Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ cuối năm 2007 đã lây lan ra một loạt các khu vực khác trên thế giới với diện rộng và tốc độ nhanh chóng. Từ đó tới nay, thế giới cũng như Việt Nam đã chứng kiến diễn biến phức tạp và những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc liên minh châu Âu đã lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế; thương mại toàn cầu, thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm; giá cả quốc tế biến động bất thường; hàng loạt các định chế tài chính lớn trên thế giới phá sản, giải thể hoặc sát nhập Với độ mở cửa nền kinh tế lớn, kinh tế Việt Nam không tránh khỏi chịu tác động bởi những diễn biến phức tạp của môi trường kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đến quý III/2009, nền kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, mặc dù chưa thật chắc chắn và không đồng đều ở các khu vực nhờ nỗ lực phối hợp chống suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu. Năm 2009, nền kinh tế và hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam đã vượt qua một cách thành công tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính, ngân hàng tiếp tục được ổn định và tăng trưởng, đồng thời an sinh được bảo đảm bằng sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, năm 2010 còn phía trước với cơ hội đan xen cùng thách thức và thành công tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cần được nhận diện.
93 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
IMF
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
NHNN
Ngân hàng Nhà nước Việt nam
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTW
Ngân hàng trung ương
TCTD
Tổ chức tín dụng
CSTT
Chính sách tiền tệ
BQLNH
Bình quân liên ngân hàng
USD
Đô la Mỹ
VND
Đồng Việt nam
EUR
Đồng Euro
CNY
Đồng Nhân dân tệ
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 2005 – 2008 theo giá so sánh 1994
Bảng 2: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong giai đoạn 2005 – 2008
Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước năm 2009 theo giá so sánh 1994
Bảng 4: So sánh tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I năm 2009 và quý I năm 2010
Bảng 5: Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009
Bảng 6: Cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam trong năm 2009 và 4 tháng đầu năm 2010
Bảng 7: Dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại giai đoạn 2005 – 2008
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại năm 2009
Biểu đồ 3: Tỷ giá USD NHTM và thị trường tự do T4-T6/2009
Biểu đồ 4: Tỷ giá USD NHTM và thị trường tự do 3 tháng cuối năm 2009
Biểu đồ 5: Tỷ giá NHTM và tỷ giá thị trường tự do 4 tháng đầu năm 2010
LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của khóa luận
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ cuối năm 2007 đã lây lan ra một loạt các khu vực khác trên thế giới với diện rộng và tốc độ nhanh chóng. Từ đó tới nay, thế giới cũng như Việt Nam đã chứng kiến diễn biến phức tạp và những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc liên minh châu Âu đã lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế; thương mại toàn cầu, thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm; giá cả quốc tế biến động bất thường; hàng loạt các định chế tài chính lớn trên thế giới phá sản, giải thể hoặc sát nhập… Với độ mở cửa nền kinh tế lớn, kinh tế Việt Nam không tránh khỏi chịu tác động bởi những diễn biến phức tạp của môi trường kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đến quý III/2009, nền kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, mặc dù chưa thật chắc chắn và không đồng đều ở các khu vực nhờ nỗ lực phối hợp chống suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu. Năm 2009, nền kinh tế và hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam đã vượt qua một cách thành công tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính, ngân hàng tiếp tục được ổn định và tăng trưởng, đồng thời an sinh được bảo đảm bằng sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, năm 2010 còn phía trước với cơ hội đan xen cùng thách thức và thành công tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cần được nhận diện.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, đồng thời là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bám sát chỉ đạo của Chính phủ, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức và cá nhân để sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa…
Trong số đồng loạt các chính sách tài chính – tiền tệ thì chính sách quản lý ngoại hối trong thời gian qua đã có nhiều đổi thay rõ rệt, đã đem lại nhiều kết quả khả quan, đóng vai trò không hề nhỏ trong việc ổn định và phát triển kinh tế. Chính vì thế, việc nghiên cứu chính sách quản lý ngoại hối và những tác động của nó đối với nền kinh tế thời kỳ sau khủng hoảng, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong vấn đề quản lý ngoại hối để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là một việc làm cần thiết mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn cao. Đó là lý do sinh viên chọn khóa luận nghiên cứu khóa luận “Chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính”.
II. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu rõ hơn về các chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như tác động của các chính sách này đối với tình hình kinh tế nước ta trong giai đoạn 2005 đến nay, đặc biệt tập trung vào thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính (từ quý III/2009 đến quý I/2010). Nghiên cứu bài học kinh nghiệm về công tác quản lý ngoại hối của các nước khác trên thế giới đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính, đặc biệt là kinh nghiệm của Trung Quốc, từ đó đề xuất ra các khuyến nghị về các giải pháp điều hành chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về ngoại hối, quản lý ngoại hối và mối quan hệ của các chính sách này với khủng hoảng tài chính.
- Nghiên cứu các chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như những tác động của chính sách này đối với nền kinh tế nước ta.
- Nghiên cứu nhằm đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện hơn chính sách quản lý ngoại hối đang áp dụng tại Việt Nam.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đang đẩy mạnh công tác hoàn thiện lại các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối theo chiều hướng tự do hóa hoạt đông ngoại hối, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo lập nhiều công cụ giao dịch ngoại hối cho DN và nhà đầu tư lựa chọn. Vì vậy, bài viết này lấy thời điểm từ năm 2005 để phân tích vì năm 2005, Pháp lệnh Ngoại hối được ban hành, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam. Đồng thời hiện nay trên thị trường ngoại hối, việc giao dịch chủ yếu được thực hiện thông qua USD và ảnh hưởng của đồng USD là rất lớn đối với mọi giao dịch hối đoái của VN, chính vì thế, tôi xin đi sâu nghiên cứu về tỷ giá VND - USD
IV. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích, tập hợp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam, cũng như dựa trên quy luật phát triển tất yếu khách quan của một vấn đề kinh tế xã hội để hình thành nên khóa luận.
V. Bố cục của khóa luận
Bố cục nội dung của khóa luận bao gồm ba chương:
Chương I. Lý luận cơ bản về chính sách quản lý ngoại hối.
Chương II. Chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính.
Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối của NHNNVN trong thời gian tới.
CHƯƠNG I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
I. Chính sách quản lý ngoại hối
1. Khái niệm quản lý ngoại hối
1.1. Khái niệm ngoại hối
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, việc trao đổi ngày càng mở rộng hơn, không còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà phát triển ra phạm vi quốc tế. Vì vậy đã xuất hiện đồng tiền của một quốc gia khác trong mối quan hệ thanh toán giữa hai quốc gia. Đồng thời, phương tiện thanh toán cũng không chỉ dùng vàng như trước đây mà xuất hiện ngày càng nhiều hình thức mới đa dạng và phong phú. Các hình thức này được gọi chung là ngoại hối và được các quốc gia sử dụng để làm phương tiện thanh toán quốc tế và dự trữ.
Dựa trên những giác độ khác nhau, người ta có cách hiểu khác nhau về ngoại hối. Trên bình diện quản lý vĩ mô và kinh tế học, người ta hiểu ngoại hối là một khái niệm bao gồm:
- Nhóm ngoại tệ tiền mặt, ngoại tệ ở tài khoản nước ngoài
- Nhóm các loại chứng từ có giá trị ngoại tệ
- Nhóm các kim khí quý, đá quý
- Đồng tiền nội tệ trong một số trường hợp
Tuy nhiên, tại mỗi nước khác nhau, qui định về các yếu tố của ngoại hối có thể không đồng nhất với khái niệm trên. Chẳng hạn theo Luật quản lý ngoại hối của Trung Quốc (ban hành năm 1980), ngoại hối được hiểu là:
- Ngoại tệ: bao gồm cả tiền ngân hàng và tiền kim loại;
- Các chứng khoán bằng tiền nước ngoài: bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty, các trái phiếu, cổ phiếu và các chứng từ có lãi suất;
- Các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài: bao gồm tất cả các loại công cụ thanh toán có thể chiết khấu, các chứng nhận tiền gửi ngân hàng và các kỳ phiếu bưu điện; và
- Các quĩ ngoại hối khác.
Theo pháp luật Trung Quốc thì các kim loại quý không được xếp vào ngoại hối. Tuy nhiên, Luật quản lý ngoại hối của Trung Quốc vẫn điều chỉnh các luồng xuất nhập các kim loại quý này.
Còn theo pháp luật của Công hòa Séc (Bộ luật ngoại hối ban hành năm 1995) thì ngoại hối bao gồm:
- Các ngoại tệ;
- Vàng (là vàng thỏi, có khả năng thanh toán trên phạm vi toàn thế giới, mà hàm lượng vàng được xác nhận vởi dấu hoặc chứng chỉ đính kèm do người có thẩm quyền cấp); và
- Các chứng khoán do người không cư trú phát hành; và các quyền và các cam kết phát sinh từ chứng khoán này (gọi là “Chứng từ tài chính phái sinh”) mà có thể định giá được bằng tiền.
Pháp luật về quản lý ngoại hối của một số nước lại không đưa ra một khái niệm cụ thể về ngoại hối mà ngoại hối được hiểu ngầm thông qua các nội dung qui định về quản lý ngoại hối (quản lý các giao dịch vãng lai và giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú). Chẳng hạn như Luật Ngoại hối của Australia (ban hành năm 1959 và sửa đổi nhiều lần sau đó) chỉ qui định quản lý về các luồng xuất nhập tiền, quản lý về thu nhập từ các hoạt động xuất khẩu và quản lý các chứng khoán nước ngoài, theo đó, ngoại hối có thể được hiểu là:
Các ngoại tệ;
Các chứng từ thanh toán bằng tiền nước ngoài;
Các chứng khoán bằng tiền nước ngoài; và
Tiền Đô la Australia trong một số trường hợp.
Đối với Việt Nam, hiện nay, theo pháp lệnh về quản lý ngoại hối 2005, ngoại hối được phân chia thành các nội dung cụ thể bao gồm:
- Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (ngoại tệ);
- Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
- Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, cổ phiếu, kỳ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
- Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
- Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Cách hiểu trên về ngoại hối được qui định tại điều 4, Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 qui định về quản lý ngoại hối của nhà nước. Cách phân chia ngoại hối này dựa trên cơ sở vai trò của từng loại ngoại hối khác nhau với nền kinh tế, do đó với từng nội dung ngoại hối khác nhau, sẽ có những qui định riêng về quản lý.
1.2. Khái niệm quản lý ngoại hối
Quản lý ngoại hối là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Đặc biệt hiện nay, nền kinh tế mở với xu hướng hội nhập đang phát triển mạnh mẽ, những mô hình kinh tế đóng trước kia không còn tồn tại. Trong tình hình hiện nay, ngay cả những nền kinh tế mạnh như các trung tâm kinh tế Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản cũng không thể tồn tại độc lập. Tuy nhiên, để có thể phát triển thì chính sách tiền tệ và đặc biệt là chính sách ngoại hối phải được xây dựng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn mỗi nước, tạo điều kiện phát triển hài hòa giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại.
Quản lý ngoại hối được hiểu là việc nhà nước ban hành những chính sách, biện pháp, quy chế, thể lệ tác động vào quá trình xuất nhập ngoại hối và việc sử dụng ngoại hối của đất nước cũng như điều hành tỷ giá hối đoái nhằm đạt được những mục tiêu đề ra cho chính sách này (tùy từng thời kỳ mà các mục tiêu của chính sách có thể khác nhau nhưng về cơ bản đều nhằm tác động tới xuất nhập khẩu, tới lưu chuyển vốn và tác động đến cán cân thanh toán). Nội dung cơ bản của quản lý ngoại hối và quản lý, kiểm soát các luồn vận động về ngoại hối qua biên giới.
Việc quản lý ngoại hối đúng đắn sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Một chính sách phù hợp về quản lý ngoại hối sẽ tác động trực tiếp đến các luồng vận động ngoại hối, tác động đến tỷ giá. Tỷ giá hối đoái khi được xác định đúng đắn sẽ có tác dụng kích thích ngoại thương phát triển, từ đó thúc đẩy mở rộng sản xuất hàng hóa trong nước. Như vậy, chính sách quản lý ngoại hối không chỉ là nhân tố ổn định nền kinh tế mà còn là yếu tố kích thích sự phát triển kinh tế.
2. Các nội dung của chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam
Quản lý ngoại hối có quan hệ chặt chẽ với quản lý ngoại thương đồng thời lại là một nội dung quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Thực thi một chính sách quản lý ngoại hối phù hợp hay không có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến phát triển kinh tế. Mỗi quốc gia, tùy theo mức độ phát triển kinh tế và mục tiêu riêng của mình, xác định 1 chính sách quản lý ngoại hối khác nhau. Đối với Việt Nam, căn cứ vào Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005, ta có thể thấy chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam gồm những nội dung cơ bản là các chính sách quản lý giao dịch vãng lai, các chính sách quản lý giao dịch vốn và các chính sách quản lý thị trường ngoại tệ và thị trường vàng.
2.1. Chính sách quản lý giao dịch vãng lai
2.1.1. Giao dịch vãng lai là những giao dịch làm tăng và/hoặc giảm tài sản tài chính về quyền sở hữu của Việt Nam với nước ngoài. Giao dịch vãng lai bao gồm các loại sau đây:
- Giao dịch xuất nhập khẩu hàng hóa.
- Giao dịch xuất nhập khẩu dịch vụ như tài chính, Ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, bưu chính viễn thông…
- Giao dịch trong lĩnh vực du lịch.
- Giao dịch một chiều nước ngoài vào Việt Nam và Việt Nam ra nước ngoài.
- Giao dịch các thu nhập yếu tố.
2.1.2. Nguyên tắc quản lý ngoại hối đối với giao dịch vãng lai là tự do hóa trong khuôn khổ của Pháp lệnh Ngoại hối 2005 của nước CHXHCN Việt Nam và những cam kết của Việt Nam khi là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những cam kết khu vực hoặc song phương của Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước khác.
2.1.3. Cơ chế quản lý giao dịch vãng lai
- Mọi giao dịch vãng lai phải thông qua tài khoản của người cư trú và hoặc của người phi cư trú mở tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối.
- Mọi giao dịch thanh toán và chuyển tiền trong giao dịch vãng lai phải thực hiện bằng cơ chế thanh toán không dùng ngoại tệ tiền mặt, hạn chế việc thanh toán và chuyển tiền bằng ngoại tệ tiền mặt, nếu có thì phải tuân thủ theo nguyên tắc:
+ Quy định hạn ngạch tối đa được chuyển tiền bằng ngoại tệ tiền mặt hoặc VND tiền mặt ra bên ngoài Việt Nam, trên hạn ngạch đó phải có giấy phép.
+ Việc thanh toán bằng ngoại tệ tiền mặt phải được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Tất cả các khoản thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai của người cư trú phải chuyển về tài khoản của mình mở ở các tổ chức tín dụng được phép, nếu muốn để ở tài khoản nước ngoài thì phải được sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Thực hiện cơ chế quản lý chặt chẽ các khoản thu ngoại tệ một chiều của người cư trú là cá nhân ở Việt Nam.
2.2. Chính sách quản lý giao dịch vốn
2.2.1. Giao dịch vốn là những giao dịch làm tăng hoặc giảm tài sản tài chính về quyền sử dụng của Việt Nam với nước ngoài, còn quyền sở hữu tài sản vốn đó vẫn thuộc về người cho vay hay đầu tư. Giao dịch vốn gồm có:
- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại.
- Đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại.
- Giao dịch tín dụng quốc tế giữa Việt Nam và các tổ chức quốc tế, nước ngoài.
2.2.2. Nguyên tắc quản lý ngoại hối đối với giao dịch vốn là khuyến khích dòng vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, quản lý có hiệu quả các dòng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
2.2.3. Cơ chế quản lý giao dịch vốn
- Mọi giao dịch vốn đầu tư trực tiếp hay gián tiếp bằng ngoại tệ hay bằng VND đều phải thông qua hệ thống tài khoản mở tại các tổ chức tín dụng được phép.
- Tất cả các khoản vay và trả nợ nước ngoài bằng ngoại tệ của chính phủ và các tổ chức được chính phủ ủy quyền phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hàng năm.
- Các khoản vay và trả nợ nước ngoài không thuộc các tổ chức của Chính phủ được thực hiện theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm, nhưng phải được sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
2.3. Quản lý thị trường ngoại tệ và thị trường vàng
2.3.1. Thị trường ngoại tệ
- Phát triển bền vững thị trường ngoại tệ ở Việt Nam: thị trường bán buôn và thị trường bán lẻ. Thị trường ngoại tệ bán buôn (thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng) bao gồm thành viên là Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng được phép. Thị trường ngoại tệ bán lẻ bao gồm các tổ chức tín dụng được phép, bàn đổi ngoại tệ và khách hàng là người cư trú và người phi cư trú.
- Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước. Tỷ giá bình quân hình thành trên thị trường ngoại tệ bán buôn do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày là cơ sở để xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ bán lẻ.
2.3.2. Thị trường vàng
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh vàng.
- Quản lý có hiệu quả thị trường vàng trên lãnh thổ Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh vàng và các khách hàng là người cư trú và phi cư trú.
3. Mục đích và vai trò của quản lý ngoại hối đối với Việt Nam
3.1. Mục đích của quản lý ngoại hối
- Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo lợi ích hợp pháp cho tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối để góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
- Thực hiện các mục tiêu của chính sách quốc gia nhằm ổn định sức mua của đồng Ngân hàng Việt Nam, tiến tới việc chuyển đổi từng phần và toàn phần đồng Ngân hàng Việt Nam chống nạn “ngoại tệ hóa” mà điển hình là nạn “đô la hóa” ở Việt Nam để cho trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có một thước đo giá trị duy nhất đó là VND.
- Tăng cường hiệu lực, hoàn thiện hệ thống và cơ chế quản lý nhà nước về quản lý ngoại hối của Việt Nam để Việt Nam thực hiện có hiệu quả các cam kết của mình trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Vai trò của quản lý ngoại hối
Từ những mục tiêu của quản lý ngoại hối ta có thể rút ra những vai trò của quản lý ngoại hối như sau:
- Góp phần phát triển ngoại thương, từ đó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế: chính sách quản lý ngoại hối đặc biệt là các bộ phận như quản lý ngoại tệ, quản lý điều hành tỷ giá tác động trực tiếp đến lợi ích của các nhà xuất nhập khẩu. Việc xác định tỷ giá phù hợp cũng như các qui định pháp luật về việc sở hữu, sử dụng ngoại tệ có thể khuyến khích xuất khẩu, nhập khẩu hay hạn chế nó (chẳng hạn, để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ có thể giảm giá trị đối ngoại của đồng tiền nội tệ, khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ thu được nhiều nội tệ hơn với cùng một lượng hàng xuất khẩu do giá quốc tế của hàng hóa không giảm. Do đó, hoạt động xuất khẩu sẽ có lãi hơn, trong khi hàng nhập khẩu vào trong nước sẽ trở nên đắt tương đối. Qua việc giảm giá đồng tiền nội tệ này, không chỉ khuyến khích được xuất khẩu mà chính sách này còn giúp cải thiện cán cân thanh toán, giảm nhập siêu). Khi các chính sách này phù hợp với những lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp thì họ sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động ngoại thương, nhờ đó ngoại thương ngày càng phát triển.
- Tạo sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá trị đồng tiền: thông qua tỷ giá hối đoái, các hoạt động trên thị trường ngoại hối, vay và cho vay nước ngoài, qui định về nhập xuất ngoại tệ phù hợp với tình hình kinh tế đối ngoại của đất nước trong từng thời kỳ, quản lý ngoại hối góp phần quan trọng trong việc tạo lập cán cân thanh toán quốc tế. Chẳng hạn, khi có sự mất cân đối trong các hạng mục thường xuyên và hạng mục vốn, Ngân hàng Nhà nước có thể thông qua thị trường ngoại hối vay nợ nước ngoài để đạt được cán cân thăng bằng, góp phần ổn định giá trị đồng tiền. Tuy nhiên, cần nhận thức được rằng, cán cân thanh toán quốc tế thự