Khảo sát tình hình sử dụng thuốc trị viêm loét dạ dày-tá tràng tại khoa nội tiêu hóa Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Mở đầu: Sử dụng thuốc, trong đó có thuốc trị viêm loét dạ dày- tá tràng (DDTT) an toàn hợp lý đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà điều trị tại các bệnh viện. Khoa Nội tiêu hóa Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (BVNTP) đã xây dựng phác đồ chuẩn để điều trị viêm loét DDTT, đặc biệt là phác đồ tiệt trừ Helicobacter pylori (Hp) được cập nhật từ tài liệu nước ngoài. Vấn đề sử dụng thuốc tại đây rất cần khảo sát và đóng góp từ giới chuyên môn, trong đó có dược sĩ lâm sàng, nhằm đạt hiệu quả và an toàn. Mục tiêu: Nghiên cứu khảo sát 400 hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại khoa Nội tiêu hóa BVNTP từ tháng 2/2010 đến 5/2010 nhằm xem việc sử dụng có an toàn hiệu quả. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả cắt ngang các hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại khoa Nội tiêu hóa BVNTP. Phỏng vấn các bác sĩ và điều dưỡng tại Khoa Nội tiêu hóa, các dược sĩ tại Khoa Dược để biết rõ vì sao lại có thực trạng sử dụng thuốc như khảo sát. Kết quả: Việc kê đơn chỉ định thuốc nhìn chung là hợp lý, theo đúng phác đồ của bệnh viện và phù hợp với khuynh hướng dùng thuốc của các nước tiên tiến, đưa đến hiệu quả điều trị khá tốt (97,75% bệnh nhân sau thời gian nằm viện đều đỡ giảm hoặc khỏi). Với các trường hợp bị viêm loét DDTT nhiễm Hp lần đầu, phác đồ chuẩn 3 thuốc được dùng. Có 3 trường hợp dùng phác đồ 4 thuốc có bismuth. Không có trường hợp nào phải dùng phác đồ mới là phác đồ “liên tiếp” hoặc “cứu vãn”. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại bệnh viện là hợp lý và an toàn, đặc biệt, có một số yếu tố phù hợp với điều kiện kinh tế cho người bệnh

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình sử dụng thuốc trị viêm loét dạ dày-tá tràng tại khoa nội tiêu hóa Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Dược Khoa 229 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC TRỊ VIÊM LOÉT DẠ DÀY-TÁ TRÀNG TẠI KHOA NỘI TIÊU HÓA BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG Trần Mai Quỳnh Chi*, Nguyễn Thị Cẩm Tú**, Nguyễn Hữu Đức* TÓM TẮT Mở đầu: Sử dụng thuốc, trong đó có thuốc trị viêm loét dạ dày- tá tràng (DDTT) an toàn hợp lý đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà điều trị tại các bệnh viện. Khoa Nội tiêu hóa Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (BVNTP) đã xây dựng phác đồ chuẩn để điều trị viêm loét DDTT, đặc biệt là phác đồ tiệt trừ Helicobacter pylori (Hp) được cập nhật từ tài liệu nước ngoài. Vấn đề sử dụng thuốc tại đây rất cần khảo sát và đóng góp từ giới chuyên môn, trong đó có dược sĩ lâm sàng, nhằm đạt hiệu quả và an toàn. Mục tiêu: Nghiên cứu khảo sát 400 hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại khoa Nội tiêu hóa BVNTP từ tháng 2/2010 đến 5/2010 nhằm xem việc sử dụng có an toàn hiệu quả. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả cắt ngang các hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại khoa Nội tiêu hóa BVNTP. Phỏng vấn các bác sĩ và điều dưỡng tại Khoa Nội tiêu hóa, các dược sĩ tại Khoa Dược để biết rõ vì sao lại có thực trạng sử dụng thuốc như khảo sát. Kết quả: Việc kê đơn chỉ định thuốc nhìn chung là hợp lý, theo đúng phác đồ của bệnh viện và phù hợp với khuynh hướng dùng thuốc của các nước tiên tiến, đưa đến hiệu quả điều trị khá tốt (97,75% bệnh nhân sau thời gian nằm viện đều đỡ giảm hoặc khỏi). Với các trường hợp bị viêm loét DDTT nhiễm Hp lần đầu, phác đồ chuẩn 3 thuốc được dùng. Có 3 trường hợp dùng phác đồ 4 thuốc có bismuth. Không có trường hợp nào phải dùng phác đồ mới là phác đồ “liên tiếp” hoặc “cứu vãn”. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại bệnh viện là hợp lý và an toàn, đặc biệt, có một số yếu tố phù hợp với điều kiện kinh tế cho người bệnh. Từ khóa: Viêm loét dạ dày-tá tràng, Helicobacter pylori, phác đồ tiệt trừ Hp. ABSTRACT EVALUATION OF DRUG USE FOR TREATING PEPTIC ULCER DISEASE IN INTERNAL GASTROENTEROLOGY DEPARTMENT OF NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL Tran Mai Quynh Chi, Nguyen Thi Cam Tu, Nguyen Huu Duc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 – 2011: 229 - 235 Background: Rational use of drugs, especially treating peptic ulcer disease (PUD) is major concern of hospital staff. Internal gastroenterology department of Nguyen Tri Phuong (NTP) hospital has set up guidelines for treating PUD, especially guideline for eradication of Helicobacter pylori (Hp). It is necessary to review the drug use in the department and collect comments from health professionals, especially that from clinical pharmacists to optimise the policy of drug use. Objectives: The study was conducted on reviewing of 400 cases of drug use for treating PUD in internal gastroenterology department of NTP hospital from February 2010 to May 2009 to see the appropriateness of drug use. ∗Khoa Dược - Đại học Y Dược TPHCM ∗∗Bệnh viện Nguyễn Tri Phương Tác giả liên lạc: PGS. TS. Nguyễn Hữu Đức ĐT: 0918276256 Email: tvduoc@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Dược Khoa 230 Methods: A cross-sectional methodology was applied to review prescriptions utilising to treat PUD. Interviews of medical and pharmacy staff in the department were conducted regarding prescription and dispensing the drugs. Results: Description the drugs for treating PUD was rational and conformed to hospital guidelines which had been updated, leading to the treatment were relatively effective. Almost the cases of Hp-positive patients were treated with first- line therapy initiated with a PPI-based three-drug regimen. There were 3 cases using bismuth- based four-drug regimen. No cases of using “sequalae regimen” or “salvage regimen” were reported. Conclusion: Reviewing from the study revealed that the drug use for treating PUD in internalgastroenterology department of NTP hospital was relatively rational and safety. Keywords: Peptic ulcer disease, Helicobacter pylori, Hp eradication regimens. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm loét dạ dày tá tràng (DDTT) là bệnh rất phổ biến trên thế giới. Đối với loét DDTT, ở Mỹ bệnh chiếm 10% dân số. Ở các nước châu Âu: loét tá tràng 8%, loét dạ dày 2%. Ở Việt Nam, riêng miền Bắc, bệnh viêm loét DDTT chiếm 5- 7% dân số(4). Năm 1983, Marshall và Warren phát hiện một loại vi khuẩn hiện diện ở niêm mạc dạ dày(3), trước đặt tên Campylobacter pylori sau đặt tên là Helicobacter pylori (Hp). Người ta đã xác lập mối liên hệ giữa vi khuẩn này với bệnh viêm loét DDTT, với cả ung thư dạ dày và đặt vấn đề tiệt trừ Hp như liệu pháp quan trọng trong điều trị viêm loét. Khoa Nội tiêu hóa Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (BVNTP) là khoa chuyên điều trị các bệnh liên quan đến DDTT trong đó có viêm loét DDTT. Hiện nay tại khoa đã có các phác đồ chuẩn để điều trị các bệnh này, đặc biệt là phác đồ tiệt trừ Hp mới(2) được cập nhật từ tài liệu nước ngoài(1). Tuy nhiên, vấn đề chỉ định và sử dụng thuốc đạt hiệu quả và an toàn vẫn còn phải khảo sát bàn luận, đặc biệt cần có sự đóng góp từ giới chuyên môn, trong đó có dược sĩ lâm sàng. Chúng tôi đã thực hiện đề tài này với mục tiêu: Khảo sát tình hình sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại khoa Nội tiêu hóa BVNTP và có nhận xét, đánh giá nhằm giúp cho việc sử dụng thuốc an toàn hợp lý tại bệnh viện. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các hồ sơ bệnh án (HSBA) có chỉ định thuốc trị viêm loét DDTT được lưu trữ tại BVNTP từ tháng 2/2010 đến tháng 5/2010. Cỡ mẫu: 2 2 )2/1( )1( d PPZ N − = − α N: cỡ mẫu cần cho nghiên cứu; P = 0,5: tỷ lệ ước tính cho mẫu lớn nhất; d = 0,05: sai số tự ước định; Z(1 2/α− ) = 1,96: độ tin cậy ở mức xác suất 0,95 Để đạt độ tin cậy số lượng mẫu HSBA cần phải thu thập là 384. Trong đề tài này, chúng tôi đã khảo sát 400 mẫu HSBA có sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT được lưu trữ tại BVNTP từ 2/2010 đến 5/2010. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp hồi cứu Hồi cứu các hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại khoa Nội tiêu hóa BVNTP từ tháng 2/2010 đến 5/2010. Phương pháp phỏng vấn Phỏng vấn các bác sĩ và điều dưỡng tại Khoa Nội tiêu hóa, các dược sĩ tại khoa Dược bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp không sử dụng bảng câu hỏi để biết rõ vì sao lại có thực trạng sử dụng thuốc như khảo sát. Phân tích so sánh và đánh giá Từ các số liệu, việc chỉ định thuốc điều trị viêm loét DDTT đã khảo sát, so sánh chỉ định với phác đồ điều trị của bệnh viện, phác đồ điều Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Dược Khoa 231 trị mới của một số nước tiên tiến. Đánh giá việc sử dụng thuốc. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm bệnh nhân Tuổi Tỷ lệ bệnh nhân cao nhất ở độ tuổi từ 18-55 (77%), tức đa số bệnh nhân trong độ tuổi lao động. Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 16 tuổi, lớn tuổi nhất là 88 tuổi. Giới tính Nữ chiếm 56,75% (trong đó có 5 bệnh nhân nữ mang thai chiếm 2,2%), nam chiếm 43,25%. Như vậy, số bệnh nhân nữ cao hơn nam, gấp khoảng 1,3 lần. Bệnh được chẩn đoán Bệnh viêm loét và liên quan DDTT Bệnh nhân bị viêm dạ dày chiếm tỷ lệ cao nhất (74,75%), tiếp theo là loét dạ dày (9,5%), viêm tá tràng (5,75%), loét tá tràng (3,25%). Có 27 bệnh án bị bệnh liên quan đến DDTT nhưng không phải viêm loét, gồm có: rối loạn tiêu hóa giống loét, trào ngược dạ dày-thực quản (GERD), bệnh Mallory – Weiss, ung thư dạ dày. Các bệnh khác kèm theo không liên quan DDTD Có 69/400 trường hợp bệnh nhân còn bị các bệnh khác như: cao huyết áp (4%), đái tháo đường (2,25%), viêm đường hô hấp trên (1,75%), nhiễm trùng tiểu (1,5%) Chẩn đoán viêm loét DDTD và xét nghiệm Hp Trong 400 HSBA được chẩn đoán ban đầu là mắc bệnh lý về DDTT, có 308 trường hợp được ra y lệnh (chỉ định) nội soi và làm xét nghiệm Clo-test, 92 trường hợp còn lại không được chỉ định nội soi bao gồm: bệnh nhân chống chỉ định với nội soi (phụ nữ có thai, bệnh nhân tim mạch, người cao tuổi,) hoặc những bệnh nhân đã nội soi tại cơ sở y tế khác trong vòng 2 tuần, bệnh nhân tái phát và nhập viện. Trong số 308 bệnh nhân được chỉ định nội soi và làm Clo-test, sự tuân thủ của bệnh nhân có khác nhau: - 265 bệnh nhân tuân thủ nội soi và Clo-test chiếm 86%. - 43 bệnh nhân không tuân thủ nội soi và không Clo-test chiếm 14%, vì nhiều lý do: do tâm lý sợ nội soi, do không đủ khả năng trả chi phí Tỷ lệ nhiễm Hp theo tình trạng viêm loét ở DD hoặc TT Trong số 265 bệnh nhân được nội soi và thử Clo-test, tỷ lệ nhiễm Hp theo tình trạng viêm loét ở dạ dày hoặc tá tràng được trình bày trong bảng 1. Bảng 1. Tỷ lệ nhiễm Hp theo vị trí viêm loét (VL) Hp (+) Hp (-) Tổng Tỷ lệ % nhiễm Hp VL Tá tràng 7 29 36 19,4% VL Dạ dày 11 200 211 5,2% Không VL 0 18 18 0% Kết quả cho thấy bệnh nhân bị viêm loét TT nhiễm Hp chiếm tỷ lệ 19,4%, viêm loét DD nhiễm Hp chiếm 5,2%, còn không viêm loét thì không bị nhiễm (0%). Tỷ lệ nhiễm Hp ở bệnh nhân đã được xác định bị viêm loét như thế là quá thấp trong khi nhiều nghiên cứu cứu trước đây cho thấy tỷ lệ nhiễm Hp ở viêm loét TT khoảng 90%, viêm loét DD khoảng 70%(4). Nguyên nhân có thể do: bệnh nhân đã sử dụng thuốc, đặc biệt là kháng sinh trước đó, do âm tính giả, So sánh giữa 2 nhóm bệnh nhân mắc bệnh DD và TT, ta thấy tỷ lệ nhiễm Hp ở nhóm bệnh nhân bị bệnh lý TT cao hơn nhóm bệnh nhân bị bệnh lý DD (p =0,0024<α =0,05). Đặc biệt, ở bệnh nhân không bị viêm loét thì không bị nhiễm Hp. Phác đồ điều trị Hp tại Khoa Nội tiêu hóa BVNTP Khoa Nội tiêu hóa BVNTP đã xây dựng phác đồ tiệt trừ Hp và cập nhật thường xuyên theo các tài liệu mới của nước ngoài, đặc biệt cập nhật phác đồ “liên tiếp” (sequalae regimen) và “cứu vãn” (salvage regimen) (xem bảng 2). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Dược Khoa 232 Bảng 2. Phác đồ điều trị Hp tại Khoa Nội tiêu hóa BVNTP(2,1) Phác đồ Liều lượng Chỉ định Clarithromycin 500 mg 2 lần/ngày Amoxicillin 1g 2 lần/ngày 3 thuốc Ức chế bơm proton (PPI) 2 lần/ngày Điều trị được lựa chọn đầu tiên Dùng trong 14 ngày Bismuth 524mg 4 lần/ngày Metronidazole 250 mg 4 lần/ngày Tetracycline 500 mg 4 lần/ngày 4 thuốc PPI 2 lần/ngày Điều trị ban đầu cho bệnh nhân dị ứng với penicillin hoặc liệu pháp với 3 thuốc thất bại. Pantoprazol 40mg 2 lần/ngày (10 ngày) Amoxicillin 1g 2 lần/ngày (ngày 1- ngày 5) Clarithromycin 500mg 2 lần/ngày (ngày 6-ngày 10) “Liên tiếp” Tinidazol 500mg 2 lần/ngày (ngày 6-ngày 10) Khi liệu pháp với 3 thuốc thất bại. Levofloxacin 250 mg 2 lần/ngày Amoxicillin 1g 2 lần/ngày “Cứu vãn” PPI 2 lần/ngày Khi liệu pháp với 3 thuốc thất bại. Khảo sát việc sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT Tỷ lệ sử dụng các nhóm thuốc trị viêm loét DDTT (xem bảng 3) Bảng 3. Tỷ lệ các nhóm thuốc dùng trị viêm loét DDTT Số HSBA Tỷ lệ % Ức chế bơm proton (PPI) 372/400 93,0 Kháng acid 358/400 88,.75 An thần - chống co thắt 278/400 69,50 Bảo vệ niêm mạc 17/400 4,25 Kháng thụ thể H2 8/400 2,0 Nhóm PPI được chỉ định nhiều nhất với tỷ lệ 93%, tiếp đến là nhóm kháng acid 88,75%, nhóm an thần – chống co thắt 69,5%, nhóm bảo vệ niêm mạc 4,25%, nhóm kháng thụ thể H2 ít nhất 2%. Các thuốc sử dụng trong nhóm PPI Qua khảo sát, PPI là nhóm được chỉ định nhiều nhất (93%) vì thuộc phác đồ chuẩn tiệt trừ Hp, bao gồm 3 loại thuốc: omeprazol, pantoprazol, esomeprazol. Omeprazol là thuốc được sử dụng nhiều hơn hết với tỷ lệ 46,5% do là thuốc tương đối rẻ tiền được lựa chọn ban đầu, kế tiếp là pantoprazol (43,8%) và cuối cùng, esomeprazol là thuốc có giá thành cao hơn các thuốc cùng nhóm nên được dùng khá ít với sự thoả thuận của người bệnh (9,7%). Cả 3 loại thuốc đều có dạng tiêm chích được dùng khi cần. Các thuốc sử dụng trong nhóm kháng acid Nhóm kháng acid được chỉ định tương đối nhiều chiếm 88.75% vì đây là thuốc hỗ trợ hiệu quả trong phác đồ điều trị viêm loét DDTT, gồm các biệt dược như: Varogel, Simelox, Stomafar, Maloxid. Đặc biệt, gần đây khoa Nội tiêu hóa bệnh viện thường sử dụng Simelox là thuốc sản xuất trong nước giá rẻ thay thế thuốc ngoại nhập. Các thuốc sử dụng trong nhóm an thần – chống co thắt Đây là nhóm thuốc cũng được sử dụng nhiều (69,5%) nhằm hỗ trợ điều trị đau, lo âu, mất ngủ, gồm có: Buscopan, Diazepam, Pym– hyospan, No-spa, Pyme–nospa, Meteospamyl Các thuốc sử dụng trong nhóm bảo vệ niêm mạc Nhóm bảo vệ niêm mạc chỉ được dùng khi cần (4,25%), gồm có sucralfat và bismuth. Sucralfat được dùng khi bệnh nhân nữ có thai, khi ngăn ngừa loét tiến triển. Có 3 trường hợp bismuth được dùng trong phác đồ trị Hp 4 thuốc. Các thuốc sử dụng trong nhóm kháng thụ thể H2 Nhóm kháng thụ thể H2 được sử dụng rất ít Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Dược Khoa 233 (2%) gồm 2 loại thuốc là ranitidin và famotidin (ranitidin được sử dụng nhiều hơn một ít so với famotidin). Đây là thuốc được các bác sĩ cân nhắc dùng thay thế PPI trong trường hợp bệnh nhân nữ mang thai. Phối hợp thuốc Trong 400 trường hợp sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT, đa số các trường hợp là dùng thuốc phối hợp (86%). Đơn trị chiếm tỷ lệ thấp (14%), trong đó chủ yếu chỉ dùng PPI trị rối loạn tiêu hóa giống loét. - Phối hợp thuốc không có kháng sinh: Phối hợp được chỉ định nhiều nhất là phối hợp giữa 2 thuốc PPI và kháng acid (88,75%) dùng trị bệnh về DDTT không nhiễm Hp. - Phối hợp thuốc có kháng sinh: Được dùng trong trường hợp được phát hiện nhiễm Hp với phác đồ 3 thuốc chính gồm: amoxicillin, clarithromycin, omeprazol (hoặc PPI khác với liều tương ứng). Hoặc trong một số ít trường hợp 3 thuốc kết hợp thêm bismiuth. Ngoài ra, có chỉ định thêm các nhóm thuốc hỗ trợ như thuốc kháng acid, chống co thắt, thuốc an thần Như vậy, để tiệt trừ Hp phải sử dụng từ 3 thuốc trở lên. Qua khảo sát chúng tôi chưa thấy sử dụng phác đồ mới như phác đố “liên tiếp” hoặc “cứu vãn” để điều trị Hp kháng thuốc. Đường sử dụng thuốc Chúng tôi ghi nhận nhóm thuốc PPI thường được thay đổi đường sử dụng. Trong các bệnh nhân được chỉ định PPI, sự thay đổi đường sử dụng của PPI được ghi nhận như sau: - Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng nặng hoặc không sử dụng được đường uống nên được cho dùng PPI đường tiêm ngay từ đầu, sau đó cải thiện được chuyển từ dạng tiêm sang dạng uống (54,6%); một số không cải thiện hoặc bác sĩ thấy vẫn cần thiết nên vẫn tiếp tục sử dụng dạng tiêm (23,9%). - Bệnh nhân nhập viện không nặng và có thể uống được chỉ định PPI dạng uống (15,9%), sau đó bệnh trở nặng nên phải chuyển sang đường tiêm (5,6%). Như vậy, việc thay đổi đường dùng của PPI là hợp lý, chủ yếu căn cứ vào tình trạng bệnh nhân lúc nhập viện, khả năng uống và diễn tiến của bệnh để việc điều trị có hiệu quả. Thời gian sử dụng thuốc Chúng tôi chỉ ghi nhận thời gian sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT của bệnh nhân trong thời gian nằm viện mà không thống kê được thời gian bệnh nhân điều trị ngoại trú, do đó thời gian sử dụng thuốc thực tế có thể dài hơn. Thời gian dùng thuốc ngắn nhất: 1 ngày, dài nhất: 27 ngày, trung bình: 7,6 ± 0,4 ngày. Thông thường, thời gian điều trị viêm loét DDTT thường phải kéo dài. Do đó, thời gian sử dụng thuốc được ghi nhận trung bình 7,6 ngày là thấp. Nguyên nhân có thể kể: bệnh nhân chỉ bị bệnh nhẹ như bị rối loạn tiêu hóa giống loét, bệnh nhân có tiến triển tốt nên được cho xuất viện và tiếp tục điều trị ngoại trú, hoặc tự ý bỏ viện khi đợt điều trị tích cực chưa kết thúc Tương tác thuốc Tương tác thuốc thường gặp là tương tác giữa thuốc kháng acid và thuốc cho tác dụng toàn thân. Các điều dưỡng khi được hỏi cho biết là có dặn bệnh nhân trước khi dùng thuốc nên uống cách xa nhưng thời gian uống cách xa chỉ trong 30 phút. Hiệu quả của việc điều trị Chúng tôi đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào tình trạng bệnh nhân khi xuất viện có 3 mức: Khỏi (chấm dứt sử dụng thuốc), Đỡ giảm (bệnh nhân cải thiện nhưng vẫn phải tiếp tục sử dụng thuốc ngoại trú hoặc bệnh nhân cải thiện và trốn viện), Không thay đổi (bệnh nhân không cải thiện nhưng xin xuất viện hoặc trốn viện) Tỷ lệ bệnh nhân xuất viện trong tình trạng Đỡ giảm chiếm tỷ lệ cao nhất (91%), kế đến là Khỏi (6.75%). Có 9 bệnh nhân bệnh Không thay đổi (2.25%), trong đó có 5 bệnh nhân trốn viện, 2 bệnh nhân mắc nhiều bệnh kèm theo tuổi già nên gia đình xin về, 2 bệnh nhân bị ung thư dạ dày. Không có bệnh nhân nào tử vong. Như vậy, việc điều trị được xem là tương đối tốt. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Dược Khoa 234 Theo dõi ADR Trong 400 hồ sơ bệnh án mà chúng tôi khảo sát, có 2 trường hợp bệnh nhân khi sử dụng thuốc trong phác đồ trị Hp bị tiêu chảy và được chỉ định thuốc trị tiêu chảy, sau đó bệnh nhân vẫn tiếp tục điều trị theo phác đồ. Có thể nhận định đây không phải là ADR của thuốc. BÀN LUẬN Phương tiện chẩn đoán bệnh viêm loét DDTT hiện nay ở KNTHBVNTP là nội soi và xét nghiệm Hp bằng phương pháp Clo-test. Tuy nhiên, việc chẩn đoán này không được thực hiện trên tất cả bệnh nhân theo yêu cầu (có không ít bệnh nhân từ chối việc chẩn đoán cần thiết này vì lý do không xác đáng). Đặc biệt, hiện tượng xét nghiệm Hp âm tính giả được ghi nhận có thể xảy ra, vì vậy, rất cần đánh giá các điều kiện liên quan để việc xét nghiệm Hp được chính xác (bệnh nhân dùng thuốc gây ảnh hưởng đế xét nghiệm trước đó, điều kiện hóa chất, trang thiết bị xét nghiệm). Việc kê đơn chỉ định thuốc nhìn chung là hợp lý, theo đúng phác đồ của bệnh viện(2) và phù hợp với khuynh hướng dùng thuốc của thế giới(1), đưa đến hiệu quả điều trị khá tốt (97,75% bệnh nhân sau thời gian nằm viện đều đỡ giảm hoặc khỏi). Với các trường hợp bị viêm loét DDTT nhiễm Hp lần đầu, phác đồ chuẩn 3 thuốc được dùng. Có 3 trường hợp dùng phác đồ 4 thuốc (3 thuốc kết hợp với bismuth). Không có trường hợp nào phải dùng phác đồ mới là phác đồ “liên tiếp” hoặc “cứu vãn”. Đối với trường hợp bị viêm loét DDTT không nhiễm Hp, phối hợp PPI và thuốc kháng acid thường được dùng, hoặc có khi phối hợp thêm thuốc khác như an thần-chống co thắt vì cần thiết. Điều kiện kinh tế của bệnh nhân có được quan tâm như trong nhóm ức chế bơm proton, pantoprazol và esomeprazol có giá thành cao thường ít được lựa chọn; hay Simelox là thuốc sản xuất trong nước gần đây được dùng nhiều hơn so với thuốc cùng loại. Hoặc khi cần thiết, đường dùng được thay đổi từ tiêm sang uống có lợi cho bệnh nhân hơn. Vấn đề tương tác thuốc do thuốc kháng acid có được chú ý nhưng cách xử lý chưa đúng mực (hướng dẫn thời gian uống cách xa 2 thuốc quá ngắn). Đây là vấn đề cần đến công tác Dược lâm sàng. Thời gian điều trị bệnh viêm loét DDTT thường phải kéo dài. Tuy nhiên, thời gian nằm viện dùng thuốc ở bệnh viện thường ngắn, đòi hỏi việc điều trị ngoại trú tiếp theo phải chặt chẽ và chu đáo. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Nhìn chung, việc sử dụng thuốc trị viêm loét DDTT tại bệnh viện là hợp lý và an toàn, đặc biệt, có một số mặt phù hợp với điều kiện kinh tế cho người bệnh. Chúng tôi đã khảo sát các văn bản, tài liệu liên quan như: phác đồ điều trị viêm loét DDTT của bệnh viện, tài liệu nước ngoài mà bệnh viện đã tham khảo để xây dựng và cập nhật phác đồ. Chính tuân thủ, thực hiện đúng phác đồ mà việc điều trị viêm loét DDTT tại đây đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy vẫn còn một số điểm cần được cải thiện như: - Việc chẩn đoán bằng nội soi và Clo-test đã không được thực hiện một cách đầy đủ cho tất cả bệnh nhân theo yêu cầu. Các bác sĩ nên tận
Tài liệu liên quan