểu máu lần nhất ở mức độ 3+ thì kết quả lần hai có 3 trường hợp cho kết quả âm tính đều tập trung ở nữ, cấp 2 và qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy rằng kết quả bất thường lần nhất có thể đã bị sai lệch do các em lấy nước tiểu quanh chu kỳ kinh nguyệt (có nghĩa là các em gần đến ngày hành kinh hoặc sau khi hết kinh vài ngày). Do đó, chúng tôi nhận thấy rằng tiêu chuẩn chọn mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi chưa thật sự chặt chẽ, chưa loại hết trường hợp gây nhiễu. Còn lại 3 trường hợp dương tính ở mức độ 3+, trong đó có 2 trẻ nam và 1 trẻ nữ. Kết quả này cho thấy độ chính xác của que thử nước tiểu sẽ cao hơn khi dương tính ở mức độ cao hoặc có sự kết hợp của nhiều thông số bất thường (như tiểu đạm kết hợp tiểu máu). Điều này phù hợp với kết luận của một số tác giả Patel, Simerville, Rehmani(8,11,13). Từ tỷ lệ tiểu đạm 2,75% lần đầu, lần hai giảm còn 0%. Những trường hợp bất thường tiểu đạm lần nhất hoàn toàn biểu hiện ở mức độ vết và 1+, không ghi nhận trường hợp tiểu đạm 2+, 3+, do đó có thể đây chỉ là những trường hợp dương giả hoặc tiểu đạm sinh lý, thoáng qua. Tiểu đạm là một bất thường phổ biến ở trẻ em, có thể thoáng qua hoặc kéo dài biểu hiện cho một tình trạng bệnh hoặc có thể là lành tính. Tỷ lệ tiểu đạm ở cả hai giới đều tăng theo tuổi(1). Nhận định này phù hợp với kết luận của tác giả Miltenyi và cho thấy tiểu đạm ở mức 29-238 mg ở độ tuổi 10-16 là cao hơn so với 15-68 mg ở những độ tuổi nhỏ hơn(3). Điều này giải thích cho việc tìm thấy “vết” và dương tính mức độ nhẹ thường thấy,trong xét nghiệm tiểu đạm trẻ em(3). Trong TPTNT lần hai, tỷ lệ tiểu bạch cầu, nitrit của chúng tôi là 0% so với tỷ lệ tiểu bạch cầu, nitrit lần lượt của các tác giả Trần Thanh Phong là 12,2%(14) và 1,0% và tiểu bạch cầu của Kaplan là 0,50%(2). Sự khác biệt này có thể là do chúng tôi chỉ thực hiện tầm soát trên những trẻ khỏe mạnh, trong khi đó tác giả Trần Thanh Phong thực hiện trên cả hai nhóm đối tượng là trẻ đang đi học và trẻ không có triệu chứng, tiền sử bệnh thận niệu đến khám tại bệnh viện. Bên cạnh đó sự khác biệt về độ tuổi của dân số nghiên cứu cũng có thể là một nguyên nhân. Dân số nghiên cứu của tác giả Trần Thanh Phong ở độ tuổi từ 0-10 tuổi (mầm non và tiểu học), của Kaplan trong độ tuổi 5-6 tuổi (bắt đầu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 47 đi học), còn dân số nghiên cứu của chúng tôi là từ 6-14 tuổi (tiểu học và THCS). Trong lần TPTNT lần nhất có 8 trường hợp tiểu bạch cầu, tiểu nitrit. Tuy nhiên ở lần thử thứ hai thì không còn trường hợp nào, vì thế chúng tôi đã không thể xác định được tình trạng nhiễm trùng tiểu của các em. Điều này là do chúng tôi đã không thực hiện cấy nước tiểu ngay cho các em có bất thường ở lần nhất và có thể nhiễm trùng tiểu không triệu chứng ở các em đã tự giới hạn. Theo y văn những trường hợp nhiễm trùng tiểu không triệu chứng ở trẻ khỏe mạnh thì không khuyến cáo điều trị kháng sinh(6,7). Trong 3 trường hợp có tiểu máu ở lần tổng phân tích nước tiểu lần 2, chúng tôi đã tiến hành khám lâm sàng và có những xét nghiệm ban đầu trong điều kiện cho phép như: TPTNT bằng máy, đạm niệu/ creatinin niệu, siêu âm hệ niệu, cấy nước tiểu, xét nghiệm máu, creatinin máu. Bước đầu, chúng tôi chỉ xác định được một trường hợp có tình trạng thiếu máu tán huyết do thiếu men G6PD. Trong hai trường hợp còn lại, có một trường hợp thận ứ nước độ 1 và một trường hợp hẹp bao quy đầu cần theo dõi và tái khám định kỳ. Qua các kết quả nghiên cứu trên đây, chúng tôi ghi nhận rằng ở trẻ nhỏ tuổi, bất thường trên que tầm soát thường là Leucocyte esterase và Nitrit, trong khi ở trẻ lớn tuổi hơn hoặc trẻ tuổi học đường thì bất thường được tìm thấy chủ yếu là hồng cầu. Việc tầm soát sớm các bất thường đường niệu có thể làm giảm diển tiến đến suy thận mạn ở trẻ em và làm giảm gánh nặng của các bệnh thận mạn(15). KẾT LUẬN Tỷ lệ bất thường nước tiểu lần nhất là
Tài liệu liên quan