So v ới đo bằng siêu âm, máy Orbscan đánh giá độ dày giác mạc cao
hơn trước mổ và ngược lại thấp hơn sau mổ. Sự khác biệt này thay đổi có
tương qu an với độ dày giác mạc. Giảm bán kính mặt cầu thích hợp nhất, tăng
độ cao trung tâm giác mạc so với trước mổ. Độ chênh mặt sau giác mạc so với
trước mổ trung bình 57,0µm, 45,25µm và 42,14µm sau m ổ 1 tuần, 1 tháng và 3
tháng. Hai y ếu tố liên quan đến độ chênh mặt sau giác mạc sau mổ là: Độ dày
giác mạc sau mổ l à yếu tố quan trọng nhất có tương quan nghịch v à độ dày giác
mạc trước mổ có tương quan thuận với với độ chênh.
27 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khảo sát sự thay đổi độ cong mặt sau giác mạc sau mổ cận thị bằng phương pháp Lasik, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHẢO SÁT SỰ THAY ĐỔI ĐỘ CONG MẶT SAU GIÁC MẠC SAU
MỔ CẬN THỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP LASIK
TÓM TẮT
Mục tiêu: Sử dụng máy Orbscsan II để khảo sát sự thay đổi độ cong mặt sau
giác mạc sau mổ cận thị bằng phương pháp Lasik và các yếu tố ảnh hưởng.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu 127 mắt được phẫu thuật Lasik tại Bệnh
viện Mắt TP.HCM từ tháng 6/2007 đến 5/2008.
Kết quả: So với đo bằng siêu âm, máy Orbscan đánh giá độ dày giác mạc cao
hơn trước mổ và ngược lại thấp hơn sau mổ. Sự khác biệt này thay đổi có
tương quan với độ dày giác mạc. Giảm bán kính mặt cầu thích hợp nhất, tăng
độ cao trung tâm giác mạc so với trước mổ. Độ chênh mặt sau giác mạc so với
trước mổ trung bình 57,0µm, 45,25µm và 42,14µm sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3
tháng. Hai yếu tố liên quan đến độ chênh mặt sau giác mạc sau mổ là: Độ dày
giác mạc sau mổ là yếu tố quan trọng nhất có tương quan nghịch và độ dày giác
mạc trước mổ có tương quan thuận với với độ chênh.
Kết luận: Sự thay đổi mặt sau giác mạc có tương quan với độ dày giác mạc
trước và sau mổ. Tuy nhiên, độ dày giác mạc đo máy Orbscan có khác biệt với
đo bằng siêu âm. Chúng tôi cho rằng sự thay đổi mặt sau giác mạc sau mổ là
hiện tương giả tạo do máy Orbscan.
ABSTRACT
POSTERIOR CORNEAL CURVATURE CHANGES AFTER LASIK FOR
TREAMENT MYOPIA
Tran Mong Linh, Tran Anh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 –
Supplement of No 1 - 2009: 97 - 105
Objective: Using Orbscan II to investigate posterior corneal curvature changes
after myopic laser in situ keratomileusis.
Method: Prospective study. Laser in situ keratomileusis was performed in 127
eyes of 65 patients at HCMC eye hospital from June 2007 to May 2008.
Results: Orbscan II overestimated in corneal thickness before surgery and
underestimated in corneal thickness after surgery in comparison with
ultrasound pachymetry. These differences correlated with the corneal thickness.
Best fit sphere radius decreased and posterior central corneal elevation
increased after surgery. The average amount of posterior forward shift were
57.0µm, 45.25µm and 42.14µm at a week, a month and three months after
surgery. There were two factors related to the amount of posterior corneal
forward shift after LASIK. Posterior central corneal thickness was the most
important factor (negative correlation) and anterior central corneal thickness
was the second factor (positive correlation). The residual corneal bed thickness
was not relevant to the forward shift of the cornea.
Conclusion: The posterior corneal curvature changes after Myopic Laser In
Situ Keratomileusis correlated with preoperative and postoperative corneal
thickness. However, there was a difference in measurement of corneal
thickness between Orbscan II and Ultrasound pachymeter. We suggest that the
posterior corneal curvature changes after LASIK may be an artifact caused by
error of Orbscan II pachymetry.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, phẫu thuật điều chỉnh cận thị bằng phương pháp LASIK (Laser In
Situ Keratomileusis) đã trở nên phổ biến vì tính hiệu quả và an toàn của nó.
Tuy nhiên, cho đến nay người ta vẫn chưa biết rõ những thay đổi về mô học và
hình thể của giác mạc cũng như sự ảnh hưởng của những thay đổi này lên kết
quả sau phẫu thuật.
Sử dụng máy Orbscan đánh giá mặt sau giác mạc, nhiều tác giả nhận thấy giảm
bán kính độ cong mặt sau giác mạc so với trước mổ, đồng thời có sự dịch
chuyển về phía trước (forward shift) của mặt sau giác mạc sau mổ(Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.).
Trong những năm gần đây, bằng các phương tiện khác như Pentacam, IOL
Master, một số tác giả nhận thấy không có sự thay đổi của mặt sau giác mạc so
với trước mổ và đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích vấn đề này(Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.).
Nhằm góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên, chúng tôi sử dụng máy Orbscan II để
nghiên cứu sự thay đổi độ cong mặt sau giác mạc sau mổ cận thị bằng phương
pháp Lasik và các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi này.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Sử dụng máy Orbscsan II để khảo sát sự thay đổi độ cong mặt sau giác mạc sau
mổ cận thị bằng phương pháp Lasik.
Mục tiêu cụ thể
- Khảo sát sự thay đổi độ dày giác mạc sau mổ và so sánh kết quả đo bề dày
giác mạc bằng máy Orbscan với máy siêu âm.
- Khảo sát sự thay đổi bán kính, độ cao và độ chênh của mặt sau giác mạc sau
phẫu thuật.
- Xác định các yếu tố có ảnh hưởng đến sự thay đổi mặt sau giác mạc sau mổ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu phân tích, tiến cứu, cắt dọc.
Mẫu nghiên cứu gồm 127 mắt của 65 bệnh nhân tuổi trung bình 24,54 ± 5,56.
Độ cầu trung bình tương đương trước mổ -5,04 ± 2,57D, độ loạn trung bình
trước mổ -0,80 ± 0,81, được phẫu thuật cận thị bằng phương pháp Lasik tại
Bệnh viện Mắt TP.HCM từ tháng 6/2007 đến 5/2008.
Các bước tiến hành
- Đo thị lực không kính và có kính, đo độ khúc xạ chủ quan và khách quan, đo
bề dày giác mạc máy siêu âm UP-1000 (Nidek), chụp bản đồ giác mạc bằng
máy ORBSCAN II (Bausch & Lomb) trước mổ và tái khám sau 1 tuần, 1 tháng
và 3 tháng.
- Sử dụng bản đồ độ chênh mặt sau (Difference Map) giữa trước mổ và sau mổ
với chồng khít ở vùng 3mm ngoại vi để đánh giá sự thay đổi mặt sau giác mạc
sau mổ.
Phân tích số liệu
Phân tích và xử lí số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS15.0 và
MEDCALC- 2005. So sánh số liệu trước mổ và sau mổ bằng phép kiểm t bắt
cặp (paired sample t-test). Sử dụng tương quan Pearson để đánh giá mối
tương quan giữa hai biến định lượng. Chỉ số p< 0,05 được xem là có ý
nghĩa.
KẾT QUẢ
Kết quả về sự thay đổi bề dày giác mạc:
Bảng 1. Bề dày giác mạc trung tâm (µm).
N
Trung
bình ±
SD
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trước mổ
(siêu âm)
127
535,76 ±
32,40
638 473
Trước mổ
(Orbscan)
127
552,41±
39,25
647 467
N
Trung
bình ±
SD
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Sau mổ 1
tuần
(Orbscan)
127
438,50 ±
56,79
579 332
Sau mổ 1
tháng
(Orbscan)
127
451,91 ±
53,26
606 363
Sau mổ 3
tháng
(Orbscan)
127
457,92 ±
52,88
567 350
Độ dày giác
mạc bị bào
127
92,56 ±
29,55
167 29
Độ dày giác
mạc nền
127
323,20 ±
37,64
446 248
N
Trung
bình ±
SD
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Độ dày ước
đoán sau mổ
127
459,85 ±
42,42
570 371
Bề dày giác mạc sau mổ 1 tháng và 3 tháng dày hơn so với sau mổ 1 tuần
trung bình là 13,40µm và 19,42µm (p< 0,001; paired sample t-test).
So sánh bề dày giác mạc đo bằng hai phương pháp siêu âm và máy Orbscan II
được trình bày ở biểu đồ Bland-Altman (Biểu đồ 1)
Biểu đồ 1. Biểu đồ Bland-Altman so sánh kết quả bề dày giác mạc trước mổ đo
bằng máy Orbscan II và siêu âm.
Nhận xét: Máy Orbscan II có kết quả lớn hơn máy siêu âm trung bình 16,6 ±
14,64µm, có ý nghĩa thống kê (p< 0,001; paired sample t-test). Giữa hai máy có
sự tương quan rất mạnh với hệ số tương quan là 0,934 (p< 0,001; tương quan
Pearson).
Phương trình hồi qui: y = 109,8 + 0,77x (y là bề dày giác mạc đo bằng siêu âm
và x là bề dày giác mạc đo bằng máy Orbscan). Dựa vào biểu đồ nhận thấy sự
khác biệt số đo giữa hai máy có tương quan thuận với bề dày giác mạc. Giác
mạc càng dày thì sự khác biệt càng lớn. Hệ số tương quan là 0,614 (p< 0,001;
tương quan Pearson).
So sánh độ dày giác mạc sau mổ 1 tuần đo bằng máy Orbscan với giá trị độ dày
giác mạc ước đoán sau mổ được trình bày ở biểu đồ Bland-Altman (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2. Biểu đồ Bland-Altman so sánh kết quả bề dày giác mạc sau mổ 1
tuần và giá trị ước đoán sau mổ.
Nhận xét: Sau mổ 1 tuần độ dày giác mạc nhỏ hơn độ dày ước đoán trung bình
21,3 ± 25,9µm có ý nghĩa thống kê (p< 0,001; paired sample t-test). Giữa hai
giá trị có sự tương quan mạnh với hệ số tương quan là 0,904 (p < 0,001; tương
quan Pearson).
Phương trình hồi qui: y = 163,9 + 0,675x (y là bề dày giác mạc ước đoán và x
là bề dày giác mạc sau mổ 1 tuần đo bằng máy Orbscan). Dựa vào biểu đồ nhận
thấy sự khác biệt giữa 2 số đo có tương quan nghịch với bề dày giác mạc. Giác
mạc càng mỏng thì sự khác biệt càng lớn. Hệ số tương quan là 0,712 (p< 0,001;
tương quan Pearson).
Kết quả về sự thay đổi mặt sau giác mạc
Sự thay đổi mặt cầu thích hợp nhất (Posterior best-fit sphere)
Bảng 2. Bán kính mặt cầu thích hợp nhất mặt sau giác mạc (mm).
N
Trung
bình ± SD
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trước mổ
127
6,36 ±
0,23
6,88 5,91
Sau mổ 1
tuần
127
6,27 ±
0,24
6,76 5,85
Sau mổ 1
tháng
127
6,30 ±
0,22
6,76 5,89
Sau mổ 3
tháng
127
6,31 ±
0,22
6,76 5,85
Giảm đáng kể bán kính mặt cầu thích hợp sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng so
với trước mổ (có ý nghĩa thống kê, p< 0,001; paired sample t-test).
Sau mổ 1 tháng và 3 tháng bán kính này lớn hơn so với 1 tuần sau mổ (có ý
nghĩa thống kê). Tuy nhiên, giữa 1 tháng và 3 tháng không có sự khác biệt (p>
0,05).
Sự thay đổi độ cao mặt sau giác mạc
Bảng 3. Độ cao mặt sau giác mạc(µm).
N
Trung
bình ± SD
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trước mổ
127
28,83 ±
9,100
51 7
Sau mổ 1
tuần
127
45,16 ±
15,125
92 11
Sau mổ 1
tháng
127
43,24 ±
14,996
92 11
Sau mổ 3
tháng
127
41,36 ±
15,405
80 11
Sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng độ cao tăng 16,32µm, 14,41µm và 12,53µm
so với trước mổ (có ý nghĩa thống kê; p< 0,01). Sau mổ sự thay đổi rất ít và chỉ
có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa 1 tuần và 3 tháng.
Sự thay đổi độ chênh mặt sau giác mạc
Thống kê về độ chênh mặt sau giác mạc giữa sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng
so với trước mổ trên bản đồ độ chênh được trình bày ở bảng 6 và biểu đồ 3.
Biểu đồ 3. Biểu đồ hình hộp của độ chênh mặt sau giác mạc sau mổ.
Bảng 4. Độ chênh mặt sau giác mạc sau mổ (µm).
N
Trung
bình ± SD
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Sau mổ 1
tuần
117
57,00 ±
32,26
149 1
Sau mổ 1
tháng
115
45,25 ±
29,04
117 0
Sau mổ 3
tháng
118
42,14 ±
28,62
109 0
Độ chênh mặt sau sau mổ 1 tháng và 3 tháng giảm so với sau mổ 1 tuần trung
bình là 10,7µm và 14,2µm (có ý nghĩa thống kê, p< 0,001; paired sample t-
test), Sự khác biệt giữa sau mổ 1 tháng và 3 tháng không có ý nghĩa thống kê
(p= 0,102; paired sample t-test).
Các yếu tố liên quan đến thay đổi mặt sau giác mạc
Sử dụng phương pháp phân tích hồi qui đa biến từng bước với độ chênh mặt
sau giác mạc sau mổ 1 tuần làm biến phụ thuộc và các biến như độ dày giác
mạc trước mổ và sau mổ, độ dày giác mạc bị bào, độ khúc xạ điều chỉnh, bán
kính mặt trước và sau giác mạc trước và sau mổ, công suất mặt trước giác mạc
trước và sau mổ, độ dày giác mạc nền (residual bed thickness) làm các yếu tố
dự báo; nhận thấy chỉ có độ dày giác mạc trước mổ và sau mổ là những yếu tố
dự báo tốt nhất của độ chênh mặt sau giác mạc sau mổ (Bảng 7).
Bảng 5. Phân tích hồi qui đa biến các yếu tố ảnh hưởng đến độ chênh mặt sau
giác mạc sau mổ 1 tuần.
B٭ Beta٭٭ p Tolerance VIF
Hằng
số
66,69 0,026
Độ dày
GM
sau mổ
1 tuần
-
0,516
-0,889 0,00 0,653 1,530
Độ dày
GM
trước
mổ
0,390 0,471 0,00 0,653 1,530
*B: hệ số hồi qui chưa chuẩn hoá (Unstandardized Coefficients)
** Beta: hệ số hồi qui chuẩn hoá (Standardized Coefficients)
Các yếu tố khác có chỉ số ý nghĩa lớn hơn 0,05 hoặc có tương quan hợp tuyến
với 2 yếu tố trên. Phương trình hồi qui : Độ chênh sau mổ 1 tuần = 66,69 –
0,516x(độ dày giác mạc sau mổ 1 tuần) + 0.390x(độ dày giác mạc trước mổ).
Hệ số tương quan R= 0,721.
Phân tích tương tự đối với độ chênh giác mạc sau mổ 1 tháng và 3 tháng, chúng
tôi cũng nhận thấy có 2 yếu tố dự báo tốt nhất là độ dày giác mạc sau mổ và
trước mổ.
Phương trình hồi qui: Độ chênh sau mổ 1 tháng = 77,98 – 0,503x(độ dày
giác mạc sau mổ 1 tháng) + 0,352x(độ dày giác mạc trước mổ). (R= 0,725).
Độ chênh sau mổ 3 tháng = 47,96 – 0,491x(độ dày giác mạc sau mổ 3 tháng) +
0,396x(độ dày giác mạc trước mổ). (R= 0,661).
Như vậy độ chênh mặt sau giác mạc chủ yếu tương quan nghịch với độ dày
giác mạc sau mổ và một phần tương quan thuận với độ dày giác mạc trước mổ.
BÀN LUẬN
Kết quả đo bề dày giác mạc
Đo bề dày giác mạc là một bước kiểm tra rất cần thiết trước phẫu thuật nhằm
xác định mức độ tật khúc xạ có thể điều chỉnh mà không gây biến chứng.
Đo bề dày giác mạc bằng siêu âm thường được sử dụng và được xem là tiêu
chuẩn vàng trong xác định bề dày giác mạc. Tuy nhiên phương pháp này có
một số nhược điểm. Đây là phương pháp đo có tiếp xúc trực tiếp giác mạc nên
có nguy cơ lây nhiễm và tổn thương biểu mô. Kết quả tuỳ thuộc vào người đo
(mức độ đè đầu dò vào giác mạc, đầu dò có thẳng góc không, bệnh nhân có
định thị tốt hay không). Mỗi lần đo cho kết quả của 1 vị trí và không cho biết
dữ liệu về toàn thể giác mạc.
Đo bề dày giác mạc bằng máy Orbscan có thể khắc phục được các nhược điểm
này; đây là phương pháp đo không tiếp xúc, không phụ thuộc vào người đo và
cho kết quả độ dày toàn thể giác mạc được mã hoá bằng thang màu. Tuy nhiên
kết quả của hai phương pháp vẫn còn nhiều điểm khác biệt. Nhiều tác giả đã so
sánh kết qủa độ dày giác mạc của hai phương pháp đo trên bệnh nhân phẫu
thuật Lasik và nhận thấy có sự khác biệt giữa hai phương pháp trước và sau
phẫu thuật. Bề dày giác mạc đo bằng máy Orbscan dày hơn so với đo bằng máy
siêu âm trước mổ và ngược lại mỏng hơn so với đo bằng máy siêu âm sau
mổ(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ dày giác mạc trung bình đo bằng Orbscan
trước mổ là 552,41 ± 39,25µm tương đương kết quả của Liua(Error!
Reference source not found.) (560µm trên nhóm người bình thường) và của
Iskander N.G(Error! Reference source not found.) (558µm trên nhóm người cận thị). Bệnh
nhân có bề dày giác mạc mỏng nhất là 467µm Sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3
tháng là 438,50 ± 56,79µm, 451,91 ± 53,26µm, và 457,92 ± 52,88µm giảm hơn
so với trước mổ lần lượt là 113,9µm, 100,5µm và 94,5µm.
So sánh bề dày giác mạc đo bằng máy Orbscan và máy siêu âm trước mổ,
mặc dù kết quả giữa hai phương pháp đo có tương quan rất mạnh (R= 0,934;
p< 0,001; tương quan Pearson) nhưng có sự khác biệt đáng kể. Bề dày giác
mạc đo bằng máy Orbscan dày hơn so với máy siêu âm trung bình 16,6 ±
14,64µm (p< 0,001). Dựa vào biểu đồ Bland –Altman nhận thấy sự khác biệt
số đo giữa hai máy càng lớn khi giác mạc càng dày, kết quả giữa hai phương
pháp đo là tương đương nhau khi bề dày giác mạc khoảng 477µm.
Sau mổ, bề dày giác mạc bị mỏng đi nhiều do tác dụng bào của tia Laser. Bề
dày giác mạc ước đoán sau mổ bằng hiệu số của bề dày giác mạc trước mổ trừ
đi bề dày giác mạc bị bào. Iskander N.G. nhận thấy không có sự khác biệt giữa
bề dày giác mạc đo bằng siêu âm và bề dày giác mạc ước đoán sau mổ, trong
khi đó bề dày giác mạc đo bằng Orbscan mỏng hơn so với bề dày giác mạc ước
đoán sau mổ trung bình 37µm(Error! Reference source not found.). So sánh bề dày giác
mạc đo bằng máy Orbscan và bề dày giác mạc ước đoán sau mổ chúng tôi có
kết quả tương tự như của Iskander N.G với bề dày giác mạc đo bằng Orbscan
mỏng hơn so với bề dày giác mạc ước đoán sau mổ trung bình 21,3µm. Dựa
vào biểu đồ Bland –Altman nhận thấy sự khác biệt càng lớn khi giác mạc càng
mỏng, kết quả giữa hai phương pháp đo là tương đương nhau khi bề dày giác
mạc khoảng 504 µm.
Như vậy, kết quả đánh giá bề dày giác mạc bằng máy Orbscan cao hơn
(overestimate) khi giác mạc dày hơn khoảng 480 - 500µm và thấp hơn
(underestimate) khi giác mạc mỏng hơn khoảng 480 - 500µm. Điều này có ảnh
hưởng đến độ chênh mặt sau giác mạc sau mổ sẽ được bàn luận ở phần sau.
Theo dõi sự thay đổi độ dày giác mạc sau mổ, chúng tôi nhận thấy bề dày giác
mạc sau mổ 1 tháng và 3 tháng dày hơn so với 1 tuần sau mổ trung bình là
13,40µm và 19,42µm (p< 0,001; paired sample t-test). Điều này được Fakhry
M.A giải thích là do sự thay đổi tính trong suốt của giác mạc sau mổ làm thay
đổi chỉ số khúc xạ của giác mạc, ảnh hưởng đến kết quả đo(Error! Reference source not
found.).
Như vậy, kết quả đo bề dày giác mạc bằng máy Orbscan có một số hạn chế. Đó
là độ chính xác không cao khi so sánh với đo bằng phương pháp siêu âm, đặc
biệt là trong trường hợp sau mổ khúc xạ và kết quả thay đổi phụ thuộc vào độ
trong suốt của giác mạc. Điều này được một số tác giả khẳng định khi so sánh
với các phương tiện đo độ dày giác mạc khác như Pentacam, OCT(Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.). Vì vậy khi sử dụng máy Orbscan để phân tích bề dày giác mạc trước mổ,
các phẩu thuật viên cần lưu ý vấn đề này.
Sự thay đổi mặt sau giác mạc
Sự thay đổi mặt sau giác mạc là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Hình ảnh bản
đồ mặt sau giác mạc trên máy Orbscan cho thấy có sự gia tăng độ cao ở trung
tâm giác mạc sau mổ Lasik (Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.) và ngay
cả sau mổ cận thị bằng phương pháp PRK(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.). Hầu hết các trường hợp sau mổ
bản đồ độ cao mặt sau đều có dạng ốc đảo chứng tỏ có một sự gia tăng độ cong
ở trung tâm. Nhiều giả thuyết khác nhau được đưa ra để giải thích hiện tương
này.
Một số tác giả cho rằng 40% phía trước của giác mạc có khả năng chịu lực tốt
hơn phần sau. Ngoài ra, phần vạt giác mạc có tham gia rất ít vào sức bền của
giác mạc sau mổ do mặt sau vạt không tạo sẹo bền vững với phần nhu mô phía
sau(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Vì vậy sau mổ khúc xạ,
giác mạc bị yếu đi do mất cấu trúc đồng thời phần nhu mô phía sau yếu hơn trở
thành vùng chịu lực chủ yếu. Do đo, giác mạc dễ bị giãn phình dưới tác dụng
của nhãn áp tạo nên sự dịch chuyển về phía trước (forward shift) của giác mạc
sau mổ. Đây được cho là nguyên nhân của biến chứng giãn phình giác mạc sau
mổ Lasik(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Hình 1. Hình ảnh bản đồ độ cao mặt sau sau mổ 1 tháng (A), trước mổ (B) và
bản đồ độ chênh (A-B).
Hình 2. Các mô hình thay đổi mặt sau giác mạc sau mổ. Mô hình A: Giãn
phình ở trung tâm GM; Mô hình B: Di chuyển về phía trước 1 vùng rộng; Mô
hình C: Di chuyển vùng chu biên về phía sau. Nguồn: Grzybowski
D.M(Error! Reference source not found.).
Grzybowski D.M(11) đưa ra 3 mô hình của sự gia tăng độ cao mặt sau giác mạc
sau mổ (Hình 2). Nghiên cứu hình ảnh độ cao mặt sau giác mạc trên 2380 mắt
(1255 bệnh nhân) sau mổ Lasik, tác giả nhận thấy hấu hết các trường hợp đều
thích hợp với mô hình C; có nghĩa là do sự di chuyển về phía sau của vùng chu
biên giác mạc. Điều này được giải thích là do giác mạc có cấu trúc không đồng
nhất, tính ái nước ở chu biên và trung tâm khác nhau, nên vùng chu biên dễ bị
phù nề hơn.
Yoshiaki Nawa(Error! Reference source not found.) cho rằng sự di chuyển của mặt sau
giác mạc sau mổ là hình ảnh giả tạo (artifact). Sau mổ Lasik, mặt trước giác
mạc mất đi một kính cầu dương, đồng nghĩa với đặt thêm vào một kính cầu âm.
Vì vậy, hình ảnh mặt sau giác mạc thu được bị giảm độ phóng đại nên có vẻ
cong hơn về phía trước so với trước mổ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bán kính mặt cầu thích hợp nhất mặt sau giác
mạc trước mổ là 6,36 ± 0,23mm, sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng là 6,27 ±
0,24mm, 6,30 ± 0,22mm và 6,31 ± 0,22mm giảm hơn so với trước mổ là
0,88mm, 0,57mm và 0,54mm (có ý ngh