Khóa luận Dịch vụ ngân hàng quốc tế– giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệthống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam

Trong thời đại toàn cầu hoá hoạt động kinh tếnhưhiện nay, yêu cầu cấp bách được đặt ra là mọi lĩnh vực, ngành nghềkinh tếphải được cải tổcho phù hợp với đời sống kinh tếmới. Trong nền kinh tếphát triển, hoạt động và dịch vụngân hàng thương mại đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tếvà đời sống con người. Ngược lại, một nền kinh tếmuốn phát triển thì phải có một hệthống ngân hàng mạnh. Chính vì vậy, ưu tiên hàng đầu là nghiên cứu và phát triển các dịch vụngân hàng. Trong những năm gần đây, các nền kinh tếtrên thếgiới thường phải đối mặt với nhiều biến động trên thịtrường tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế nghiêm trọng. Các nhà kinh tếcũng nhưcác nhà quản lý trên thếgiới trên thế giới đặc biệt quan tâm, nghiên cứu đến lĩnh vực tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tếtiến tới công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Đảng và nhà nước ta luôn có chủtrương huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn phục vụcho sựnghiệp phát triển kinh tếxã hội trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn ngoài nước là rất quan trọng, nguồn vốn hỗtrơphát triển ODA cần được sựquan tâm đặc biệt. Đảng và nhà nước cũng chủtrương phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu. Tất cảcho thấy mối quan hệkinh tếvới nước ngoài là đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh ởnước ta. Mà mối quan hệnày muốn tồn tại và phát triển thì phải nhờvào các dịch vụngân hàng quốc tế. Do vậy việc nghiên cứu vềdịch vụngân hàng quốc tế ởcác ngân hàng quốc doanh ởViệt nam là rất cần thiết. Khoá luận tốt nghiệp này tập trung vào hệthống hoá vấn đềlý luận, làm rõ bản chất vai trò và lợi ích của dịch vụngân hàng quốc tế. Từlý luận dẫn đến đánh giá khách quan hoạt động ngân hàng quốc tế ởcác ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam. Khoá luận này không tập trung vào việc mô tảqui trình nghiệp vụ, mà chủyếu phân tích dữliệu nhằm mục đích giải 70 thích được vấn đề: Tại sao một sốdịch vụcó tồn tại nhưng chưa phát triển, một sốkhác có phát triển nhưng chưa đạt được trình độquốc tế, từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghịnhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động ngân hàng quốc tế ởcác ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam. Do hạn chếvềkhảnăng và giới hạn của một khoá luận tốt nghiệp nên không thểnghiên cứu một cách tỉmỉtất cảcác khía cạnh khác nhau của dịch vụngân hàng quốc tếmà chỉtập trung nghiên cứu những dịch vụngân hàng quốc tếchủyếu ởcác ngân hàng thương mại quốc doanh qua nhưng năm gần đây. Đềtài: Dịch vụngân hàng quốc tế– giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệthống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam Bốcục của khoá luận ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có ba chương Chương I: Những vấn đềcơbản vềdịch vụngân hàng quốc tế Chương II: Thực trạng dịch vụngân hàng quốc tế ởcác ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam Chương III: Những giải pháp hoàn thiện và phát triển dịch vụngân hàng quốc tếcủa các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam.

pdf103 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Dịch vụ ngân hàng quốc tế– giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệthống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ----------------------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ – GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM Sinh viên : Hà Duy Tiến Lớp : A2-CN9 Giáo viên hướng dẫn : Phan Anh Tuấn Hà Nội năm 2003 69 Lời mở đầu Trong thời đại toàn cầu hoá hoạt động kinh tế như hiện nay, yêu cầu cấp bách được đặt ra là mọi lĩnh vực, ngành nghề kinh tế phải được cải tổ cho phù hợp với đời sống kinh tế mới. Trong nền kinh tế phát triển, hoạt động và dịch vụ ngân hàng thương mại đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Ngược lại, một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có một hệ thống ngân hàng mạnh. Chính vì vậy, ưu tiên hàng đầu là nghiên cứu và phát triển các dịch vụ ngân hàng. Trong những năm gần đây, các nền kinh tế trên thế giới thường phải đối mặt với nhiều biến động trên thị trường tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế nghiêm trọng. Các nhà kinh tế cũng như các nhà quản lý trên thế giới trên thế giới đặc biệt quan tâm, nghiên cứu đến lĩnh vực tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tiến tới công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Đảng và nhà nước ta luôn có chủ trương huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn ngoài nước là rất quan trọng, nguồn vốn hỗ trơ phát triển ODA cần được sự quan tâm đặc biệt. Đảng và nhà nước cũng chủ trương phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu. Tất cả cho thấy mối quan hệ kinh tế với nước ngoài là đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh ở nước ta. Mà mối quan hệ này muốn tồn tại và phát triển thì phải nhờ vào các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Do vậy việc nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng quốc doanh ở Việt nam là rất cần thiết. Khoá luận tốt nghiệp này tập trung vào hệ thống hoá vấn đề lý luận, làm rõ bản chất vai trò và lợi ích của dịch vụ ngân hàng quốc tế. Từ lý luận dẫn đến đánh giá khách quan hoạt động ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam. Khoá luận này không tập trung vào việc mô tả qui trình nghiệp vụ, mà chủ yếu phân tích dữ liệu nhằm mục đích giải 70 thích được vấn đề: Tại sao một số dịch vụ có tồn tại nhưng chưa phát triển, một số khác có phát triển nhưng chưa đạt được trình độ quốc tế, từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam. Do hạn chế về khả năng và giới hạn của một khoá luận tốt nghiệp nên không thể nghiên cứu một cách tỉ mỉ tất cả các khía cạnh khác nhau của dịch vụ ngân hàng quốc tế mà chỉ tập trung nghiên cứu những dịch vụ ngân hàng quốc tế chủ yếu ở các ngân hàng thương mại quốc doanh qua nhưng năm gần đây. Đề tài: Dịch vụ ngân hàng quốc tế – giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam Bố cục của khoá luận ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có ba chương Chương I: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ ngân hàng quốc tế Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam Chương III: Những giải pháp hoàn thiện và phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam. 71 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ I . TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ 1. Đôi nét về lịch sử ngân hàng và dịch vụ ngân hàng Thuật ngữ "ngân hàng" đã có từ lâu. Tại thành Athène (Hylạp), các nhà đổi tiền được gọi Trapezita - bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "Trapeza"có nghĩa là cái bàn. Hoạt động mua bán, trao đổi, vay tiền được tiến hành trên các ghế dài gọi là Banca. Đây cũng là nguồn gốc tạo các từ Banque (Pháp), Bank (Anh, Mỹ, Đức), Banco (Italia)…. có nghĩa là ngân hàng sau này. Ngân hàng liên tục phát triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ ngân hàng đơn giản đã xuất hiện từ thời thượng cổ. Dưới thời Trung cổ, các hoạt động ngân hàng được mở rộng tại khắp các nước Châu Âu, Trung đông, Trung Hoa. Tuy hoạt động ngân hàng xuất hiện từ lâu, nhưng mãi đến đầu thế kỷ XV (1401), mới có một cơ quan trên thế giới được xem là một ngân hàng thực sự, đó là Banca di Barcelone ở Tây ban nha. Và sau đó ít năm, ngân hàng Banca di Valencia cũng đựơc thành lập ở Tây ban nha. Hai ngân hàng này được coi là hai ngân hàng đầu tiên trên thế giới đã thực hiện phần lớn các nghiệp vụ của ngân hàng hiện nay tuy qui mô và mức độ có khác nhau. Trước thế kỷ 17 hoạt động ngân hàng chỉ là buôn tiền, cho vay nặng lãi là chủ yếu và khách hàng chính là vua chúa và tầng lớp quí tộc giàu sang. Năm 1557 vua chúa các nước Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nhất loạt tuyên bố không trả nợ làm cho hàng loạt ngân hàng phá sản Do không chịu mức lãi suất cao quá mức, các nhà tư bản nông, công, thương nghiệp hùn vốn với nhau lập ra các ngân hàng, hội tín dụng để cho vay vốn với mức lãi suất có thể chấp nhận được. Loại ngân hàng này xuất hiện ở Vienise (Italia) năm 1589, Milan (Italia) năm 1593, Asmterdam (Hà 72 lan) năm 1600. Cuối thế kỷ 17 xuất hiện ngân hàng lớn nhất thế giới, ngân hàng Anh ở Luân đôn. Ngân hàng Anh là một công ty cổ phần lớn kinh doanh tín dụng tư bản với mức lãi suất thấp 6% năm và điều này buộc các ngân hàng cho vay nặng lãi phải hạ lãi suất theo và kinh doanh giống các ngân hàng tư bản. Trong suốt thế kỷ 18, các ngân hàng tư bản khác ở châu Âu lục địa, Bắc Mỹ lần lượt ra đời. Từ giữa thế kỷ 19 trở đi, các nước đế quốc mới thành lập các ngân hàng trên các nước phong kiến, thuộc địa, nửa thuộc địa như ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập năm 1875 tại Sài gòn (Việt nam). Trong thời đại hiện nay, việc kinh doanh tiền tệ không còn là độc quyền của các ngân hàng. Cùng với ngân hàng, các tổ chức tài chính khác như công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ tín dụng, hội tín dụng cho vay. Tuy nhiên khi nghiên cứu lịch sử dịch vụ ngân hàng cho thấy rằng có dịch vụ ngân hàng vẫn là của riêng ngân hàng. Dịch vụ Ngân hàng Quốc tế đã trải qua các giai đoạn phát triển sau: Giai đoạn sơ khai, ngân hàng nhận bảo quản, giữ hộ tiền, gửi tiền và cho vay tiền và hoạt động này diễn ra trên chiếc bàn dài (tiếng Lating là Bancus). Hoạt động này là nghiệp vụ ngân hàng đầu tiên, tồn tại lâu đời nhất. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phát triển không ngừng. Giai đoạn phát triển thứ hai Trong vòng năm thế kỷ - từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ X, nhiều hoạt động mới được áp dụng và đạt được những bước tiến mới về nghiệp vụ ngân hàng như: ♦ Ngân hàng bắt đầu ghi chép và theo dõi hoạt động của thân chủ qua số hiệu tài khoản. ♦ Ngân hàng áp dụng phương pháp bù trừ. Những chủ nợ của cùng một loại tiền hay tài sản thì được thanh toán chuyển nhượng lẫn nhau trong mua bán giữa họ ở cùng một ngân hàng và kể cả đối tác ở ngân hàng khác, và nợ đáo hạn được bù trừ. 73 ♦ Nghiệp vụ chuyển ngân, tức là chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác cũng được áp dụng. ♦ Ngân hàng cũng làm nghiệp vụ bảo lãnh, là biểu hiện ban đầu của hình thức chấp nhận các thương phiếu trong nghiệp vụ ngân hàng hiện đại ♦ Ngân hàng đã áp dụng chiết khấu thương phiếu. Giai đoạn thứ ba: Ngân hàng đánh dấu sự phát triển vào giai đoạn thứ ba với việc mạnh dạn cho vay tiền, tạo ra các khoản tiền mới trong lưu thông. Ngân hàng từ lâu đã phát hành các chứng thư (như séc ngày nay) khi có người gửi vào ngân hàng bằng tiền vàng hoặc tiền đúc - 100 tiền ngân hàng thay cho 100 tiền vàng đúc. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XVII khi chứng thư được chấp nhận rộng rãi và nhu cầu tăng đột ngột, một số ngân hàng đã phát hành các chứng thư tự do (không có tiền vàng bảo đảm) và tiền ngân hàng ra đời. Tuy nhiên tiền ngân hàng (Bank notes) chỉ được lưu hành rộng rãi từ đầu thế kỷ XX sau khi nhà nước độc quyền phát hành giấy bạc pháp định. Ngày nay do sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là khoa học công nghệ, dịch vụ ngân hàng đã phát triển về mọi mặt và ra đời những loại sử dụng công nghệ cao như thanh toán bằng thẻ điện tử, ứng dụng mạng SWIFT….. Do sự đa dạng của dịch vụ ngân hàng nên không thể có định nghĩa cụ thể, thống nhất về dịch vụ ngân hàng. Hiểu nôm na dịch vụ ngân hàng nói chung là tất cả những việc mà ngân hàng thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. 2. Lịch sử phát triển của dịch vụ ngân hàng quốc tế Trong lịch sử phát triển lâu dài của hoạt động ngân hàng như nêu ở phần trên, có xuất hiện mầm mống hoạt động ngân hàng quốc tế tại các nước ở châu Âu vào thế kỷ 13. Vào thế kỷ 19, các nước thực dân đã mở rộng vùng thuộc địa của mình, tìm kiếm thị trường ngoài lãnh thổ của mình. Các ngân hàng thương mại của Anh và Pháp đã thiết lập nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Mạng lưới chi nhánh của họ bao trùm trên lãnh thổ châu Âu và các vùng lãnh 74 thổ thuộc địa. Ngân hàng Đông Phương của Anh thành lập tại Trung Quốc, ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập ở Việt Nam. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các nước châu Âu rất cần tiền để tái thiết nền kinh tế bị huỷ hoại nặng nề bởi chiến tranh và Mỹ là nhà tài trợ chính. Ngoài ra sự tăng trưởng chưa từng có về đầu tư và thương mại quốc tế trên thế giới sau chiến tranh thế giới thứ II đã dẫn đến sự phát triển không ngừng các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại. Với các hiệp định “Land Bank”, “Marshall”, các ngân hàng Hoa kỳ đã cho nước ngoài vay hàng chục tỷ USD. Rất nhiều ngân hàng thương mại Hoa kỳ, trong thập niên 60, tăng lên nhanh chóng về quy mô đã đưa đến chủ trương mở rộng nghiệp vụ ngân hàng ra nước ngoài (cả các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển), đó là phản ứng tự nhiên của việc phát triển nghiệp vụ ngân hàng trong nước và đáp nhu cầu tham gia vào thị trường tài chính quốc tế và những đổi mới trong lĩnh vực này đã tạo ra rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới. Lịch sử phát triển ngân hàng gọi đây là làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế thứ nhất.  Một vài thập kỷ sau thế chiến thứ II kết thúc, bên cạnh sự phát triển kinh tế vượt bậc của Mỹ, các quốc gia châu Âu như Anh, Pháp, Đức... các nước tư bản khác như Canada và đặc biệt là Nhật cũng giành được những thành tựu kinh tế quan trọng. Lẽ tất yếu khi kinh tế phát triển kéo theo việc các ngân hàng của các quốc gia công nghiệp hoá, đặc biệt là ngân hàng các nước Canada, Nhật bản, Đức, Anh, Pháp cũng theo gương của các Ngân hàng Hoa kỳ ra sức mở rộng nghiệp vụ của mình ra nước ngoài trong thập kỷ 70. Lịch sử ngân hàng gọi đây là làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế thứ hai. Bên cạnh làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng ồ ạt của các nước tư bản, có một làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng thứ ba của các nước đang phát triển diễn ra bình lặng vào cuối thập kỷ 70. Làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng thứ tư bắt đầu bằng sự kiện ra 75 đời đạo luật nhất thể hoá châu Âu ban hành vào năm 1986; trong đó Cộng đồng Châu Âu xoá bỏ mọi rào chắn đối với luồng vốn quốc tế. Điều này tạo điều kiện cho dịch vụ ngân hàng quốc tế phát triển mạnh mẽ về chất lượng và số lượng và vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế mang tính toàn cầu hoá. 76 3. Bản chất dịch vụ ngân hàng quốc tế 3.1. Định nghĩa dịch vụ ngân hàng quốc tế Phần trên đã cho thấy một bức tranh tổng quát về dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng quốc tế nói chung, nhưng để xây dựng định nghĩa dịch vụ ngân hàng quốc tế cần: ♦ Căn cứ phân biệt nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và nghiệp vụ ngân hàng trong nước là loại hoạt động kinh doanh mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng của họ có tính quốc tế hay không. Điều này được giải thích bởi ba lý do sau ♦ Thứ nhất, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là loại hoạt động trợ giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu của khách hàng thông qua hoạt động tài trợ thương mại quốc tế. Điều này có nghĩa là nghiệp vụ ngân hàng trong trường hợp này gắn bó chặt chẽ với thương mại quốc tế. ♦ Thứ hai, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là loại hoạt động đáp ứng nhu cầu trao đổi ngoại tệ của khách hàng nhằm thực hiện các giao dịch thương mại và đầu tư qua biên giới quốc gia. ♦ Thứ ba, vì các ngân hàng hoạt động kinh doanh quốc tế có điều kiện thuận lợi kinh doanh ngoại tệ, họ cũng thường kinh doanh ngoại tệ cho chính số tiền của họ. ♦ Một căn cứ nữa để phân biệt nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và nghiệp vụ ngân hàng trong nước của ngân hàng thương mại là nghiệp vụ ngân hàng quốc tế diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia; còn nghiệp vụ ngân hàng trong nước chỉ diễn ra trong nội bộ quốc gia và đối tượng khách hàng là pháp nhân, thể nhân của quốc gia đó. Như vậy ta có thể đưa ra định nghĩa dịch vụ ngân ngân hàng quốc tế: Dịch vụ ngân hàng quốc tế là các giao dịch ngân hàng liên quan tới một hoặc nhiều bên đối tác ở ngoài biên giới nước có trụ sở chính của ngân hàng cung cấp dịch vụ 77 Trên phương diện phân loại nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là một dạng hoạt động kinh doanh quốc tế thì nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương mại có thể được coi là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động đầu tư và cung ứng dịch vụ tiền tệ và tài chính quốc tế trên thị trường trong nước và quốc tế nhằm mục đích sinh lời. Việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, các ngân hàng thương mại tổ chức bằng hai phương thức sau:  Tiến hành các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại nước ngoài bằng cách thiết lập các chi nhánh, công ty con, văn phòng đại diện. v.v ở nước ngoài.  Tổ chức một bộ phận kinh doanh quốc tế được chuyên môn hoá tại trụ sở chính để thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. 3.2. Đặc điểm nghiệp vụ ngân hàng quốc tế Mặc dù ngày nay dịch vụ ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương mại phát triển đa dạng về hình thức cũng như nội dung, tuy nhiên sau khi nghiên cứu về học thuật cũng như quá trình vận động phát triển của nó, chúng ta rút ra những đặc điểm chung như sau:  Xu thế gia tăng nhanh hơn mức tăng tiềm lực sản xuất: Như đã trình bày trong phần lịch sử phát triển, ngày nay xu thế quốc tế hoá hoạt động ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ. Trong lĩnh vực kinh doanh và sản xuất hàng hoá cũng diễn ra xu thế toàn cầu hoá nhưng thực tế cho thấy mức độ thấp hơn của thị trường tài chính. Hàng ngày, lượng tiền tệ lưu chuyển trên thị trường tài chính thế giới cao gấp 30 lần khối lượng hàng hoá lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Đối với các nước đang phát triển, chỉ trong 8 năm (1990- 1997), dòng vốn đầu tư tư nhân đổ vào tăng hơn 5 lần. Trong khi mậu dịch quốc tế của giai đoạn này chỉ tăng 5%/năm thì dòng vốn tư nhân lưu chuyển tăng 30%/ năm. 78  Dịch vụ ngân hàng quốc tế đề cao nhân tố con người: Đặc điểm này do đặc điểm kinh doanh quốc tế hiện nay tạo ra. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ và kinh tế cũng như sự phức tạp của bối cảnh toàn cầu hoá, kinh doanh dịch vụ ngân hàng quốc tế đòi hỏi các nhà hoạt động ngân hàng phải: - Hiểu biết sâu sắc về hoạt động kinh doanh, cả kinh doanh trong nước lẫn khinh doanh đối ngoại, có kiến thức rộng và thường xuyên cập nhật về thị trường trong nước và quốc tế, ngoài ra phải có kiến thức sâu rộng về tài chính quốc tế. - Hiểu biết và áp dụng thành thạo các ứng dụng của khoa học công nghệ. Ngày nay, hầu hết các ngân hàng kinh doanh quốc tế đều sử dụng mạng toàn cầu Swift, mạng giao dịch kinh doanh toàn cầu Reuter, và ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh. Do vậy việc sử dụng thành thạo các tiện ích ngân hàng, máy tính và công nghệ thông tin là bắt buộc - Phải hiểu biết thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, tiếng Anh là bắt buộc. Do là kinh doanh quốc tế nếu không thông thạo ngoại ngữ thì không làm việc được - Do bối cảnh hoạt động kinh doanh đòi hỏi rất nhiều về trình độ của nguồn nhân lực, nên việc tập trung vào phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực là điều tất yếu  Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có tính rủi ro cao: Do sự phức tạp của kinh doanh quốc tế nên thường xảy ra việc tăng, giảm đột ngột về ngoại tệ, lãi suất, trục trặc trong thanh toán quốc tế, biến động chính trị….Vì vậy nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có mức độ rủi ro cao hơn nghiệp vụ ngân hàng ở trong nước. Tuy nhiên, rủi ro càng cao lợi nhuận càng lớn nên các ngân hàng vẫn phát triển hoạt động kinh doanh quốc tế để có cơ hội và tiềm năng phát triển lâu dài.  Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế chịu ảnh hưởng nhiều bởi luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế: Đặc điểm này do tính quốc tế của dịch vụ 79 ngân hàng quốc tế quyết định. Do sự phức tạp trong môi trường hoạt động kinh doanh quốc tế, do sự không thống nhất về luật pháp giữa các quốc gia, do trình độ phát triển không đồng đều mà đòi hỏi phải có luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho các ngân hàng thực hiện dịch vụ ngân hàng quốc tế. 3.3 Động cơ tiến hành dịch vụ ngân hàng quốc tế  Động cơ dễ hiểu nhất là mong muốn theo đuổi các khách hàng khi các khách hàng của họ thực hiện hoạt động ra nước ngoài. Đây là một nguyên lý Marketing truyền thống “theo chân khách hàng”. Các công ty của Mỹ những năm 60, 70 của Nhật và châu Âu trong thập niên 70 hăng hái mở rộng hoạt động ra nước ngoài thì các ngân hàng của họ cũng theo sau. Động cơ này có phần mang tính phòng vệ, bởi vì các ngân hàng muốn duy trì và củng cố các mối quan hệ với các khách hàng và muốn chứng tỏ một điều là họ có kiến thức và chất lượng phục vụ cao hơn các ngân hàng địa phương.  Động cơ khác thúc đẩy các ngân hàng mở rộng ra quốc tế là nhằm đa dạng hoá cơ sở kinh doanh của họ. Các ngân hàng đầu tư vào các khoản cho vay có đặc tính khác với các khoản vay nội địa. Loại nhu cầu về các khoản vay nước ngoài có thể bù đắp các biến động về nhu cầu khoản vay nội địa vì vậy có tác dụng làm bình ổn thu nhập của ngân hàng. Hơn thế nữa nhờ đa dạng hoá kinh doanh mà làm thu nhập ngân hàng tăng, khả năng cạnh tranh mạnh, phân tán được rủi ro, thiết lập nhiều quan hệ kinh doanh tạo tiền đề thực hiện đầu tư kinh doanh sau này. 4. Các hình thức tổ chức nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và vai trò của các trung tâm tài chính quốc tế 4.1. Các hình thức tổ chức nghiệp vụ ngân hàng quốc tế Như chúng ta đã biết, nét đặc trưng để phân biệt dịch vụ ngân hàng quốc tế với dịch vụ ngân hàng trong nước đó là tính quốc tế. Xét về mặt không gian thì khoảng cách địa lý giữa các đối tác là lớn, vượt ngoài phạm vi 80 biên giới quốc gia. Chính vì vậy ngân hàng thương mại ngoài trụ sở chính còn phải sử dụng nhiều hình thức khác như : Văn phòng đại diện: là đơn vị dịch vụ nhỏ do ngân hàng mẹ thành lập ở nước ngoài nhằm trợ giúp cho các công ty trong nước kinh doanh ở nước ngoài, là đối tác nước ngoài của ngân hàng mẹ, trong việc quan hệ với các ngân hàng đại lý. Các văn phòng này thường có ít nhân viên, không nhận tiền gửi, và chủ yếu thực hiện các công việc chuẩn bị cơ bản cho các khoản vay đối với người đi vay từ trụ sở chính, phát triển hoạt động kinh doanh… Việc thiết lập văn phòng đại diện ở nước ngoài thường là bước đầu tiên trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Chi nhánh ngân vỏ bọc: là các văn phòng nước ngoài được thiết lập nhằm tham gia vào các thị trường tiền tệ châu Âu để dành các khoản nợ đồng đô la châu Âu hay thực hiện các khoản vay ngân hàng nước ngoài. Chúng nằm chủ yếu ở những nơi có nền tài chính chủ yếu, như Bahamas, nơi chúng hoạt động mà không phải chịu thuế; họ không quan tâm đến công việc kinh doanh ở địa phương. Loại hình này xuất hiện nhiều ở Mỹ. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện dịch vụ trọn gói: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện trọn gói là sự mở rộng của ngân hàng chính, hoạt động như các ngân hàng tại nước đó nhưng về m
Tài liệu liên quan