Vấn đề: Khảo sát giá trị của men tim Troponin I và CK-MB trong chẩn đoán NMCT cấp sau phẫu thuật
ngoài tim.
Mục tiêu: Xác định tần suất biến chứng tim và khảo sát giá trị của Troponin I và CK-MB trong chẩn đoán
NMCT cấp sau phẫu thuật ngoài tim.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca phẫu thuật lớn ngoài tim trên 56 BN có ít nhất
một yếu tố nguy cơ biến chứng tim, tại bệnh viện 115 trong thời gian 2005-2006. Ghi nhận biến chứng tim và
xét nghiệm Troponin I và CK-MB trước mổ - sau mổ 6 giờ - 24 giờ - 48 giờ.
Kết quả: Tần suất thiếu máu cơ tim sau mổ là 7.1% và NMCT cấp sau mổ là 5.4%. Trong chẩn đoán
NMCT sau mổ, Troponin I có độ nhạy 100% - độ đặc hiệu 100% và tăng từ 24 giờ sau mổ, CK-MB có độ nhạy
100% - độ đặc hiệu 32.1% và tăng từ 6 giờ sau mổ.
Kết luận: Trong chẩn đoán NMCT cấp sau phẫu thuật ngoài tim, Troponin I có giá trị tốt và CK-MB có giá
trị định hướng sớm.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát giá trị Troponin I và CK-MB trong tầm soát nhồi máu cơ tim cấp sau phẫu thuật ngoài tim, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 101
KHẢO SÁT GIÁ TRỊ TROPONIN I VÀ CK-MB TRONG TẦM SOÁT NHỒI
MÁU CƠ TIM CẤP SAU PHẪU THUẬT NGOÀI TIM
Nguyễn Thị Thanh*, Châu Thị Mỹ An*, Trần Phương Vi*, Nguyễn Ngọc Anh**
TÓM TẮT
Vấn đề: Khảo sát giá trị của men tim Troponin I và CK-MB trong chẩn đoán NMCT cấp sau phẫu thuật
ngoài tim.
Mục tiêu: Xác định tần suất biến chứng tim và khảo sát giá trị của Troponin I và CK-MB trong chẩn đoán
NMCT cấp sau phẫu thuật ngoài tim.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca phẫu thuật lớn ngoài tim trên 56 BN có ít nhất
một yếu tố nguy cơ biến chứng tim, tại bệnh viện 115 trong thời gian 2005-2006. Ghi nhận biến chứng tim và
xét nghiệm Troponin I và CK-MB trước mổ - sau mổ 6 giờ - 24 giờ - 48 giờ.
Kết quả: Tần suất thiếu máu cơ tim sau mổ là 7.1% và NMCT cấp sau mổ là 5.4%. Trong chẩn đoán
NMCT sau mổ, Troponin I có độ nhạy 100% - độ đặc hiệu 100% và tăng từ 24 giờ sau mổ, CK-MB có độ nhạy
100% - độ đặc hiệu 32.1% và tăng từ 6 giờ sau mổ.
Kết luận: Trong chẩn đoán NMCT cấp sau phẫu thuật ngoài tim, Troponin I có giá trị tốt và CK-MB có giá
trị định hướng sớm.
Từ khoá: thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, phẫu thuật ngoài tim, biến chứng tim
ABSTRACT
TROPONIN I AND CK-MB IN DIAGNOSIS OF MYOCARDIAL INFARCTION AFTER NON-CARDIAC
SURGERIES
Nguyen Thi Thanh, Chau Thi My An, Tran Phuong Vi, Nguyen Ngoc Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 101 - 107
Background: Troponin and CK-MB have good values to detect myocardial necrosis in internal medicine
and after cardio-vascular surgeries. Myocardial infarction is the main cause of non-cardiac postoperative
mortality, but diagnosis often meet with difficulties.
Objectives: to determine the incidences of cardiac complications and the value of Troponin I and CK-MB in
diagnosis of myocardial infarction after non-cardiac surgeries.
Methods: case-series of 56 patients with at least 1 risk factor for cardiac complications undergoing non-
cardiac surgeries, at 115 hospital during 2005 – 2006. Studied variables are post operative cardiac complications,
Troponin I and CK-MB levels preoperation – 6th hour – 24th hour – 48th hour postoperation.
Results: incidences of postoperative myocardial ischemia and infarction are 7.1% and 5.4%. In diagnosis of
postoperative myocardial infarction, Troponin I increases from the 24th hour and has sensitivity 100% –
specificity 100%; CK-MB increases from the 6th hour and has sensitivity 100% – specificity 32.1%.
Conclusions: Troponin is stronger and CK-MB has value of early orientation in diagnosis of postoperative
myocardial infarction after non-cardiac surgeries.
Key words: myocardial ischemia, myocardial infarction, non-cardiac surgery, cardiac complications
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, ** Bệnh viện Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: TS BS Nguyễn Thị Thanh, ĐT: 0918578857, Email: nguyenthithanh@pnt.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 102
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hướng dẫn đồng thuận của WHO năm 2000
đã đưa ra định nghĩa mới về NMCT dựa vào
việc dùng men tim troponine I và T. Troponin I
và T có dạng chuyên biệt trong cơ tim cho phép
phát triển kỹ thuật tìm kháng thể đơn dòng của
men tim troponin I và T.
Trên thế giới và tại Việt Nam, nhiều nghiên
cứu đã dùng men tim troponine để chẩn đoán
NMCT trong nội khoa. Trong lãnh vực ngoại
khoa, các tác giả dùng men tim troponine I và T
để phát hiện hoại tử cơ tim sau phẫu thuật tim
và phẫu thuật mạch máu và ghi nhận đây là một
chỉ số nhạy cảm và chuyên biệt cao để chẩn
đoán NMCT sau mổ. Tuy nhiên, chưa có công
trình nghiên cứu nào khảo sát giá trị của
troponine I và T trong việc chẩn đoán hoại tử cơ
tim trong phẫu thuật ngoài tim.
NMCT chu phẫu là nguyên nhân tử vong
chính sau phẫu thuật lớn ngoài tim. Chẩn đoán
NMCT sau mổ theo tiêu chuẩn của WHO gặp
khó khăn vì 75 % BN bị NMCT im lặng hay triệu
chứng không điển hình. Thay đổi điện tim và tỉ
lệ CPK/CK-MB sau mổ rất khó biện luận. Men
tim troponine I và T là các chỉ điểm nhạy cảm và
chuyên biệt hơn của hoại tử cơ tim nhưng chưa
được dùng rộng rãi.
Để nâng cao chất lượng chăm sóc và điều trị
BN giúp giảm tỉ lệ biến chứng và tử vong,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này, phối hợp
với Bệnh viện 115, nhằm khảo sát tỉ lệ biến
chứng NMCT sau mổ các phẫu thuật lớn ngoài
tim và so sánh mối liên quan giữa men tim
troponine I và tỉ lệ creatin kinase để phát hiện
tổn thương hoại tử cơ tim sau mổ.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ biến chứng tim sau phẫu thuật
ngoài tim: NMCT cấp, thiếu máu cơ tim, suy
tim, loạn nhịp tim, ngưng tim, rung thất, tử
vong do tim.
Khảo sát giá trị của troponin I và CK-MB để
chẩn đoán NMCT cấp sau phẫu thuật ngoài tim.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
BN mổ chương trình tại Bệnh viện 115 trong
các phẫu thuật lớn (phẫu thuật mạch máu, lồng
ngực, ổ bụng, tiền liệt tuyến, chấn thương chỉnh
hình, cột sống), có ít nhất một yếu tố nguy cơ bị
biến chứng tim: tuổi > 70, tiểu đường, suy thận
creatinine > 2 mg/dL, có bệnh mạch vành (tiền
căn NMCT, tiền căn đau ngực), suy tim ứ huyết,
tiền căn tai biến mạch máu não.
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu
Cỡ mẫu
50 BN
Thu thập số liệu
Định lượng troponine I trước mổ, giờ thứ 6,
24 và 48 sau mổ. Đo CPK và CK-MB khi
troponine I dương tính.
Địa điểm, thời gian
Bệnh viện 115, tháng 3/ 2005 – tháng 6/ 2006
KẾT QUẢ
Đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu gồm 56 BN, trong đó:
Giới
26 nam (46.4%) và 30 nữ (53.6%).
Tuổi
Trung bình 73 ± 9 tuổi, nhỏ nhất 49 tuổi, lớn
nhất 89 tuổi
≤ 70 tuổi 13 (23.2%)
> 70 - < 80 tuổi 32 (57.1%)
80 tuổi 12 (21.4%)
BMI: < 18 19 (33.9%)
18 - < 25 33 (58.9%)
25- 30 4 (7.1%)
ASA: II 28 (50%)
III 26 (46.4%)
IV 2 (3.6%)
MET: < 4 45 (80.4%)
≥ 4 11 (19.6%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 103
Đặc điểm cận lâm sàng
ECG: TMCT 14 (25.0%)
Rối loạn nhịp 3 (5.4%)
NMCT cũ 4 (7.1 %)
Siêu âm tim: Vô động, loạn động 4 (8.2%)
Bệnh van tim nặng 2 (4.1%)
EF ≥ 60 % 48 (98%)
EF 35 – 59 % 1 (2%)
NPGS: Dương tính 1 (1.8%)
¼ BN có dấu hiệu thiếu máu cơ tim. 8.2% có
rối loạn vận động vách tim nặng và 4.1% có
bệnh van tim nặng. 1.8% BN có NPGS dương
tính.
Phân loại phẫu thuật theo nguy cơ biến
chứng tim
Phẫu thuật chương trình: 44 (78.6%)
Phẫu thuật khẩn: 12 (21.4%)
Phẫu thuật nguy cơ cao: 46.4%
Phẫu thuật nguy cơ trung bình: 46.4%
Phẫu thuật nguy cơ thấp: 7.2%
Đa số BN phẫu thuật chương trình có chuẩn
bị, nhưng gần ½ BN thuộc nhóm phẫu thuật
nguy cơ tim mạch cao.
Phân loại nguy cơ tim
Biểu đồ 1: Phân loại nguy cơ tim theo ACC/AHA
Đa số BN có nguy cơ tim mạch trung bình,
3.6% có nguy cơ nghiêm trọng do có bệnh van
tim nặng.
Bệnh tim thiếu máu cục bộ là yếu tố nguy cơ
lâm sàng thường gặp, sau nguy cơ do loại phẫu
thuật.
Thiếu máu cơ tim là biến chứng thường gặp
nhất, trong đó có 3 BN diễn tiến thành NMCT
(5,4%), dẫn đến 2 BN suy tim cấp.
Biểu đồ 2: Yếu tố nguy cơ biến chứng tim theo chỉ số
nguy cơ cải tiến của Lee
Biến chứng tim sau mổ
Biểu đồ 3: Biến chứng tim sau mổ
Bảng 1: Tỉ lệ thiếu máu cơ tim và NMCT theo chỉ
số nguy cơ cải tiến:
Số yếu tố
nguy cơ
Số BN TMCT NMCT
0 9 (16.1%) 0 0
1 21(37.5%) 1 (4.8%) 0
2 21(37.5%) 3 (14.3%) 2 (9.5%)
3 5(8.9%) 1 (20%) 1 (20%)
Gần 1/2 BN có trên 1 yếu tố nguy cơ tim
mạch. Nguy cơ thiếu máu cơ tim và NMCT cấp
sau mổ tăng dần theo số yếu tố nguy cơ biến
chứng tim.
Giá trị các thử nghiệm men tim trong chẩn
đoán NMCT sau mổ
Troponin I
Tất cả các BN có troponin I bình thường
trước mổ, 5.4% BN tăng troponin I từ thời điểm
24 giờ sau mổ (biểu đồ 4).
5.4%
8.9%
3.6%
8.9%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 104
Biểu đồ 4: Kết quả troponin I tại các thời điểm chu
phẫu
Biểu đồ 5: Kết quả troponin I của các BN NMCT.
Các BN tăng troponin I từ thời điểm 24 giờ sau mổ
Bảng 2: Giá trị troponin I trong chẩn đoán NMCT
cấp sau mổ:
NHỒI MÁU CƠ TIM
Tổng
+ -
Troponin I
+ 3 0 0
- 0 53 53
Tổng 3 53 56
Độ nhạy = 3/3 = 100%; Độ đặc hiệu = 53/53
= 100%.
CK-MB
Có 30,4% BN tăng CK-MB trước mổ và
69.6% BN tăng CK-MB sau mổ, đa số tăng vào
thời điểm 6 giờ sau khởi mê và sau đó giảm dần
(Biểu đồ 6). Trong số 3 BN NMCT sau mổ, có 2
BN đã tăng CK-MB từ trước mổ và 1 BN tăng
CK-MB từ thời điểm 6 giờ sau mổ (Biểu đồ 7).
Biểu đồ 6: Kết quả CK-MB tại các thời điểm chu
phẫu
Biểu đồ 7: Kết quả CK-MB của các BN NMCT
Bảng 3: Giá trị CK-MB trong chẩn đoán NMCT cấp
sau mổ:
NHỒI MÁU CƠ TIM
Tổng
+ -
CK-MB
+ 3 36 39
- 0 17 17
Tổng 3 53 56
Độ nhạy = 3/3 = 100%; Độ đặc hiệu = 17/53 = 32.1%
BÀN LUẬN
Biến chứng tim sau mổ
Chúng tôi đã phân tích 56 BN được phẫu
thuật ngoài tim tại bệnh viện Nhân dân 115.
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi tương đối đồng
nhất. Tỉ lệ BN nam và nữ gần bằng nhau. Trong
đó hơn 2/3 BN trên 70 tuổi, đặc biệt có hơn 1/5
BN ≥ 80 tuổi là lứa tuổi mang nhiều nguy cơ cao
trong và sau phẫu thuật, số còn lại dưới 70 tuổi
nhưng có những bệnh nội khoa là yếu tố nguy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 105
cơ tim mạch. Về dinh dưỡng, có 1/3 số BN suy
dinh dưỡng và không có BN béo phì. Theo phân
loại ASA, một nửa BN xếp loại III và IV là nhóm
có nguy cơ tử vong cao trong và sau phẫu thuật.
Về đánh giá chức năng vận động theo MET, đa
số BN thuộc phân độ < 4, tức là chỉ tự ăn uống,
đi lại và làm việc nhẹ trong nhà. Khi khảo sát
các cận lâm sàng chuyên biệt về tim mạch cho
BN trước mổ, chúng tôi nhận thấy 1/3 số BN có
bất thường điện tâm đồ trước mổ ở dạng
thường gặp nhất là thiếu máu cơ tim (25%),
NMCT cũ (7,1%) và các dạng khác như ngoại
tâm thu thất, rung nhĩ, bloc nhĩ thất, bloc
nhánh Siêu âm tim được thực hiện ở đa số BN
(49 BN), trong đó 8,2% có rối loạn vận động
vách tim nặng và 4,1% có bệnh van tim nặng, số
BN không được siêu âm tim trước mổ là những
BN mổ cấp cứu không đủ thời gian để chuẩn bị.
Nghiệm pháp gắng sức chỉ được thực hiện trên
2 BN và có 1 BN dương tính.
Phân tích cách phân tầng nguy cơ tim mạch
theo Chỉ số nguy cơ tim cải tiến của Lee, chúng
tôi nhận thấy hơn ½ BN có trên 1 yếu tố nguy
cơ. Theo chỉ số nguy cơ biến chứng tim do phẫu
thuật nhóm nghiên cứu của chúng tôi có gần 1/2
số BN thuộc nhóm phẫu thuật nguy cơ tim
mạch cao, số còn lại có nguy cơ trung bình và ít
BN thuộc nhóm nguy cơ thấp (phân loại dựa
trên thời gian mổ dự kiến, độ xâm lấn, mức độ
chảy máu, tính chất khẩn). Ngoài nguy cơ
biến chứng tim do phẫu thuật, thiếu máu cục bộ
cơ tim là nguy cơ lâm sàng thường găp nhất
(37,5%) trong tất cả BN. Theo phân loại của Hội
Tim mạch Hoa Kỳ ACC/AHA, đa số BN trong
mẫu nghiên cứu thuộc nhóm nguy cơ tim mạch
trung bình và nghiêm trọng, đặc biệt 3.6% BN có
nguy cơ tim mạch nghiêm trọng do có bệnh van
tim nặng. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy cao
huyết cũng rất thường gặp (2/3 số BN), nhưng
hơn 1/2 số BN đó không điều trị thuốc tim mạch
trước mổ, các BN có điều trị thuốc tim mạch thì
phần lớn cũng điều trị không thường xuyên,
thậm chí không rõ loại thuốc mình uống. Điều
này cho thấy sự phát hiện và tuân thủ điều trị
của BN trước mổ chưa được thực hiện tốt, ảnh
hưởng đến việc kiểm soát các bệnh lý nội khoa
và tiên lượng BN.
Y văn đã thống kê biến chứng tim mạch
quan trọng nhất sau gây mê và phẫu thuật là
TMCT dẫn đến tổn thương cơ tim và là nguyên
nhân chính của biến chứng và tử vong sau mổ(4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, TMCT cũng là
biến chứng thường gặp nhất sau mổ (7.1%),
chưa kể 37.5% BN đã có TMCT từ trước mổ,
trong đó có 3 BN diễn tiến thành NMCT (5.4%),
sau đó 2 BN diễn tiến suy tim cấp với EF < 30%.
Các BN có biến chứng TMCT và NMCT trong
nghiên cứu của chúng tôi đều có từ 1 đến 3 yếu
tố nguy cơ tim mạch và mổ các loại phẫu thuật
lớn. Đặc biệt là tỉ lệ TMCT và NMCT cấp sau
mổ tăng dần theo số yếu tố nguy cơ biến chứng
tim. Điều này cho thấy việc đánh giá nguy cơ
tim mạch trước mổ có vai trò quan trọng để
phân loại BN, chuẩn bị BN tốt hơn và phòng
ngừa biến chứng sau mổ. Ngoài ra, có 3 BN
viêm phổi gây suy hô hấp, trong đó có 1 BN tử
vong do bệnh phổi.
TMCT và NMCT cấp sau mổ thường xảy ra
ở giai đoạn tỉnh mê sau mổ, đây là giai đoạn có
những rối loạn do đau, hạ thân nhiệt, thiếu oxy,
tăng hoạt động giao cảm, tăng hoạt động đông
máu và thường khó phát hiện bằng triệu
chứng lâm sàng. Trong số 3 BN NMCT trong
nghiên cứu này thì có 2 BN tỉnh và không có
triệu chứng đau ngực rõ ràng, còn 1 BN hôn mê
nên cũng không thể phát hiện được đau ngực.
Landesberg ghi nhận >80% - 90% trường hợp
NMCT cấp sau mổ là không triệu chứng hoặc
triệu chứng không điển hình, nên có thể không
được phát hiện trừ khi theo dõi liên tục điện tâm
đồ và xét nghiệm định kỳ men tim. Theo
Landesberg, gần 1/3 BN có TMCT không được
phát hiện hay không được điều trị, tình trạng
TMCT có thể kéo dài > 100 phút(9). Đây là một
khó khăn cho việc chẩn đoán tổn thương cơ tim
sau mổ.
Dựa trên ECG, các BN TMCT sau mổ có dấu
hiệu thay đổi đoạn ST-T khá sớm, giúp định
hướng các xét nghiệm men tim để chẩn đoán
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 106
NMCT. Tuy nhiên, thay đổi ST trên điện tâm đồ
ở BN sau mổ không chỉ báo hiệu cho tình trạng
TMCT, mà còn có thể do thay đổi thân nhiệt,
tình trạng tăng thông khí, rối loạn điện giải hoặc
do thay đổi tư thế Do đó theo dõi điện tâm đồ
ở BN sau mổ chủ yếu chỉ có ý nghĩa định hướng
chẩn đoán. Theo nhiều nghiên cứu, trong các
trường hợp NMCT cấp sau mổ, ST thường
chênh xuống hơn chênh lên, dẫn đến NMCT
không sóng Q 60 – 100%(6). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, các trường hợp NMCT cấp sau
mổ cũng thuộc dạng ST chênh xuống. Hơn nữa,
dạng NMCT có sóng Q ở BN sau mổ khác với
BN nội khoa là không thể hiện NMCT xuyên
thành mà thể hiện kích thước ổ nhồi máu(12).
Qua những đặc điểm trên, chúng tôi nhận
thấy giai đoạn sớm sau mổ, nhất là lúc tỉnh mê
là thời điểm rất quan trọng trong việc phòng
ngừa và phát hiện biến chứng tim. Trong giai
đoạn này cần sự theo dõi sát, điều chỉnh các rối
loạn dù rất ít vì có thể đó là nguyên nhân bắt
đầu sự mất cân bằng, gây các biến chứng tim
nặng.
Giá trị các xét nghiệm chẩn đoán nhồi máu
cơ tim
Xét nghiệm CK-MB cho kết quả sớm, CK-
MB tăng trong máu từ 4 ± 6 giờ sau tổn thương,
tăng cực đỉnh sau 12 ± 24 giờ và trở về bình
thường sau 48 ± 72 giờ. Độ đặc hiệu của CK-MB
trong chẩn đoán NMCT cấp nội khoa gần 100%.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, CK-
MB có độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 32.1% là rất
thấp, cho thấy sự không đặc hiệu của CK-MB
trong NMCT ở BN sau phẫu thuật. Có 30.4% BN
tăng CK-MB từ trước mổ và 69.6% BN tăng CK-
MB sau mổ, trong đó đa số tăng vào thời điểm 6
giờ sau mổ và sau đó giảm dần. Sự tăng tỉ lệ CK-
MB ở các BN này có thể do chấn thương phẫu
thuật làm phóng thích số lượng lớn từ cơ vân
hoặc từ não(2).
Troponin I là xét nghiệm được chọn trong
hội chứng mạch vành cấp, vì độ nhạy và độ đặc
hiệu cao hơn so với các xét nghiệm khác. Giống
như CK-MB, troponin I bắt đầu tăng trong máu
4 – 6 giờ sau tổn thương, tăng cao nhất vào 18 –
24 giờ, tương ứng với thời điểm khởi phát
TMCT kéo dài xảy ra ngay sau khi mổ xong,
nhưng troponin tồn tại trong máu vài ngày sau.
Thử nghiệm troponin I trong nghiên cứu của
chúng tôi có độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 100%.
Trong số 3 BN có troponin I tăng, thời điểm tăng
troponin I có ý nghĩa là H = 24 giờ. Tỉ lệ này
tương đương với nghiên cứu của Landesberg là
5.6% ở BN phẫu thuật tổng quát, và 6.5% ở BN
phẫu thuật mạch máu và thường xảy ra vào
ngày 1 ± 4 sau phẫu thuật(11).
Giá trị troponin không phản ánh cơ chế của
tổn thương tim, nhưng độ tăng troponin tỉ lệ với
khối lượng cơ tim bị tổn thương, và được coi là
yếu tố tiên lượng của tử vong hậu phẫu và dài
hạn, dù troponin chỉ tăng rất ít(10). Tỉ lệ tử vong
sau 1 năm tăng gấp 15 lần trên các BN lớn tuổi
có troponin tăng sau mổ ngoài tim(4). Landesberg
cho thấy tỉ lệ tử vong dài hạn gấp 2 lần, và
NMCT sau mổ làm tăng biến cố tim mạch dài
hạn nói chung gấp 20 lần(8). Nhiều nghiên cứu
kết luận biến cố tim sau phẫu thuật do ảnh
hưởng của các yếu tố hậu phẫu gây TMCT
nhiều hơn do tình trạng tim mạch trước mổ của
BN(3).
Theo dõi động học của troponin I và CK-
MB, chúng tôi không thấy được mối liên quan
giữa 2 yếu tố này. Điều này cho thấy không thể
sử dụng riêng biệt CK-MB để chấn đoán NMCT
trong trường hợp sau phẫu thuật, mặc dù thử
nghiệm này hiện nay vẫn còn giá trị đối với các
BN nội khoa(7). Tuy nhiên, troponin thường tồn
tại trong máu một thời gian khá dài sau nhồi
máu, nên CK-MB vẫn có giá trị tốt hơn troponin
I trong chẩn đoán tái NMCT(5).
Nguyên nhân và bệnh học NMCT sau phẫu
thuật chưa được biết rõ nhưng nhiều tác giả cho
rằng cơ chế khác NMCT nội khoa do bong
mảng xơ vữa mạch vành3. Cơ chế bong mảng xơ
vữa mạch vành chỉ đúng với khoảng 50%
trường hợp NMCT cấp sau mổ, do kích thích
đông máu và kháng ly giải fibrine do phẫu
thuật, 50% còn lại là do hậu quả của sự mất cân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 107
bằng cung – cầu oxy của cơ tim, thường xảy ra ở
những BN có bệnh mạch vành im lặng. Tăng
troponin xảy ra trong và ngay sau khi TMCT
kéo dài với ST chênh xuống mà không chuyển
thành chênh lên, nên NMCT sau mổ thường do
TMCT vì đả kích kéo dài chứ không phải do
mảng xơ vữa. Tổng thời gian các giai đoạn mất
cân bằng oxy ngắn sẽ tạo thành tác dụng cộng
và hậu quả cuối cùng là hoại tử cơ tim. Giai
đoạn thường gây mất cân bằng cung – cầu oxy
là cuối cuộc phẫu thuật và lúc tỉnh mê, do tăng
hoạt động giao cảm gây tăng nhịp tim, tăng
huyết áp, tăng co bóp cơ tim, co mạch vành,
tăng đông máu(8, 9).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng
TMCT cũng thường xảy ra vào giai đoạn tỉnh
mê, và tiến triển NMCT trong 24 – 48 giờ đầu
sau mổ. Điều này đặt ra vấn đề cần thiết là theo
dõi sát BN trong 48 giờ đầu, phòng ngừa tích
cực các rối loạn để hạn chế xảy ra các biến
chứng tim mạch.
Với tỉ lệ thấp BN NMCT sau mổ ngoài tim,
số lượng BN ít, nên chúng tôi không thể phân
tích tìm các yếu tố liên quan hay nguy cơ của
biến chứng này. Theo các nghiên cứu trước đây,
NMCT sau mổ liên quan với tình trạng thiếu
máu, hạ thân nhiệt và đau sau mổ. Các yếu tố
này kích hoạt trương lực giao cảm và gây tác hại
lên chức năng tim mạch và đông máu. Kết quả
là làm tăng tiêu thụ oxy của cơ tim trong tình
huống thiếu hụt cung cấp(10). Vì vậy việc phòng
tránh và điều trị các rối loạn sau mổ là rất quan
trọng và cần thiết để phòng ngừa các biến
chứng nặng ảnh hưởng đến tiên lượng của BN.
KẾT LUẬN
TMCT và NMCT cấp sau mổ là biến chứng
tim quan trọng sau phẫu thuật ngoài tim,
thường xảy ra ở các BN có nhiều yếu tố nguy cơ
tim mạch, trong vòng 24 – 48 giờ sau mổ. Triệu
chứng lâm sàng thường im lặng, khó phát hiện
và có ST chênh xuống trên ECG.
Thử nghiệm troponin I có giá trị tốt nhất
trong chẩn đoán NMCT cấp sau mổ, thời điểm
tăng troponin I có ý nghĩa là 24 giờ sau mổ. CK-
MB có giá trị định hướng chẩn đoán. CK-MB có
tính đặc hiệu không cao nên không thể dùng
riêng lẻ để chẩn đoán NMCT cấp sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Braunwald E, Antman EM, Beasley JW, et al. (2002). ACC/AHA
guideline update for the management of patients with unstable
angina and non-ST segme