Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu

Cây hồ tiêu (Pipe nigrum L.) là cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, là nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ gia đình trong cả nước. Hạt tiêu là một loại gia vị rất được ưa chuộng ở nhiều nơi trên thế giới. Hạt tiêu có vị cay, mùi thơm hấp dẫn nên được sử dụng làm gia vị cho nhiều món ăn. Ngoài ra tiêu còn được dùng trong công nghiệp chế biến hương liệu, nước hoa và y dược. Hiện nay, tiêu là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế và mang lại nguồn lợi nhuận cao. Những năm gần đây diện tích tiêu không ngừng gia tăng nhất là vùng miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.

doc59 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Cây hồ tiêu (Pipe nigrum L.) là cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, là nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ gia đình trong cả nước. Hạt tiêu là một loại gia vị rất được ưa chuộng ở nhiều nơi trên thế giới. Hạt tiêu có vị cay, mùi thơm hấp dẫn nên được sử dụng làm gia vị cho nhiều món ăn. Ngoài ra tiêu còn được dùng trong công nghiệp chế biến hương liệu, nước hoa và y dược. Hiện nay, tiêu là mặït hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế và mang lại nguồn lợi nhuận cao. Những năm gần đây diện tích tiêu không ngừng gia tăng nhất là vùng miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Cùng với việc gia tăng về sản lượng tiêu xuất khẩu, các vườn tiêu không ngừng bị áp lực dịch bệnh đe dọa. Trong đó, bệnh chết nhanh dây tiêu do nấm Phytophthora spp. gây ra là một tai họa cho các vườn tiêu nguyên liệu có diện tích lớn của cả nước. Bệnh xuất hiện và lây lan rất nhanh, thường làm tiêu chết hàng loạt, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất. Trước tình hình này, cần có biện pháp phù hợp để hạn chế dịch bệnh, đảm bảo năng suất cho nhà vườn. Hiện nay tổn thất do nấm Phytophthora spp. gây ra trên tiêu vẫn chưa có biện pháp phòng trừ thích hợp. Người dân chủ yếu sử dụng thuốc hoá học làm biện pháp chính để hạn chế dịch bệnh. Tuy đầu tư về thuốc hoá học rất cao nhưng dịch bệnh vẫn tràn lan, làm tiêu chết nhanh hàng loạt, thậm chí có vườn bị mất trắng năng suất. Việc sử dụng thuốc hoá học còn dẫn đến một loạt các hậu quả mà con người và thiên nhiên phải gánh chịu như các vấn đề về ô nhiễm môi trường, sức khoẻ con người và thiên nhiên, dư lượng thuốc ảnh hưởng đến nông nghiệp làm cho tác nhân gây bệnh trở nên kháng thuốc, các loài thiên địch bị tiêu diệt gần hết. Vì vậy chiến lược phát triển của công tác bảo vệ thực vật hiện nay là cần quan tâm đến các vấn đề bảo vệ môi trường, sinh thái học và sức khỏe con người, đồng thời giảm bớt việc sử dụng bừa bãi thuốc hoá học. Trước tình hình đó, biện pháp phòng trừ bệnh hại bằng sinh học đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nguyên cứu. Nhiều tác nhân ký sinh, đáng chú ý là một số loại nấm, chúng có thể đối kháng trên một số bệnh hại gây ra tổn thất cho cây trồng. Hơn nữa, chúng không những ngăn chặn được một số bệnh hại trên đồng ruộng mà còn bảo vệ được những loài thiên địch bản xứ trong tự nhiên như động vật ăn thịt, ký sinh và côn trùng có ích, vừa ngăn chặn được dịch hại lại đảm bảo tốt cho sức khỏe con người và môi trường Hiện nay đang áp dụng phương pháp phòng trừ tổng hợp IPM và bằng biện pháp sinh học. Trong hai biện pháp vừa nêu thì biện pháp phòng trừ bằng các tác nhân sinh học giữ vai trò chỉ đạo trong giai đoạn hiện nay. Phòng trừ bệnh hại bằng biện pháp sinh học chủ yếu là khai thác và sử dụng khả năng đối kháng của một số loại nấm đối với các loại nấm gây hại cho cây trồng. Hiện nay có nhiều công trình nguyên cứu về chế phẩm sinh học trong đó có nấm Trichoderma, vi khuẩn Bacillus, nấm men Saccharomyces. Sản xuất ra chế phẩm từ loại nấm này để hạn chế nấm gây hại cho cây trồng như nấm Rhizoctonia, Sclerotium, Fusarium, Pythium gây bệnh trên lúa, ngô và một số cây trồng khác. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát, đánh giá một số phương pháp phòng bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu” CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỒ TIÊU 1.1.1 Nguồn gốc và lịch sử phát triển Cây tiêu có nguồn gốc ở Tây Nam Aán Độ, mọc hoang dại ở các cánh rừng nhiệt đới ẩm ở vùng Ghast Tây và Assam. Từ thế lỷ XIII, tiêu được canh tác trên diện rộng và sử dụng rộng rãi trong các bữa ăn hàng ngày. Sau đó, cây tiêu được trồng lan rộng ra nhiều nước khác nhau ở Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Sri Lanka và Campuchia. Từ cuối thế kỷ XIX cây tiêu bắt đầu được trồng ở châu Phi như Madagasca, Nigeria, Congo, Cộng Hòa Trung Phi.. Ở châu Mỹ, Brazil là nước canh tác tiêu nhiều nhất với nguồn giống được đưa vào từ Singapore. Ở Đông Dương (Việt Nam và Campuchia), cây tiêu mọc hoang dại được tìm thấy từ trước thế kỷ XVI nhưng tới thế kỷ XVII mới có các giống mới được đưa vào trồng, và bắt đầu từ thế kỷ XIX mới được canh tác qui mô ở vùng Hà Tiên-Việt Nam và vùng Kampot-Campuchia. Theo thống kê của FAO, cây tiêu được sản xuất khắp thế giới bắt đầu từ thế kỷ XIX, cho đến nay trên đến nay trên thế giới có khoảng 70 quốc gia trồng tiêu, các nước đứng đầu về diện tích và sản lượng có ảnh hưởng lớn đến thị trường thế giới gồm: Brazil, Aán Độ, Việt Nam, Indonesia và Malaysia chiếm 90% sản lượng của toàn thế giới. Theo Phan Quốc Sủng (2000): theo Ủy ban Hồ tiêu Quốc tế xác nhận Việt Nam đứng vào hàng thứ tư của các nước đứng đầu về sản xuất hồ tiêu trên thế giới theo thứ tự: Aán Độ, Indonexia, Malaysia, Việt Nam, Brazil và Sri Lanka. Trong tháng 6 năm 1999, theo Dow Jones xác nhận Việt Nam có số lượng xuất khẩu hạt tiêu ước đạt 24.890 tấn, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Aán Độ. Trong tháng 11 năm 1999, Việt Nam xuất khẩu đạt 26.400 tấn đứng vị trí thứ ba sau Aán Độ và Indonesia. Theo thông tin của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, 6 tháng đầu năm 2001 và 2002 Việt Nam vượt lên đứng đầu về xuất khẩu hồ tiêu trên thế giới. Trong những năm gần đây do giá tiêu tăng đột ngột và ưu điểm của hạt tiêu là dễ bảo quản, bảo quản được lâu hơn so với các mặt hàng nông sản khác nên diện tích trồng tiêu của nước ta đã không ngừng gia tăng đặc biệt là ở miền Nam, các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. 1.1.2. Đặc điểm thực vật học và phân loại 1.1.2.1 Phân loại khoa học Giới (regnum) : Plantae Ngành (divisio): Magnoliophyta Lớp (class) : Magnoliopsida Bộ (ordo) : Piperales Họ (familia) : Piperaceae Chi (genus) : Piper Loài (species) : P.nigrum Tên hai phần : Piper nigrum Hình 1.1 Cây hồ tiêu với quả chưa chín Cây tiêu (có tên khoa học là P.nigrum L, tên tiếng Anh: black pepper, Madagasca pepper, pepper, white pepper) thuộc họ Piperaceae. Họ tiêu có khoảng 75 loài, ở Việt Nam gồm toàn các cây thân thảo là cỏ nhỏ hoặc dây bò leo bằng rễ bám như: rau càng cua (Peperomia pellucida Kunth), dây trầu (Piper betle L.), tiêu dội hay tiêu long (Piper retrofractum Vahl.), lá lốt (Piper sarmentosum Roxb.)… 1.1.2.2 Đặc điểm thực vật học Hồ tiêu là một loại dây leo, thân thảo mềm, thân dài và nhẵn không mang lông, cấu tạo bởi nhiều mạch gỗ-liber, bám vào vật đỡ bằng rễ. Ở trạng thái tự nhiên cây cao từ 8-10 m nhưng ở vườn trồng người ta không để nó vượt quá 3-4 m. Thân mọc cuốn, mang lá mọc cách. Lá tiêu trông như lá trầu không nhưng dài và thuôn hơn, lá có 5 gân hình lông chim, chiều dài lá từ 10-25 cm, rộng từ 5-10 cm. Ngoài rễ chính và rễ phụ dưới đất, cây tiêu còn có rễ bám (hay rễ thằn lằn), dùng để bám vào cây khác, nọc tiêu, vách đá. Cành có ba loại cành: cành tược, cành lươn và cành ác (cành cho trái). Cành cho trái ngắn, mọc khúc khuỷu và lóng rất ngắn, đối với tiêu đang cho trái thì cành tược và cành lươn thường được cắt bỏ vì nó tiêu hao nhiều dinh dưỡng. Đối chiếu với lá là một cụm hoa hình đuôi sóc, khi chín sẽ rụng cả chùm. Hoa tiêu màu vàng xanh nhạt, không có bao hoa, hoa được đính trên gié hoa dài từ 7-10 cm, mỗi gié có từ 20-60 hoa tạo ra 20-30 quả. Trên cây tiêu đang ra hoa, nhi đực tung phấn trong vòng 10 ngày và hạt phấn sống được khoảng 2-3 ngày. Trái tiêu thuộc loại trái hạch không có cuống, mang một hạt dạng hình cầu, đường kính từ 4-8 mm. Trái tiêu lúc đầu có màu xanh lục, sau ngả vàng và khi chín có màu đỏ. Mỗi một quả có một hạt duy nhất. Thời gian từ khi xuất hiện hoa cho đến khi trái chín kéo dài khoảng 7-8 tháng. Đốt cây rất giòn, khi vận chuyển nếu không cẩn thận làm đứt đốt thì cây có thể chết. Hình 1.2 Cây hồ tiêu trưởng thành Hình 1.3 Gié Hình 1.4 Chùm tiêu còn non Hình 1.5 Quả tiêu chín 1.1.3. Một số giống tiêu phổ biến và điều kiện canh tác 1.1.3.1 Giống Giống tiêu lá cỡ trung bình Nguồn gốc có thể từ giống Lada Belangtoeng, giống này có nguồn gốc từ Indonesia và di thực vào Việt Nam từ năm 1947. Từ đó, giống nay mang nhiều tên địa phương khác nhau: Nam Vang, Phú Quốc, Lộc Ninh, Vĩnh Linh và nhiều tên gọi khác. Giống có cỡ hạt lớn trung bình, chiều dài chùm quả khoảng 11cm. Giống tiêu lá nhỏ (tiêu sẻ) Lá nhỏ, chùm quả ngắn, màu xanh của lá không đậm như giống tiêu Lada Belangtoeng, chiều dài chùm quả trung bình khoảng 8cm, hạt nhỏ hơn giống tiêu có lá cỡ trung bình. Giống có tên gọi theo địa phương như: tiêu sẻ Lộc Ninh, tiêu sẻ Đất Đỏ, tiêu sẻ Mỡ. Giống tiêu lá lớn (tiêu trâu) Lá lớn, chùm quả dài, hạt lớn nhưng năng suất không cao bằng hai giống tiêu kể trên. Giống tiêu Aán Độ Hiện nay giống này được ưa chuộng vì chùm quả dài, đóng hạt dày, năng suất cao, cho thu hoạch sớm. Hai loại chủ lực của giống tiêu này là Panniyur và Karimunda. Bảng 1.1. Vị trí một số giống tiêu được trồng phổ biến hiện nay Giống Vùng Giống địa phương Tiêu trung Tiêu trâu Vĩnh Linh Phú Quốc Lada Belangtoeng Aán Độ Đông Nam Bộ _Bình Phước _Bà Rịa Sẻ LN ++ Sẻ ĐĐ +++ ++ + _ + ++ ++ + + ++ + + ++ Miền trung _ Phú Yên _ Quảng Trị _ VL +++ _ _ + _ ++ +++ _ _ + + _ _ Tây Nguyên _ Daklak _ Gia Lai Sẻ Mỡ +++ Tiên Sơn + + ++ + + ++ ++ + _ + _ + _ (Nguồn: TS Nguyễn Tăng Tôn) LN: Lộc Ninh ĐĐ: Đất Đỏ VL: Vĩnh Linh 1.1.3.2 Điều kiện canh tác Cây tiêu trồng nhiều nhất ở vùng xích đạo và nhiệt đới trong vĩ độ 150N-150B nhưng cũng được trồng xa hơn như ở Quảng Trị (Việt Nam) với vĩ độ trên 170B. Nhiệt độ thích hợp cho tiêu 20-250C. Nhiệt độ cao hơn 400C và thấp hơn 100C đều ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của cây tiêu. Hồ tiêu yêu cầu lượng mưa cao từ 2.000-3.000 mm/năm, phân bổ đều trong 7-8 tháng và cần 3-5 tháng không mưa ở cuối giai đoạn thu hoạch để phân hóa mầm hoa tốt, ra hoa tập trung. Cây tiêu cần ẩm độ không khí từ 75-90 %. Tiêu ưa ánh sáng tán xạ do đó trong giai đoạn cây con cần che rợp cho tiêu, khi cây tiêu đã trưởng thành phát triển xum xuê thì xem như có thể che rợp cho nhau. Cần trồng cây chắn gió để bớt thoát hơi nước vào mùa khô và giảm thiệt hại do gió lốc, gió bão vào mùa mưa. Cây tiêu có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau như: đất sét pha cát (Hà Tiên, Phú Quốc), đất đỏ basalt (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), đất phù sa bồi (Đồng Bằng Sông Cửu Long), đất xám (Đông Nam Bộ)… và phát triển tốt nhất trên đất phì nhiêu, giàu hữu cơ, tơi xốp, thoát nước tốt. Giữ đất không bị ngập úng, mạch nước ngầm sâu hơn 70cm, tầng đất mặt sâu 80-100 cm, có cơ cấu xốp, thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình; pH đất thấp nhất 4,5, tốt nhất trong khoảng 5,5-7,0; độ cao so với mặt nước biển có thể lên tới 1.500m. Mật độ trồng thích hợp nhất của hồ tiêu là 2.000-2.500 nọc/ha. Độ dốc không quá 3%, đất dốc cần bố trí hàng tiêu theo đường đồng mức để giảm bớt rửa trôi dinh dưỡng và xói mòn đất. 1.1.4. Quy trình kỹ thuật trồng tiêu và chế biến 1.1.4.1 Chọn giống Nhằm chọn cây giống cĩ năng suất cao, chất lượng tốt, khơng nhiễm sâu bệnh hại Chọn hom giống: Cành tược (dây thân): tiêu trồng từ cành tược mau cho quả hơn, thường năm thứ 3 sau khi trồng, năng suất cao và tuổi thọ kéo dài từ 15-20 năm, tỉ lệ hom sống đạt cao (khoảng 90%). Cành lươn: tiêu trồng từ cành lươn cho quả chậm hơn và phải đơn tiêu, thường từ năm thứ 4 sau khi trồng. tuy vậy cây tiêu cho năng suất cao, ổn định và lâu già cỗi. Kỹ thuật hom giống: Lấy hom bánh tẻ, khơng quá non hoặc quá già, mỗi hom cĩ 4-6 đốt, thơng thường 5 đốt, khơng sử dụng đoạn hom cách ngọn 20-25 cm. Cắt hom tiêu vào mùa mưa, trên cây mẹ 1-2 năm tuổi. cắt chừa gốc một đoạn 40-50 cm và khơng làm tổn hại đến cây mẹ và hom giống, phần dưới của hom cắt xéo cách đốt cuối cùng khoảng 2 cm, cắt bỏ những lá ở đốt được vùi vào đất và chỉ để lại 2-3 lá để giảm bớt sự thốt hơi nước của hom. Hom tiêu cắt xong cần ươm ngay, nếu vận chuyển đi xa cần bĩ mỗi bĩ 50 hom, đặt trong thùng xốp, phun nước đều. Xử lý hom giống: Để hom tiêu mau ra rễ, trước khi giâm hom tiêu được ngâm trong dung dịch NAA nồng độ 500-1.000 ppm hoặc IBA nồng độ 50-55 ppm, nhúng ngập phần gốc 2-3 cm trong 30 phút, hoặc xử lý bằng dung dịch nước tiểu bị 25% cho kết quả tương tự IBA. Ươm hom: Sau khi xử lý hom cĩ thể ươm hom vào luống hoặc bầu Luống: cĩ chiều dài 5-6 m, rộng 1-1,2 m, đất trên luống cần trộn đều phân theo liều lượng 25-30 kg phân chuồng hoai + 0,5kg super lân cho 10m2 luống. ươm hom cách hom 15-20 cm, luống phải cĩ mái che, hệ thống phun sương để tạo độ ẩm thích hợp cho tiêu ra rễ. – Bầu: cĩ thể dùng bầu PE hoặc giỏ tre, bầu cĩ kích thước dài 23-25 cm, rộng 13-17 cm, bầu PE được đục 8-10 lỗ để dễ thốt nước. Đất vào bầu cĩ thành phần: 2 phần đất tơi xốp + 1 phân chuồng hoai, trọn đều 0,5kg phân super lân cho 200kg hỗn hợp đất và phân chuồng, mỗi bầu ươm 2 hom. 1.1.4.2 Chọn trụ làm chối tiêu Cĩ các loại trụ sau đây: Trụ sống: ở Đơng Nam Bộ cĩ keo dậu, lồng mức, gịn, giả anh đào hoặc cịn gọi là đỗ quyên trồng với khoảng cách 2,5 x 2,5 m hoặc 2,5 x 3,0 m, mật độ1.300-1.600 trụ/ha. Ngồi ra dây tiêu cịn tận dụng cho leo lên một số loại trụ khác như: muồng cườm, xà cừ, xồi, điều, bơ, mít nhưng ít phổ biến. ở duyên hải miền Trung: lồng mức, keo, dậu, mít trồng với khoảng cách 2,5 x 2,5 m hoặc 2,5 x 3,0 m, mật độ1.300-1.600 trụ/ha. Ngồi ra các cây như hoa sữa, núc nác, muồng, keo cũng cĩ thể làm “chối” tiêu song ít phổ biến. ở Tây Nguyên: keo dậu, giả anh đào, muồng đen, lồng mức trồng với khoảng cách 2,5 x 2,5 m hoặc 3,0 x 3,0 m, mật độ1.300-1.600 trụ/ha. Trụ sống thì sinh trưởng nhanh, khỏe, thân cứng, vỏ tương đối nhám để tiêu dễ bám. Bộ rễ ăn sâu để khơng cạnh tranh dinh dưỡng với cây tiêu. Ít lá hoặc tán thưa để khơng che ánh sáng của cây tiêu, cĩ khả năng chịu xén nhiều lần mà khơng chết. Ít sâu bệnh hoặc khơng phải là kí chủ của sâu bệnh hại tiêu, thơng thường chọn một số cây cĩ thể trồng bằng cành để kịp cho tiêu leo bám. Trụ gỗ: hiện nay các vùng cĩ diện tích tiêu trồng mới chỉ sử dụng trụ gỗ từ vườn tiêu già cỗi, khơng dùng trụ gỗ mới vì liên quan đến bảo vệ rừng, cần thay dần bằng trụ sống. Trụ bằng vật liệu khác: bồn gạch (đường kính gốc: 0,8-1 m, đường kính ngọn: 0,6-0,8 m, chiều cao: 3,2-3,5 m, khoảng cách: 3,0-3,0 m hoặc hơn tùy theo đường kính ở gốc bồn), trụ bê tơng (chiều rộng phần gốc từ 20-22 cm, chiều rộng phần ngọn từ 17-19 cm, chiều dài 4-4,5 m, khoảng cách 2,0-2,5 m). Vùng duyên hải miền Trung khơng nên trồng trụ gạch và trụ bê tơng, do khí hậu nắng nĩng và mưa nhiều, địa hình hẹp và dốc, lượng mưa lớn dễ gây xĩi mịn. Cần làm giàn che cho tiêu trồng mới, cĩ thể dùng lưới che cơng nghiệp, lá dừa, phên tre hoặc các vật liệu che chắn nhẹ. 1.1.4.3 Kỹ thuật trồng tiêu Thời vụ trồng tiêu Thời vụ trồng tùy thuộc vào điều kiện khí hậu của từng khu vực, thường trồng vào đầu mùa mưa, khi đã mưa đều và kết thúc trước mùa khơ khoảng 2-2,5 tháng. Bảng 1.2. Thời vụ trồng tiêu Vùng Tháng Đơng Nam Bộ Duyên hải miền Trung Tây Nguyên 6-8 9-10 5-8 Chọn đất trồng tiêu, làm đất đào hố và thiết kế lơ trồng Đất trồng tiêu cần tơi xốp, dễ thốt nước, khơng úng vào mùa mưa, độ dày tầng đất canh tác tối thiểu 70cm, pH của đất khoảng 5,5-7 là thích hợp cho cây tiêu Đất cần được cày bừa kỹ và xử lý mầm bệnh trước khi trồng, trên đất chua cần bĩn vơi trước khi bừa lần cuối, lượng vơi bĩn khoảng 1,5-2,0 tấn /ha đá vơi xay. Kích thước hố thường 30 x 30 x 40 cm cho hom đơn hoặc 40 x 40 x 40 cm cho hom đơi, mỗi hố bĩn khoảng 7-10 kg phân chuồng hoai + 200-300 g phân super lân, trộn đều với lớp đất mặt cho vào hố khoảng 20cm. Nên tiến hành đào hố và chọn phân lấp hố trước khi trồng ít nhất nửa tháng. Đất trồng tiêu cạnh những vườn tiêu bị bệnh nặng nên dùng Bordeaux 1% tưới trong và quanh hố. Vườn tiêu trên nền đất cĩ độ dốc nên đào hố theo đường đồng mức và bố trí theo hình răng sấu. Thiết kế hệ thống tiêu nước và trồng trụ tiêu cùng lúc, khoảng 10-15 m đào một rảnh thốt nước vuơng gĩc với hướng thốt nước chính, rãnh sâu 15-20 cm, rộng 20cm, giữa hai hàng trụ tiêu. Dọc theo hướng dốc chính, khoảng 30-40 m thiết kế một mương sâu 30-40 cm, rộng 40cm, giữa hai hàng trụ tiêu, mương thẳng gĩc với rãnh thốt nước. Đặt hom và buộc dây Khi đặt hom tiêu vào hố cần chú ý: Xé bỏ bầu PE, tránh làm vỡ bầu, sau đĩ lấp đất và nén chặt gốc. Hom đặt nghiêng 30-450 hướng về phía trụ tiêu, nên đặt hom về hướng Đơng. Số hom trên một trụ: 2 hom/trụ cho gạch sống hoặc trụ bê tơng và 5-6 hom/trụ cho gạch xây. Sau khi dây tiêu đã phát triển vươn tới trụ nên dùng các loại dây mềm (dây nilon) để buộc dây tiêu vào cây trụ, buộc vào vị trí ở gần đốt của dây để rễ dễ bám vào trụ, sau khi rễ đã bám vào trụ cần cắt bỏ dây buộc. Đơn tiêu Tiêu trồng bằng dây lươn cây sẽ cho nhiều dây thân, cắt bỏ các dây yếu, chỉ để lại 3-4 dây khỏe trên một gốc dây lươn. Sau 12-15 tháng, các dây tiêu đạt 1,2-1,5 m, bắt đầu cho cành mang quả, khi phần lớn các dây trên trụ đều cho cành mang quả cần tiến hành đơn tiêu: Xới đất quanh trụ tiêu thành rãnh sâu 7-10 cm, cách trụ 15-20 cm, chọn 3-4 dây tiêu khỏe, cắt hết lá dưới cành mang quả đầu tiên 30-40 cm, khoanh trịn trong rãnh sao cho cành mang quả thấp nhất cách mặt đất 30-40 cm, lấp một lớp đất mỏng 5-7 cm, tưới nước, khi thấy rễ nhú ra từ các đốt đơn dưới đất cần lấp thêm 3-5 cm đất trộn phân hữu cơ. Tỉa cành, tạo tán cây trụ sống và cây tiêu trong thời kì kinh doanh Khi cây trụ sống đã lớn, cần rong tỉa bớt cành lá để tiêu nhận đủ ánh sáng, mỗi năm rong tỉa vài lần trong mùa mưa. Sau khi thu hoạch tiêu, đến mùa mưa cần tỉa bớt những cành tược, cành lươn mọc ra từ gốc tiêu và cành tược mọc ngồi khung thân chính, việc tỉa cành nên tiến hành vào đầu mùa mưa để tạo dinh dưỡng cho những vụ tiếp theo. Ở một số vườn tiêu cĩ hiện tượng hoa nở rải rác khơng đúng thời vụ nên cắt bỏ hoa này để tập trung cho hoa ra hàng loạt và quả chín tập trung. Làm bồn, bĩn phân và chăm sĩc Làm bồn Tạo bồn cho cây tiêu nhằm mục đích giữ phân khi bĩn trong mùa mưa và giữ nước trong mùa khơ. Ở vùng đất dốc kĩ thuật làm bồn rất quan trọng, chỉ cần làm bồn cạn để dễ tiêu nước trong mùa mưa. Bĩn phân Phân hữu cơ: Bảng 1.3. Lượng phân hữu cơ bĩn cho hồ tiêu Phân Năm Phân chuồng, rác mục (kg/trụ/năm) Phân hữu cơ chế biến (kg/trụ/năm) Trồng mới Năm thứ 2-3 Từ năm thứ 4 trở đi 7-10 10-15 15 1-2 2-3 3-5 Phân vơ cơ Bảng 1.4. Lượng phân vơ cơ bĩn cho cây hồ tiêu Phân Năm N (kg/ha/năm) P205 (kg/ha/năm) K2O (kg/ha/năm) Trồng mới Năm thứ 2-3 Từ năm thứ 4 trở đi 90-100 150-200 250-350 50-60 80-100 150-200 70-90 100-150 150-250 Thời gian bĩn Phân hữu cơ: bĩn 1 lần/năm, nên bĩn vào đầu mùa mư