Đặt vấn đề: Xơ gan là bệnh rất thường gặp và có nhiều biến chứng, rối loạn đông máu‐ cầm máu được xem
là biến chứng nặng.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm của rối loạn đông máu‐ cầm máu ở bệnh nhân xơ gan tại Bệnh viện đa khoa
trung tâm Tiền Giang. Xác định mối liên quan giữa các chỉ số sinh học đông máu‐ cầm máu (tiểu cầu, TP, INR,
APTT, fibrinogen) ở bệnh nhân xơ gan với mức độ của bệnh theo phân loại Child‐Pugh.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: 55,67% bệnh nhân có tiểu cầu giảm <100G/l, 66,67% giảm tỉ lệ Prothrombin <70%, 41,67%
APTT kéo dài >40 giây, 55% có Fibrinogen giảm< 1,5g/l, 43,33% INR giảm, 40% giảm yếu tố V <70%, 28,33%
D‐dime tăng >500ng/ml. Bệnh nhân xơ gan mức độ nặng có số lượng tiểu cầu giảm nhiều hơn nhóm bệnh nhân
xơ gan mức độ vừa và nhẹ, Tỉ lệ Prothrombin <70% có tỉ lệ tăng dần theo mức độ xơ gan, thời gian
thromboplastin kéo dài chủ yếu xảy ra trên bệnh nhân xơ gan mức độ vừa và nặng, ở bệnh nhân mức độ nhẹ thì
không có giảm thromboplastin, tỉ lệ tăng INR chiếm đa số ở nhóm xơ gan mức độ nặng với 53,57%, 55%
Fibrinogen giảm <1,5g/l, 96% bệnh nhân có xét nghiệm APTT kéo dài trên 40 giây giảm yếu tố V dưới 70%.
Kết luận: Rối loạn đông máu‐ cầm máu ở bệnh nhân xơ gan chiếm tỉ lệ cao.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 372 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát đặc điểm rối loạn đông ‐ cầm máu trên bệnh nhân xơ gan tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 52
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN ĐÔNG ‐ CẦM MÁU
TRÊN BỆNH NHÂN XƠ GAN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TIỀN GIANG
Trần Quang Trạng*, Tạ Văn Trầm*, Nguyễn Tấn Bỉnh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Xơ gan là bệnh rất thường gặp và có nhiều biến chứng, rối loạn đông máu‐ cầm máu được xem
là biến chứng nặng.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm của rối loạn đông máu‐ cầm máu ở bệnh nhân xơ gan tại Bệnh viện đa khoa
trung tâm Tiền Giang. Xác định mối liên quan giữa các chỉ số sinh học đông máu‐ cầm máu (tiểu cầu, TP, INR,
APTT, fibrinogen) ở bệnh nhân xơ gan với mức độ của bệnh theo phân loại Child‐Pugh.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: 55,67% bệnh nhân có tiểu cầu giảm <100G/l, 66,67% giảm tỉ lệ Prothrombin <70%, 41,67%
APTT kéo dài >40 giây, 55% có Fibrinogen giảm< 1,5g/l, 43,33% INR giảm, 40% giảm yếu tố V <70%, 28,33%
D‐dime tăng >500ng/ml. Bệnh nhân xơ gan mức độ nặng có số lượng tiểu cầu giảm nhiều hơn nhóm bệnh nhân
xơ gan mức độ vừa và nhẹ, Tỉ lệ Prothrombin <70% có tỉ lệ tăng dần theo mức độ xơ gan, thời gian
thromboplastin kéo dài chủ yếu xảy ra trên bệnh nhân xơ gan mức độ vừa và nặng, ở bệnh nhân mức độ nhẹ thì
không có giảm thromboplastin, tỉ lệ tăng INR chiếm đa số ở nhóm xơ gan mức độ nặng với 53,57%, 55%
Fibrinogen giảm <1,5g/l, 96% bệnh nhân có xét nghiệm APTT kéo dài trên 40 giây giảm yếu tố V dưới 70%.
Kết luận: Rối loạn đông máu‐ cầm máu ở bệnh nhân xơ gan chiếm tỉ lệ cao.
Từ khóa: Xơ gan, rối loạn đông – cầm máu.
ABSTRACT
INVESTIGATION OF THE CHARACTERISTICS OF THE COAGULOPATHY‐HEMOSTASIS
IN PATIENTS WITH CIRRHOSIS AT THE TIEN GIANG GENERAL HOSPITAL.
Tran Quang Trang, Ta Van Tram, Nguyen Tan Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 51 ‐ 59
Background: Cirrhosis is a very common disease and there are many complications, coagulopathy‐
hemostasis is considered severe complications.
Objectives: Investigation of the characteristics of the coagulopathy‐hemostasis in patients with cirrhosis at
the central hospital of Tien Giang. Determine the relationship between biological indicators of coagulation‐
hemostasis (platelets, TP, INR, APTT, fibrinogen) in cirrhotic patients with levels of disease according to the
Child‐Pugh classification.
Methods: Cross‐sectional study described.
Results: 55.67% of patients had platelet counts <100 g / l, 66.67% reduction in the rate of prothrombin
40 seconds, 55% Fibrinogen decrease <1.5 g/l, 43.33% INR decrease, 40%
factor V 500ng/ml. Patients with severe liver cirrhosis with platelet counts lower than
those cirrhotic patients with moderate and mild, prothrombin ratio <70% increases with the degree of liver
fibrosis, prolonged thromboplastin time mainly occurred in patients with moderate to severe liver fibrosis, in
* Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang, ** Bệnh viện Huyết học Truyền máu TP HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS Tạ Văn Trầm ĐT: 0913 771 779 Email: tavantram@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 53
patients with mild no thromboplastin reduction, the rate of increase INR majority in the severe liver fibrosis
group with 53.57%, 55% Fibrinogen <1.5 g / l, 96% of patients had prolonged APTT tests on the 40 seconds
reduction factor V < 70%.
Conclusion: Coagulopathy‐hemostasis had high percentage in patients with cirrhosis.
Key words: Cirrhosis, coagulopathy‐hemostasis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xơ gan là bệnh rất thường gặp ở Việt Nam
cũng như ở nhiều nước trên thế giới, bệnh
chiếm tỉ lệ cao trong các bệnh lý nội khoa phải
nằm viện. Bệnh tiến triển âm thầm làm cho
bệnh nhân thường ít quan tâm, do vậy việc
chẩn đoán bệnh cũng như các biến chứng của
bệnh thường trễ nên bệnh nhân nhập viện đa
số là bệnh nặng và có nhiều biến chứng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức lao động và khả
năng sinh hoạt của người bệnh(8). Có nhiều
nguyên nhân gây ra bệnh xơ gan nhưng hậu
quả của bệnh thì bao gồm hai hội chứng: Suy
tế bào gan và tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Do đó
tất cả các biến chứng của bệnh đa phần cũng
xuất phát từ hai hội chứng trên.
Trong quá trình tiến triển của bệnh xơ gan,
có rất nhiều biến chứng xảy ra, trong đó có các
biến chứng nặng có thể làm cho bệnh nhân hôn
mê hoặc tử vong(11,17). Trong các biến chứng này,
rối loạn đông máu‐ cầm máu được xem là biến
chứng nặng, làm cho các biến chứng khác càng
trầm trọng hơn và khó điều trị hơn do vậy bệnh
nhân mất thời gian nằm viện lâu hơn từ đó chi
phí điều trị tăng cao. Tình trạng rối loạn đông
máu – cầm máu ảnh hưởng đến tiên lượng của
bệnh. Gan là nơi tổng hợp các yếu tố đông máu
trong huyết tương như: fibrinogen, yếu tố
II,V,VII, VIII, IX, X, XI, XII, trong đó yếu tố II,
VII, IX, X phụ thuộc vào vitamin K(2,4).
Các nghiên cứu về rối loạn đông máu‐ cầm
máu ở những bệnh nhân xơ gan đến nay đã
được ghi nhận ở một số công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước. Trước đây, xơ gan do rượu
sống trên 5 năm chiếm tỉ lệ < 50%, do viêm gan
khoảng 75% tử vong sau 1 đến 5 năm. Ngày nay
do tiến bộ của y học nên tỉ lệ sống cao hơn do
được chẩn đoán sớm và điều trị tích cực(9,14).
Tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh Tiền
Giang, hàng năm có hơn 100 bệnh nhân xơ gan
nhập viện điều trị vì các biến chứng như: Xuất
huyết tiêu hóa do dãn vỡ tĩnh mạch thực quản,
hôn mê gan, báng bụng, nhiễm trùng dịch báng,
suy kiệt và là bệnh nặng, thường có rối loạn
đông máu kèm theo. Vì vậy, chúng tôi nhận
thấy rằng nghiên cứu về vấn đề này là rất quan
trọng, góp phần phát hiện sớm biến chứng rối
loạn đông máu‐ cầm máu trên bệnh nhân xơ gan
để từ đó giúp bác sĩ điều trị có hướng xử trí kịp
thời, giảm bớt biến chứng và giảm tỉ lệ tử vong
cho bệnh nhân.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát đặc điểm của
rối loạn đông máu‐ cầm máu ở bệnh nhân xơ
gan tại Bệnh viện đa khoa trung tâm Tiền Giang.
Xác định mối liên quan giữa các chỉ số sinh học
đông máu‐ cầm máu (tiểu cầu, TP, INR, APTT,
fibrinogen) ở bệnh nhân xơ gan với mức độ của
bệnh theo phân loại Child‐Pugh.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân nhập viện điều trị tại khoa nội
bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh Tiền Giang
được chẩn đoán xơ gan từ tháng 04/ 2011 đến
hết tháng 07/ 2011.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Các bệnh nhân nhập viện điều trị tại khoa
nội bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh Tiền
Giang được chẩn đoán xơ gan, không phân biệt
tuổi và giới.
Tiêu chẩn loại trừ
Các bệnh nhân có các bệnh về máu, ung
thư gan, đái tháo đường, suy thận, suy tim,
mới truyền máu hoặc chế phẩm máu trong
vòng 1 tuần, có dùng kháng đông trước khi xét
nghiệm máu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 54
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Phân tích và xử lý số liệu
Chương trình thống kê Stata 11.
KẾT QUẢ
60 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu.
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Tuổi và giới tính
Bảng 1: Đặc điểm tuổi và giới
Giới
Tuổi (năm)
Nam Nữ Tổng cộng
n % n % n %
≤ 40 5 8,33 0 0 5 8,33
41-50 8 13,33 2 3,33 10 16,67
51-60 11 18,34 6 10,00 17 28,33
>60 10 16,67 18 30,00 2 46,67
Tổng cộng 34 56,67 26 43,33 60 100,00
Tuổi trung bình
(năm)
59,18 ± 13,17
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng
STT Triệu chứng Số lượng Tỉ lệ %
1 Vàng da 15 25,00
2 Phù 26 43,33
3 Cổ chướng 25 41,67
4 Tuần hoàn bàng hệ 54 90,00
5 Lách to 22 36,67
6 Xuất huyết tiêu hoá 21 35,00
7 Thiếu máu 45 75,00
Bảng 3: Các nguyên nhân xơ gan
Stt Nguyên nhân
xơ gan
Số lượng Tỉ lệ %
1 Rượu 9 15,00
2 Siêu vi B 6 10,00
3 Siêu vi C 19 31,67
4 Phối hợp 8 13,33
5 Khác 18 30,00
Bảng 4: Phân độ các mức độ xơ gan theo Child‐Pugh
Mức độ xơ gan Số lượng Tỉ lệ %
Child- Pugh A (nhẹ) 9 15,00
Child- Pugh B (vừa) 23 38,33
Child- Pugh C (nặng) 28 46,67
Tổng số 60 100
Bảng 5: Triệu chứng cận lâm sàng về sinh hoá
Triệu chứng Số lượng Tỉ lệ %
Giảm Albumin (< 35g/l) 57 95,00
Tăng bilirubin toàn phần (> 18mg/l) 19 31,67
Tăng SGOT (>40 U/l) 49 81,67
Tăng SGPT (> 40 U/l) 24 40,00
Bảng 6: Triệu chứng cận lâm sàng về huyết học
Các xét nghiệm Số lượng Tỉ lệ %
Giảm số lượng tiểu cầu (< 100 G/l) 34 55,67
Giảm tỉ lệ prothrombin (< 70%) 40 66,67
INR kéo dài (>1,4) 26 43,33
Fibrinogen giảm (< 1,5mg%) 33 55,00
APTT kéo dài (> 40 giây) 25 41,67
Yếu tố V giảm (< 70%) 24 40,00
D- dime tăng (> 500ng/ml) 17 28,33
Đặc điểm rối loạn đông ‐ cầm máu với các
mức độ của bệnh
Bảng 7: So sánh kết quả các xét nghiệm đông máu,
cầm máu ở các mức độ xơ gan
Tên xét
nghiệm
Đơn
vị
Child-Pugh
A
Child- Pugh
B
Child-
Pugh C P
Tiểu cầu G/l 127,89±46,22116,09±84,1795,35±41,12 <0,05
PT % 75,89±9,5 60,13±17,35 56,39±22,58 <0,05
APTT Giây 32,89±4,53 39,34±6,11 45±13,13 <0,05
INR 1,07±0,43 1,38±0,18 1,58±0,43 <0,05
Fibrinogenmg% 1,95±0,75 1,80±1,01 1,66±0,81 >0,05
Bảng 8: Các mức độ xơ gan với sự thay đổi số lượng
tiểu cầu
Bảng 9: Mức độ xơ gan và tỉ lệ thời gian
Prothrombin (PT)
Xơ gan
PT
< 70% ≥ 70%
n % n %
Child A (n=9) 1 11,11 8 88,89
Child B (n=23) 18 78,26 5 21,74
Child C (n=28) 21 75,00 7 25,00
Tiểu cầu
Mức độ
100G/l
n % n %
Child A (n=9) 3 33,33 6 66,67
Child B (n=23) 12 52,17 11 47,83
Child C (n=28) 19 67,86 9 32,14
P < 0,05 < 0,05
Mức độ x
16.67
51.67
31.66
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 55
P <0,05 <0,05
Bảng 10: Liên quan giữa mức độ xơ gan và thời gian
Thromboplastin (APTT)
Xơ gan
APTT
<40 giây ≥ 40 giây
n % n %
Child A (n=9) 9 100 0 0,00
Child B (n= 23) 13 56,52 10 43,48
Child C (n= 28) 13 46,43 15 53,57
P <0,05 <0,05
Bảng 11: Liên quan giữa mức độ xơ gan và chỉ số INR
INR
Mức độ
1,4
n % n %
Child A (n=9) 8 88,89 1 11,11
Child B (n=23) 13 56,52 10 43,48
Child C (n=28) 13 46,43 15 53,57
P < 0,05 < 0,05
Bảng 12: Liên quan giữa mức độ xơ gan và fibrinogen
Xơ gan
Fibrinogen
P < 1,5g/l ≥ 1,5g/l
n % n %
Child A (n=9) 4 44,44 5 55,56
>0,05Child B (n= 23) 12 52,17 11 47,83
Child C (n= 28) 17 60,71 11 39,29
Bảng 13: Liên quan giữa APTT và yếu tố V
APTT
Yếu tố V
P < 70% ≥ 70%
n % n %
≤ 40 giây 0 0 35 100 <0,05
40 giây 24 96,00 1 4,00
BÀN LUẬN
Xơ gan là bệnh phổ biến ở tất cả các nước
trên thế giới, bệnh có xu hướng ngày càng gia
tăng, đặc biệt là tăng theo tỉ lệ viêm gan siêu
vi. Đây là một trong những bệnh lý nội khoa
thường gặp. Bệnh có những biến chứng nặng
nề có thể đe dọa đến tính mạng của ngưới
bệnh như: xuất huyết tiêu hóa do dãn vỡ
TMTQ, nhiễm trùng dịch báng, hôn mê gan,
suy gan nặng. Trong đó, rối loạn đông‐ cầm
máu là một biến chứng gây cho các biến chứng
khác ngày càng trầm trọng hơn. Nếu chúng ta
phát hiện sớm, điều chỉnh kịp thời thì sẽ làm
giảm mức nặng của các biến chứng khác, làm
giảm tỉ lệ tử vong(15).
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỉ
lệ viêm gan siêu vi B và C cao, trong tương lai số
bệnh nhân xơ gan trong cộng đồng ngày càng
gia tăng, gánh nặng y tế ngày càng cao và đây là
vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, đa số các bệnh nhân
đều có biểu hiện xơ gan rõ trên lâm sàng cũng
như xét nghiệm và có rối loạn đông máu ở các
mức độ khác nhau.
Một số đặc điểm chung
Tuổi
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 60 bệnh
nhân nằm viện điều trị tại khoa Nội ‐ Bệnh viện
Đa khoa trung tâm tỉnh Tiền Giang, chúng tôi
thấy tuổi thấp nhất là 31, tuổi cao nhất là 86,
nhóm tuổi gặp nhiều nhất là nhóm tuổi > 60
chiếm 46,67%. Tuổi trung bình là 59,18 ±13,17
cao hơn nghiên cứu của một số tác giả trong
nước như: 46,3±13,1 trong nghiên cứu của tác giả
Đồng Đức Hoàng, Dương Hồng Thái (2007) hay
45,6 ± 11,4 của tác giả Trần Văn Hoà (2008). Đối
với nước ngoài có tuổi trung bình của xơ gan:
55±13,40 gần tương đương với nghiên cứu của
chúng tôi. Như vậy, độ tuổi trung bình của bệnh
có xu hướng tăng lên, điều này có thể do tiến bộ
trong lĩnh vực điều trị ngày càng cao sẽ làm cho
quá trình tiến triển của bệnh từ những bệnh
nhân có mang mầm bệnh (viêm gan siêu vi)
chuyển sang bệnh xơ gan chậm lại.
Giới
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 34 nam
(56,67%) và 26 nữ (43,33%). Tỉ lệ bệnh nhân
nam/nữ là 1,3. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ xơ gan
ở nam nhiều hơn nữ, điều này có thể do nam
giới chịu ảnh hưởng bởi nguyên nhân do rượu.
Tỉ lệ này cũng phù hợp với kết quả trong nghiên
cứu của Mã Phước Nguyên trên 96 bệnh nhân
xơ gan với tỉ lệ bệnh nhân nam là 57,3% và nữ là
42,7%(10). Trần Quốc Trung khảo sát trên 166
bệnh nhân xơ gan cho thấy tỉ lệ bệnh nhân nam
là 64,46% và bệnh nhân nữ là 35,54%.
Về nguyên nhân gây xơ gan
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 56
Cho đến ngày nay, viêm gan siêu vi mạn là
nguyên nhân hàng đầu gây xơ gan ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Có nhiều loại siêu vi gây xơ gan
nhưng hai loại thường gặp nhất là siêu vi B và
C. Hiện nay trên thế giới có khoảng 2 tỉ người bị
nhiễm siêu vi viêm gan B và hơn 350 triệu người
mang viêm siêu vi viêm gan B mạn tính, một tỉ
lệ lớn sẽ biến thành viêm gan mạn và xơ gan.
Việt nam là vùng dịch tể lưu hành cao của siêu
vi viêm gan B, theo số liệu công bố của giáo sư
Hà Văn Mạo năm 2004 thì tỉ lệ nhiễm siêu vi
viêm gan B là 10‐25%. Tỉ lệ nhiễm siêu vi viêm
gan C ở Việt Nam là 1‐1,8%; nhưng theo nghiên
cứu của Nakata thì tỉ lệ nhiễm siêu vi viêm gan
C là 4‐9%.
Để xác định được nguyên nhân của bệnh
xơ gan đòi hỏi phải có những kỹ thuật chẩn
đoán cao và chuyên sâu như sinh thiết gan và
nhiều xét nghiệm khác, tại bệnh viện của
chúng tôi chưa có xét nghiệm đầy đủ, chúng
tôi chỉ xét nghiệm máu để biết bệnh nhân có
nhiễm viêm gan siêu vi B (HbsAg (+)) và viêm
gan siêu vi C (anti HCV (+)) hay không, và
khai thác tiền sử của bệnh nhân để một phần
đánh giá yếu tố nguy cơ gây xơ gan như có
nghiện rượu hay không. Trong nghiên cứu của
chúng tôi nguyên nhân nổi bật nhất là viêm
gan siêu vi C đơn độc có 19 trường hợp chiếm
31,67 %, do rượu có 9 trường hợp chiếm 15%,
viêm gan siêu vi B đơn độc có 6 trường hợp
chiếm 10%, không biết nguyên nhân có 18
trường hợp chiếm 30%, còn lại là phối hợp các
nguyên nhân do rượu, viêm gan siêu vi B và
viêm gan siêu vi C. Trước đây, theo tác giả
Trần Văn Huy xơ gan do rượu chiếm 28,6%,
do virus là 19%(14). Theo Trần Văn Hòa xơ gan
do rượu chiếm 29%, do virus là 38,9%. Theo
nghiên cứu của Hồ Tấn Phát thực hiện tại
khoa nội tiêu hóa gan mật bệnh viện Chợ Rẫy
năm 2002 thì nguyên nhân hàng đầu gây xơ
gan là viêm gan siêu vi B (39,3%), thứ hai là
viêm gan siêu vi C (36%)(10). Ngược lại, ở các
nước phương Tây nguyên nhân gây xơ gan
hàng đầu là viêm gan siêu vi C. Theo Atif
Zaman, nguyên nhân xơ gan do siêu vi đơn
thuần là không cao chỉ 33%, trong đó viêm gan
siêu vi C là 27%, siêu vi B là 5%, còn nguyên
nhân do siêu vi C/ nghiện rượu chiếm 31%(1).
Theo David C Wolf, nguyên nhân gây xơ gan
hàng đầu ở Mỹ là siêu vi C chiếm 26%, do
rượu 21%, siêu vi C kết hợp bệnh gan do rượu
15%, trong khi đó do siêu vi B là 15%.
Tuy các nghiên cứu có các số liệu khác
nhau nhưng đều có chung nhận xét là tỉ lệ xơ
gan do rượu và do virus gặp nhiều hơn các
nguyên nhân khác. Chúng tôi nhận thấy rằng
tỉ lệ xơ gan do rượu ngày càng giảm dần,
nhưng nguyên nhân do virus ngày càng tăng
cao, đây là dấu hiệu rất đáng báo động do tình
hình virus viêm gan lây nhanh. Việt Nam nằm
trong vùng nội dịch lưu hành cao và sự nhiễm
viêm gan siêu vi chủ yếu xảy ra do mẹ lây
sang con, nên tuổi bị nhiễm thường rất sớm
như ở trẻ sơ sinh, do bị nhiễm từ tuổi còn nhỏ
nên nguy cơ mang siêu vi mạn rất cao và khi
trưởng thành có thể bị viêm gan mạn, xơ gan
và ung thư gan gây ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khoẻ của người bệnh.
Các dấu hiệu lâm sang
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các triệu
chứng thường gặp của bệnh nhân xơ gan là:
Mệt mỏi, sụt cân, vàng da, phù, cổ chướng,
thiếu máu, lách to Nghiên cứu của chúng tôi
cũng có kết quả phù hợp với các triệu chứng
lâm sàng kinh điển của xơ gan và có tỉ lệ các
triệu chứng như sau: Tuần hoàn bàng hệ
(90%); thiếu máu (75%); cổ chướng (41,67%);
phù (43,33%); lách to (36,67%); xuất huyết tiêu
hoá (35%) và vàng da (25%). Qua các dấu hiệu
lâm sàng của xơ gan, chúng ta thấy khi có tổn
thương trầm trọng các tế bào gan thì sẽ xuất
hiện dấu hiệu của hội chứng tăng áp lực tĩnh
mạch cửa. Đầu tiên gây tuần hoàn bàng hệ,
tiếp đến là tình trạng thấm dịch gây cổ
chướng, tăng áp lực tĩnh mạch cửa dần dần sẽ
gây lách to, khi đó tế bào máu sẽ bị lách bắt
giữ gây tình trạng thiếu máu, giảm tiểu cầu.
Tăng áp lực TM cửa còn gây tình trạng dãn
tĩnh mạch thực quản, khi tĩnh mạch này vỡ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 57
bệnh nhân sẽ bị xuất huyết tiêu hóa và làm cho
tình trạng thiếu máu ngày càng nhiều hơn.
Phân loại Child‐ Pugh
Để đánh giá các mức độ nặng của xơ gan,
năm 1982 Pugh và cộng sự đã đưa ra bảng tính
điểm và phân ra 3 mức độ xơ gan là nhẹ, vừa
và nặng tương ứng là Child‐ Pugh A, Child‐
Pugh B và Child‐ Pugh C. Theo bảng điểm
này, nghiên cứu của chúng tôi có kết quả sau:
Child‐ Pugh A có 9 bệnh nhân (15%), Child‐
Pugh B có 23 bệnh nhân (38,33%) và Child‐
Pugh C có 28 bệnh nhân (46,67%). Như vậy tỉ
lệ mắc bệnh nặng có xu hướng tăng dần, điều
này chứng tỏ bệnh nhân đến khám và điều trị
thường trể do chủ quan hoặc do không nhận
thức đầy đủ sự nguy hiểm của bệnh nhất là
các biến chứng nặng, khi đã có các biến chứng
xảy ra thì bệnh nhân mới thực sự quan tâm,
lúc này bệnh nhân mới đến cơ sở y tế để điều
trị. Theo nghiên cứu của Trần Văn Hoà thì
Child‐ Pugh A: 26,3%; Child‐ Pugh B: 33,3% và
Child‐ Pugh C: 40,3% tương đương với nghiên
cứu của chúng tôi. Ở Pháp Child‐Pugh A: 50%;
Chid‐ Pugh B: 24% và Child‐ Pugh C: 26%. Xơ
gan ở mức độ nặng trong nghiên cứu của
chúng tôi có tỉ lệ cao hơn ở Pháp và đa số bệnh
nhân nhập viện ở giai đoạn mật bù, nhiều biến
chứng. Có lẽ do trình độ dân trí còn thấp nên
chưa nhận thức được đầy đủ về căn bệnh này,
nên người dân còn thờ ơ với bệnh, khi nào có
biến chứng mới điều trị. Do vậy, chúng ta cần
tuyên truyền đầy đủ về căn bệnh này cho
người dân hiểu rõ để từ đó có kế hoạch khám
sức khoẻ định kỳ nhằm phát hiện bệnh sớm
hơn, hạn chế biến chứng nặng xảy ra.
Thay đổi cầm máu, đông máu ở bệnh nhân
xơ gan và các mức độ của bệnh
Các mức độ xơ gan với sự thay đổi số lượng
tiểu cầu
Tiểu cầu được tạo ra ở tủy xương, sau khi
rời khỏi tủy xương 1/3 sẽ bị hủy tại lách, 2/3
còn lại lưu thông trong tuần hoàn từ 7‐10
ngày. Giảm tiểu cầu là dấu hiệu thường gặp
trên bệnh nhân xơ gan, xuất hiện khi có tăng
áp lực tĩnh mạch cửa và liên quan đến lách to.
Cơ chế giảm